- Tranh họa
sĩ
Nguyễn Trọng Khôi:

Truyền thuyết Mỵ ChâuTruyền Thuyết Mỵ Châu,
tranh
Nguyễn Trọng Khôi
-Soạn
giả Viễn Châu
viết
6 câu
vọng cổ
rất cảm động, xin trích bản vắn Trăng Thu Dạ Khúc:
Hỡi bao oan nghiệt chất chồng từ đây bao trái ngang,
Non sông điêu tàn,
Ngấn lệ tuôn tràn,
V́ yêu con đánh mất giang san,
Để cha rớt lệ cầm gươm giết con,
Đoạn ĺa t́nh thâm,
Cốt nhục chia ĺa,
Gió lên tống biệt linh hồn Mỵ Châu sang bến mơ.
- Tuồng
cải lương “Chiếc áo thiên nga” tŕnh diễn tại
nhà
hát Trần Hữu Trang.
- Vở
kịch nói “Nỏ
Thần”
tŕnh diễn trên sân khấu Phú Nhuận.
- Tuồng cải lương của nhóm nghệ sĩ Kim Tử Long, Ngọc Huyền…
- Những danh ca Lê Thủy, Thanh Sang, Hữu Phước, Thanh Kim Huệ… hát 6 câu
vọng cổ.
- Đề tài Trọng Thủy-Mỵ Châu c̣n nhiều nữa, nhưng ở đây chỉ xin đơn cử một
số tác giả tiêu biểu trong các lănh vực thi, ca, nhạc, kịch, sân khấu, cải
lương và hội họa.
II. Năm 2011, thi sĩ Uyên Thúy Lâm có làm một bài thơ tựa đề:
T̀NH
SỬ CỔ LOA THÀNH
Trong đó chuyên chở t́nh cảm/thái độ của ḿnh đối với hai nhân
vật lịch sử Trọng Thủy-Mỵ Châu (TT-MC).
1. Trước khi t́m hiểu bài thơ xin lược qua
truyền thuyết:
Thục Phán An Dương Vương (257 tr.TL - 208 tr.TL) xây thành Cổ Loa bị
yêu quái phá, nhờ thần Kim Quy giúp mới xây xong. Thần cho cái
móng thiêng,
Vua sai Cao Lỗ làm nỏ thần, lấy móng thiêng làm lẫy, đặt tên là Linh Quang
Kim Trảo Thần Nỏ
bắn 1 phát
giết
ngh́n quân giặc,
đánh bại quân xâm lược Triệu Đà. Đà
sai sứ đến giảng ḥa,
Vua mừng.
Năm 208 (tr.TL)
Đà sai con là Trọng Thủy vào hầu làm túc vệ, cầu hôn con gái vua là Mỵ
Châu. Vua
không nghe lời Cao
Lỗ
can ngăn,
bằng ḷng cho cưới
và ở rể.
Trọng Thủy dỗ Mỵ Châu để xem trộm nỏ thần, rồi ngầm bẻ găy lẫy nỏ, thay
cái khác vào, giả vờ về Bắc thăm cha mẹ, bảo Mỵ Châu rằng: "Ân t́nh vợ
chồng không thể quên nhau, nếu lỡ hai nước không ḥa, Nam Bắc cách biệt,
ta lại tới đây th́ làm thế nào mà t́m thấy nhau?" Mỵ Châu nói: "Thiếp có
cái áo gấm lông ngỗng, thường mang theo ḿnh, đi đến đâu th́ rút lông
ngỗng rắc ở chỗ đường rẽ để làm dấu". Trọng Thủy về báo cho Đà biết. Đà
đem quân đến đánh, vua không biết lẫy nỏ đă mất, ngồi đánh cờ cười mà bảo:
"Đà không sợ nỏ thần của ta sao?". Quân của Đà tiến sát đến nơi, vua
giương nỏ th́ lẫy đă găy rồi. Vua thua chạy, để Mỵ Châu ngồi trên ngựa,
cùng chạy về phía nam. Trọng Thủy nhận dấu lông ngỗng đuổi theo. Vua đến
bờ biển, hết đường mà không có thuyền, liền gọi rùa vàng mấy tiếng: "Mau
đến cứu ta!" Rùa vàng nổi lên mặt nước, mắng rằng: "Kẻ ngồi sau ngựa là
giặc đấy, sao không giết đi?". Vua rút gươm, Mỵ Châu khấn rằng: "Trung tín
trọn tiết, bị người đánh lừa, xin hóa thành ngọc châu để rửa thù nhục
này". Cuối cùng vua vẫn chém Mỵ Châu, máu chảy loang mặt nước, loài trai
nuốt vào bụng, hóa làm hạt minh châu. Vua cầm sừng tê văn dài 7 tấc xuống
biển mà đi. Trọng Thủy đuổi theo đến nơi, thấy Mỵ Châu đă chết, thương
khóc ôm xác đem về chôn ở Loa Thành, hóa làm đá ngọc. Trọng Thủy nhớ tiếc
Mỵ Châu, trở lại chỗ Mỵ Châu tắm gội trang điểm khi trước, thương nhớ
không nguôi, cuối cùng nhảy xuống giếng mà chết.
Tương truyền ngọc ấy đem rửa nước giếng Trọng Thủy th́ trong sáng bội
phần. Hiện nay giếng Trọng Thủy (TT), am Mỵ Châu (MC), đền An Dương Vương
(ADV) vẫn c̣n ở Cổ Loa, Bắc Việt.
(Theo Đại Việt Sử Kư Toàn Thư).
2.
Trong bài thơ T́nh Sử Cổ Loa Thành
(TSCLT) của ḿnh, nhà thơ Uyên Thúy Lâm (UTL) không ghi lại từ đầu câu
chuyện cổ tích, mà chỉ ghi lại từ lúc Trọng Thủy
(TT)
từ biệt
vợ
về cố quốc cho đến hết chuyện, bằng những
vần thơ thất ngôn
buồn vời vợi. Bữa tiệc tiễn chồng nơi cung cấm có Bồ đào mỹ tửu, có khúc
Nghê Thường với xiêm y rực rỡ, nhưng tất cả đều trở nên vô vị:
Trong cung cấm sao chàng lặng lẽ
Không cười vui bên thiếp hiền ngoan
Chung mỹ tửu chiều nay ướp lệ
Chàng không vui , ḷng thiếp ngỡ ngàng
Khúc Nghê Thường xiêm y rực rỡ
Rượu Bồ đào cùng uống chung môi
Hồi cố quốc chàng xa một thuở
Rồi lại quay về ta sánh đôi
Tựa đề là “T́nh sử Cổ Loa Thành” nhưng nội dung chỉ là lời than thở,
nỗi niềm tâm sự sầu khổ của Mỵ Châu (MC) là nhân vật chính. Mọi sự việc
đều được ghi nhận, diễn tả qua lăng kính tâm hồn nàng. Thiên t́nh sử rất
dài, nhưng tác giả UTL chỉ chọn phần đời bi thảm, nhờ thế mà cường độ xúc
cảm trong thơ rất mạnh, bố cục bài thơ chặt chẻ nhất quán. Giống như
chuyện Lưu Nguyễn rất dài nhưng Tản Đà chỉ ghi lại khoảnh khắc tâm trạng
Lưu Nguyễn khi từ biệt cảnh Thiên Thai mà thôi. Như trên đă nói, trong bữa
tiệc tiễn đưa, người về thành Phiên Ngung trên danh nghĩa thăm cha, người
ở lại thành Cổ Loa nước Âu Lạc tức nước Việt xưa, tác già Uyên Thúy Lâm
(Tg UTL) chọn lọc t́nh tiết, tâm lư, ngôn ngữ thật đẹp và sử dụng thể thơ
trường thiên thất ngôn tứ tuyệt vốn có âm điệu cổ kính trầm buồn: để giới
thiệu một cuộc t́nh diễm lệ, độc đáo, tuyệt vời (không thua một cuộc t́nh
nào trên thế giới). Thiển nghĩ chọn chủ đề khó khăn này, ngay bước đầu tác
giả cũng đă cho thấy sự can đảm và tự tin nơi cây bút của ḿnh.
Chúng ta biết chuyện t́nh Romeo-Juliette của đại văn hào Shakespeare
đă vượt lên trên biên giới hận thù của hai ḍng họ, nhưng chuyện t́nh
Trọng Thủy-Mỵ Châu c̣n bay cao hơn, đă vượt lên trên biên cương thù hận
của hai quốc gia, hai chủng tộc, trở thành bản giao ước bất thành văn chấm
dứt chiến tranh, tái lập ḥa b́nh cho hai nước thù địch từng đánh nhau
khốc liệt do Triệu Đà xua quân xâm lược trước đó. Trọng Thủy tự tử chứng
tỏ t́nh yêu quá vĩ đại coi thường cả ngai vàng, lợi danh, phản kháng chiến
tranh xăm lược, thủ phạm gây ra cảnh chia ĺa chết chóc của đôi trẻ đang
yêu.
Qua đó có thể nói văn minh Âu Lạc vào cuối thời kỳ lập quốc (Văn Lang-
Âu Lạc (2879 tr.TL - 258 tr.TL)-(257 tr.TL - 208 tr.TL) đă để lại cho
chúng ta một tác phẩm văn học (chuyện cổ tích) chủ đề t́nh yêu/chiến tranh
thật vô cùng bi tráng, lăng mạn, giàu nhân bản, vĩ đại hàng đầu trong văn
học sử thế giới kim cổ cùng thể loại.
Nay cuộc t́nh ấy được tái hiện trong thơ UTL đầy tính vương giả, t́nh
tứ, lăng mạn và đẹp qua h́nh ảnh “rượu Bồ đào cùng uống chung môi” và qua
niềm hy vọng đoàn viên trong ḷng cô Công chúa trẻ đang yêu “rồi lại quay
về ta sánh đôi”. Tg tả đúng tâm trạng ngây thơ hồn nhiên trong sáng của cô
Công chúa khi dùng 2 chữ “hiền ngoan” cũng như đă điểm trúng huyệt hai
nhân vật qua hai câu thơ sau:
Trong cung cấm sao chàng lặng lẽ,
Không cười vui bên thiếp hiền ngoan
Trong lúc nàng hiền ngoan như viên ngọc trai chưa lấm bụi trần, chưa
một lần t́ vết th́ chàng lại khác: “lặng lẽ, không cười vui”. Mà cười vui
sao đuợc khi trong ḷng đang chồng chất ngổn ngang bao toan tính và thủ
đoạn chết người. Dưới ng̣i bút tinh tế, Tg UTL kín đáo cho thấy đó chính
là đám mây xám vừa bay ngang qua bầu trời tím báo hiệu trong 5 chữ vừa
nêu. Cho dù Trọng Thủy tay gián điệp tài ba giỏi giấu diếm, che đậy thế
nào, cũng không giữ được trăm phần tự nhiên khi đối diện với giai nhân,
ng̣i bút UTL đă tinh tế đến như vậy. Nhưng cái bi đát lại nằm ở chỗ Mỵ
Châu không nh́n thấy, không ngờ tới. Ngay trong lời nói từ cửa miệng TT
thốt ra: “nếu
lỡ hai nước không ḥa, Nam Bắc cách biệt”
nàng cũng
không thắc mắc, vẫn nhất mực “hiền ngoan”! Tg đă diễn tả quá chính xác
t́nh tiết và tâm lư hai nhân vật.
Hai khổ thơ kế tiếp kết cấu bằng những âm “bằng” trầm buồn “tương
phùng, bẽ bàng” đặt ở cuối mỗi khổ tạo ra không khí năo nề, u uất trong
ḷng người đọc. “Chàng đi ngàn dặm ngoài biên ải, ḷng thiếp theo chàng
đến cố cung” làm nhớ cảnh chia ly trong Chinh Phụ Ngâm (Chàng th́ đi cơi
xa mưa gió, thiếp lại về buồng cũ gối chăn) năo nùng, bi xúc! Nỗi ḷng Mỵ
Châu qua thơ UTL không khác nỗi ḷng Kiều ở Lầu Ngưng Bích bời bời nhớ
thương. “Trường đ́nh quạnh vắng chẳng tin sang, đâu biết lần đi là măi
măi, đời không cho nữa phút tương phùng!”. Tg báo động tấn thảm kịch chiến
tranh nhơ nhuốc, bỉ ổi, đầy thủ đoạn đê hèn sắp sửa đổ ụp lên Cổ Loa
Thành. Những chữ “trường đ́nh quạnh vắng, canh thâu vắng” chữ vắng lặp đi
lặp lại là cố ư tạo ra khoảng không gian vắng lặng đồng nghĩa với “im lặng
là sự chuẩn bị của một cơn băo” hay của một sự dời đổi kinh thiên động
địa:
Chàng đi ngàn dặm ngoài biên ải
Ḷng thiếp theo chàng đến cố cung
Đâu biết lần đi là măi măi
Đời không cho nữa, phút tương phùng !
Ngàn dặm trông theo hút bóng chàng
Trường đ́nh quạnh vắng chẳng tin sang
Thẩn thờ gối chiếc canh thâu vắng
Một nửa vầng trăng luống bẽ bàng !
Vâng, Tg UTL không bắt độc giả chờ lâu. Băo đă thổi, can qua
đă ngập tràn:
Tin hồng chưa lại đă can qua
Binh biến nghiêng trời đất Cổ Loa
Cả hai cha con đứng đầu vận mệnh một dân tộc/quốc gia, mà ai cũng bàng
quang, thơ ngây, hiền lành, vô trách nhiệm. Con th́ nhẹ dạ cả tin, cha th́
mất cảnh giác, chủ quan, khinh địch. Tất cả đều mù quáng tin vào cuộc liên
minh “ḥa hiếu” ma quỷ, tin vào lời đường mật “hôn nhân” ru ngủ của kẻ thù
đồng nghĩa với sự tự đào huyệt chôn ḿnh, đưa dân tộc vào ṿng nô lệ ngàn
năm. Ngoài biên ải không pḥng bị, nơi quốc pḥng không canh tân luyện
tập, trong nhà chứa chấp kẻ gian mà qua bao năm trời chẳng hề hay biết. Nỏ
thần (bí mật quân sự) đă lọt vào tay địch mà cũng chẳng ai hay.
Trong truyền thuyết nói:“Đà
đem quân đến đánh vua, vua không biết lẫy nỏ đă mất, ngồi đánh cờ cười mà
bảo: "Đà không sợ nỏ thần của ta sao ».
« Mỵ Châu không
ngần ngại, chạy ngay vào chỗ cha nằm, lấy nỏ đem ra cho chồng xem. Nàng
lại chỉ cho chàng biết cái lẫy vốn là chiếc móng chân thần Kim Quy và
giảng cho Trọng Thuỷ nghe biết cách bắn.”
Bi đát ở chỗ cả hai cha con (cũng là vua tôi) đều hoàn toàn mất cảnh
giác:
Cha vững tin nỏ thần linh nghiệm
Thiếp cũng nào hay chuyện chính tà
Giặc đă đánh tráo nỏ thần, thành đă mất, cha con đă lên ngựa bôn đào,
mà cô Công chúa vẫn chưa biết chồng ḿnh là gián điệp, là giặc hiện đang
tấn công Cổ Loa thành. Kể cũng lạ thật! Con vua sao đến nỗi dại khờ! Cùng
đường chết tới nơi rồi, mà vẫn nuôi ư tưởng t́m chàng “t́m chàng đâu muôn
nẻo binh đao?!”. Và vẫn mơ tưởng gặp lại chàng khi thả đầy lông ngỗng trên
bước đường thập tử. Qua đó, ta thấy t́nh yêu của nàng thật là hồn nhiên.
Hồn nhiên như tờ giấy trắng, mănh liệt như thác đổ, và mênh mông vô cùng
tận:
Nỏ tráo móng thiêng, thành đă mất
Em bên cha trên bước bôn đào
Nước mất tim đau ḷng quặn thắt
T́m chàng đâu muôn nẻo binh đao ?!
Lông ngỗng trắng rơi dài tuyệt lộ
Nặng t́nh đâu cảnh giác chi cùng
Sống hết ḷng ḿnh như thác đổ
Em yêu chàng vô thủy, vô chung !
Đến khi Thần Kim Quy hiện ra phán, th́ cha con mới hiểu sự thật. Tỉnh
ngộ muộn màng. Vua (và cha) th́ u mê, chủ quan, khinh địch, coi sự vui
chơi cá nhân là trên hết. Tôi (và con) th́ đặt t́nh riêng trên đất nước.
Trách nhiệm vua tôi, cha con như thế hỏi sao không quốc phá gia tan? Cái
chết bi thảm phải nhận lảnh cũng là lẽ thường t́nh:
Thần phán rằng : "Nàng là giặc dữ "
Cha nh́n lông ngỗng trắng sơn khê
Ḷng con vằng vặc như sao tỏ
Phụ vương ơi ! Oan khuất con về...
Tất cả đă tan nát, lời thề xưa đă trễ, duyên t́nh đă tan và đế quyền
cũng tắt. Chỉ c̣n một “khối u t́nh” chôn giếng xưa, chảy tràn trên biển
sóng. Khối t́nh sẽ sáng trong đẹp đẽ khi hai trái tim được ḥa vào nhau,
khi ngọc trai được rửa giếng cổ thành:
Lời hẹn thề xưa chàng đă trễ
Giếng xưa chôn một khối u t́nh
Sóng biển đă chan ḥa máu lệ
Duyên ḿnh tan tác bởi đao binh
Ngọc trai nàng rực sáng long lanh
Khi rữa vào trong giếng Cổ thành
Tham đoạt đế quyền rồi cũng tắt
C̣n vầng mây đáy giếng mông mênh!
Bằng trái tim đa cảm, Tg UTL không thể kết án MC nặng lời mà chỉ “tiếc”
cho nàng. Bao nhiêu oán giận Tg đổ hết lên đầu TT. UTL dùng 2 lần chữ quên
“bạc t́nh chàng quên, phụ t́nh chàng quên” để kết tội TT. Đúng thế, TT
đáng trách! Tàn ác, lừa dối, thủ đoạn, gian manh. Trong lúc MC đặt t́nh
yêu lên trên tất cả, th́ TT lại xem nhẹ t́nh nàng, mượn t́nh yêu để phục
vụ cho ư đồ đen tối. Tuy nhiên khi đă đạt được mộng xâm lăng th́ hốt nhiên
giác ngộ, thức tỉnh, ân hận, lương tâm dày ṿ, rồi đâm đầu xuống giếng
chết giống như Giu- đa hối hận quăng 30 đồng bạc rồi đi treo cổ sau khi đă
bán Chúa Giê-su.
Chính cái chết của TT dưới giếng sâu đă làm cho cuộc t́nh thăng hoa,
bất tử và có ư nghĩa: t́nh yêu vượt lên trên mọi giới hạn đời thường, từ
chối địa vị, danh vọng, giàu sang, những thứ dễ dàng làm sa đọa tâm hồn,
dễ biến con người thành lạc đà trước lỗ kim của cánh cửa thiên đường, và
sau cùng là tiếng nói nhân bản phản kháng chiến tranh xâm lược. Nếu TT ôm
ngôi cao th́ t́nh sử Cổ Loa Thành không c̣n ǵ đẹp đẽ nữa:
Bạc t́nh chàng quên nghĩa phu thê
Quên cả lời xưa buổi hẹn về
Đem tấm t́nh son vùi gió cát
Đất rộng trời cao thẹn ước thề !!
Phụ t́nh chàng quên cả ân sâu
Mưu đồ tham vọng giết đời nhau
Nàng sống trọn ḷng không giới hạn
T́nh sử ngàn năm tiếc Mỵ Châu.
Cám ơn Tg UTL đă cho chúng ta sống lại một thời huyền sử với đầy đủ cảm
xúc yêu ghét giận hờn trước các nhân vật, đồng thời nhận ra t́nh yêu vĩ
đại cùng sự bất hạnh quá lớn của họ. Không biết trong văn học sử thế giới
có nhân vật nào đau thương như Công chúa Mỵ Châu?
3.
T́nh sử
TT-MC
c̣n có một giá trị tiềm ẩn:
văn hóa người Việt cổ nhân hậu nhân bản đối nghịch với văn hóa người Hán
tàn độc phi nhân bản, mà sau này Nguyễn Trăi có nói trong B́nh Ngô Đại
Cáo:
4. T́nh sử TT-MC thiển nghĩ không chỉ giới hạn
ở giá trị văn học (bi kịch t́nh yêu), đạo đức (nhân bản) như đă tŕnh bày,
mà c̣n có giá trị về lịch sử (bi kịch mất nước). Đây mới chính là bài học
xương máu, bài học cảnh giác, thông điệp vàng ṛng mà tổ tiên muốn gởi đến
con cháu trong xây dựng và bảo vệ đất nước trước mưu đồ đen tối của kẻ thù
truyền kiếp.
Tôi hiểu
tác giả UTL đưa lên Diễn Đàn bài thơ TSCLT trong lúc t́nh h́nh đất nước
lâm nguy (đang bị Trung cộng Hán hóa, xâm nhập, bành trướng, chiếm đất,
chiếm biển) là tâm huyết, là ḷng yêu nước trăn trở thao thức, muốn nhắc
nhở, tô đậm lại bài học mất cảnh giác dẫn đến mất nước năm xưa:
Lông ngỗng trắng rơi dài tuyệt lộ
Nặng t́nh đâu cảnh giác chi cùng
Đúng như nhận xét của nhà thơ NXạn sau khi đọc TSCLT:
“Bài học Cảnh giác là bài học có giá trị ngàn năm, mà gương người xưa
nhắc nhở chúng ta trong việc Giữ nước, phải luôn luôn đề cao cảnh giác
trước mưu thần chước quỷ của kẻ xâm lăng. Ngày nay, trước họa xâm lược của
Hán gian, có lẽ chúng ta c̣n cần ôn lại nhiều hơn nữa, bài học mất cảnh
giác đă đưa đến mất cả giang sơn như người xưa đă để mất!.”
Chưa bao giờ bài học cảnh giác phù hợp với hiện t́nh đất nước như bây
giờ. Nh́n qua, chúng ta thấy rơ những ai là ADV, TT, Mỵ Châu? Đâu là cuộc
hôn nhân ḥa hiếu ma quỷ, đâu là lông ngỗng trắng dẫn đường quân giặc?
T́nh h́nh VN hiện nay giống y như t́nh h́nh Âu Lạc xưa: Triệu Đà tấn công
Âu Lạc thất bại xin kết thông gia ḥa hiếu, Đặng Tiểu B́nh đánh 6 tỉnh
phía Bắc thất bại đưa ra 4 tốt 16 chữ vàng; Trọng Thủy ra vào thành Cổ Loa
hợp lệ tự do hoạt động và đi lại bất cứ chỗ nào, Dân Tầu ra vào Việt Nam
khỏi hộ chiếu, nghênh ngang lập phố Tàu, khai thác bauxite, lũng đoạn kinh
tế, chính trị, văn hóa, xă hội, dùng hóa chất đầu độc diệt chủng, lấn
chiếm biên giới đảo biển, bắt bớ bắn giết ngư dân, bao nhiêu trọng điểm
chiến lược (Ải Nam Quan, Lăo Sơn, Biển Đông, Hoàng Sa, Trường Sa,…) rơi
vào tay giặc, bao nhiêu An Dương Vương thời nay thi nhau hưởng thụ đặt
quyền lợi cá nhân phe nhóm lên trên sự tồn vong của đất nước dân tộc; bao
nhiêu Cao Lỗ thời nay bị bạc đăi, lưu đày? Nếu Tàu cộng xua quân đánh úp
như Triệu Đà th́ số phận VN có giống như số phận Âu Lạc năm xưa không?
Mong rằng bài học cảnh giác mà tác giả UTL gởi gắm trong bài thơ
TSCLT sẽ làm cho những người đang nắm giữ vận mệnh quốc gia mau thức tỉnh,
mau thoát ra khỏi quỹ đạo Tàu cộng, noi gương Nhật Bản, Thái Lan kết thân
với thế giới tự do, củng cố quốc pḥng, canh tân đất nước, quyết không trở
thành những ADV, Mỵ Châu, quyết tránh một Tây Tạng thứ hai. Và nên nhớ
rằng một lần mất cảnh giác là một ngh́n năm nô lệ. Chưa bao giờ bài học
TT-MC lại hệ trọng cần thiết như bây giờ.
Vinh Hồ
8/12/11
*Phần phụ bản gồm :
T̀NH SỬ CỔ LOA THÀNH
Trong cung cấm sao chàng lặng lẽ
Không cười vui bên thiếp hiền ngoan
Chung mỹ tửu chiều nay ướp lệ
Chàng không vui , ḷng thiếp ngỡ ngàng
Khúc Nghê Thường xiêm y rực rỡ
Rượu Bồ đào cùng uống chung môi
Hồi cố quốc chàng xa một thuở
Rồi lại quay về ta sánh đôi
Chàng đi ngàn dặm ngoài biên ải
Ḷng thiếp theo chàng đến cố cung
Đâu biết lần đi là măi măi
Đời không cho nữa , phút tương phùng !
Ngàn dặm trông theo hút bóng chàng
Trường đ́nh quạnh vắng chẳng tin sang
Thẩn thờ gối chiếc canh thâu vắng
Một nửa vầng trăng luống bẽ bàng !
Tin hồng chưa lại đă can qua
Binh biến nghiêng trời đất Cổ Loa
Cha vững tin nỏ thần linh nghiệm
Thiếp cũng nào hay chuyện chính tà
Nỏ tráo móng thiêng, thành đă mất
Em bên cha trên bước bôn đào
Nước mất tim đau ḷng quặn thắt
T́m chàng đâu muôn nẻo binh đao ?!
Lông ngỗng trắng rơi dài tuyệt lộ
Nặng t́nh đâu cảnh giác chi cùng
Sống hết ḷng ḿnh như thác đổ
Em yêu chàng vô thủy, vô chung !
Thần phán rằng : "Nàng là giặc dữ "
Cha nh́n lông ngỗng trắng sơn khê
Ḷng con vằng vặc như sao tỏ
Phụ vương ơi ! Oan khuất con về...
Lời hẹn thề xưa chàng đă trễ
Giếng xưa chôn một khối u t́nh
Sóng biển đă chan ḥa máu lệ
Duyên ḿnh tan tác bởi đao binh
Ngọc trai nàng rực sáng long lanh
Khi rữa vào trong giếng Cổ thành
Tham đoạt đế quyền rồi cũng tắt
C̣n vầng mây đáy giếng mông mênh !
Bạc t́nh chàng quên nghĩa phu thê
Quên cả lời xưa buổi hẹn về
Đem tấm t́nh son vùi gió cát
Đất rộng trời cao thẹn ước thề !!
Phụ t́nh chàng quên cả ân sâu
Mưu đồ tham vọng giết đời nhau
Nàng sống trọn ḷng không giới hạn
T́nh sử ngàn năm tiếc Mỵ Châu .
UYÊN THÚY LÂM
(Boston)
Cổ Loa Hoài Cảm
Thành quách c̣n mang tiếng Cổ Loa
Trải bao gió táp với mưa sa
Nỏ thiêng hờ hững giây oan buộc,
Giếng ngọc vơi đầy giọt lệ pha
Hoa cỏ vẫn cười ai bạc mệnh
Cung đ́nh chưa sạch bụi phồn hoa
Hưng vong biết chửa người kim cổ?
Tiếng cuốc năm canh bóng nguyệt tà.
Á Nam Trần Tuấn Khải
Trọng Thủy Mỵ Châu
Tŕnh bày: Minh Hùng – Thanh Kim Huệ
Lư con Sáo :
Con theo cha xuôi ngược nẻo đường bôn ba,
Đây là chiếc áo ngày xưa,
Con khoác lên vai cho vẹn mối chung t́nh,
Cha ơi có thấu cho ḷng,
Tay rắc đều từng lông ngỗng trắng,
Trọng Thủy ơi! kíp mau t́m em.
Mối căm thù ḷng cha cao ngất,
Khi biết tin con phản tâm v́ yêu.
Câu 1: Cha ơi hăy chậm lại đường gươm để cho con trẻ
được nh́n mặt cha lần sau cuối. Rồi lát nữa đây con sẽ quay về nơi cát bụi
ôm đau thương vào trong giấc ngủ muôn… đời.
Nh́n cha đây mà ḷng dạ con tan nát tơi bời. Tay đă cầm gươm
sao cha rưng rưng nước mắt, cha khóc cho sơn hà hay sợ máu con rơi. T́nh
cha thương con như biển cả khôn lường, được cha ấp ủ khi con vừa lọt ḷng
mẹ. Tiết đông về sợ con trẻ giá băng, lo lắng bâng khuâng khi con khờ đau
yếu.
Câu 2: Cha ơi, con chết đi là đền xong tội lỗi, chỉ
thương cho cha hiu quạnh chốn dương trần. Rồi ai sẽ thay con khuya sớm ân
cần. Cơ nghiệp giờ đây đă gieo lên màu tang tóc, trời đất u buồn cũng
nhuộm vẻ thê lương. V́ giang sơn cha cắt đứt t́nh con, máu con chảy là
nguồn tim cha đă chết. Hăy gọi tên con trong giờ ly biệt, con sợ không c̣n
nghe hai tiếng Mỵ Châu.
Trăng Thu Dạ Khúc :
Hỡi bao oan nghiệt chất chồng từ đây bao trái ngang,
Non sông điêu tàn,
Ngấn lệ tuôn tràn,
V́ yêu con đánh mất giang san,
Để cha rớt lệ cầm gươm cha giết con,
Đoạn ĺa t́nh thâm,
Cốt nhục chia ĺa,
Gió lên tống biệt linh hồn Mỵ Châu sang bến mơ.