Mục Lục

 

  Trang B́a
     
Ban Biên Tập
 
 Lá TXuân
      Lê Văn N
 
 Đọc Lá TXuân
      Cô Hà
 
 STáo XNinh
     
Phan Song
 
 Câu Đối Mừng Xuân
      Tư Nguyên & Lê Văn N
 
 Chúc TẾT NINH-H̉A.COM
      Thi Thi 
 

 

T Xuân
 

  "Xuân Hợp Quần"
      
Lương LHuyền Chiêu
  "Xuân Hợp Quần"

      
Lê Thị Đào
 
 Ḷng Người Rộng M
      
NXuân

     
Vinh H
 
 Mừng Xuân Con Rồng
      Rồng

     
Vinh H
 
 Chúc Xuân
      Xuân Đă V
     
Lư H
 
 Đón Xuân
     
Nguyên Kim
 
 Xuân Q Hương
      
Kiều Lam
 
 Đường Tu
     
Nguyên Ngộ (Lê Văn Ngô)
  Xuân Nhâm Th́n Hy Vọng

     
Tư Nguyên  (Bùi Ngoạn Lạc)
  'Xuân Hợp Quần"

     
 Nguyên Phong (TN Chánh)
  "Xuân Hợp Quần"

     
Thi Thi
 
 Xuân Cảm
     
Lê Bá Thiên
  "Xuân Hợp Quần"
       Nguyễn Thị Thanh T
 
 T́nh Khúc Mùa Xuân
     
Tiểu Vũ Vi

 


X
uân Qua



  Hồi c Mùa Xuân
   
 Vân Anh
 
Tết Của Người Lớn
   
 LKiến Đồng
 
Hoài Niệm Xuân Và Tết
     
Trương Khắc Nhượng
 
Tết Đầu Tiên Tại Cao
      
Nguyên Pleiku

   
 Lê PThọ
 

 

Năm Mới
K
Chuyện Cũ




 
 Có Một Mùa Xuân NThế
      ĐThị Hương B́nh
 
 Chuyện NChuyện Nước
      Lan Đinh
 
 Chuyện KĐầu Năm
      Phạm Thanh Khâm
 
Chuyện Cũ Năm Qua...
     
Phi-Ṛm
 
 Những Chuyến Đi Vô Vọng
      Lê PThọ
 
Chuyện T́nh Cuối Năm
      Bùi Thanh Xuân

 

Hội Quán
Quảng Đông


 
 Chúc Tết 2012
      Huỳnh Hớn Trang



 

Hoa Mai
Ngày Tết




 
 Hoa Mai Linh Hồn Của
      
Mùa Xuân

     
Hoàng Bích Hà
 
 Hoa Ngày Tết
     
Nguyễn Tường Hoài
 
 Chợ Hoa Ngày Tết
     
Vơ Hoàng Nam
 
Ba Mươi Ba Đóa Hoa Mai
     
Phan Song

 

Chuyện Vui
Xem/Đọc
3 Ngày Tết
 


 
 Xóm SV
     
Nguyễn Hiền
 
 Vạn Vật Đều Có Số - T́m
      
Người Bảo V

     
Lư H
 
 NHôn Đầu
     
Thanh Mai
 
 Ḿnh Ơi !
     
Lê Thị Hoài Niệm
 
 Chuyện Vui Ngày Tết
      Hà Thị Thu Thủy

 

 

Cắm Hoa Trang T



 
Nghệ Thuật Cắm Hoa
 
    Lê Thị Lộc

 

Tranh
N
ghệ Thuật



 
Tranh nh Nghệ Thuật
     
 Phi - Ṛm


 

TVui
 



 
Năm Con Rồng
      Rồng Đến
      Tú Trinh
 

 

XUÂN Ca Hát


 
Nhạc Xuân Và Q Hương
      
HT Thu Thủy, Lan Đinh
      
LL Huyền Chiêu,  Lư Hổ,
     
LT Hoài Niệm, LL Minh T

  Slide Show/YouTube
      
Phạm Thúc Tâm
     
Mai Hữu Thọ
 

 

Phương Ngữ
N
inh Ḥa
 


  Một S T Biến Âm: DẢNH
     
Nguyễn Văn Thành



 

Tôn Giáo

 

  Câu Chuyện Đầu Năm
      
Lê Thị MChâu
 
 Di- Lặc Mang Xuân Đến
      
Với Người !

      Mục Đồng
 
 Chúng Con VĐây
      
Đinh Thị Lan
 
 Christchurch Vẫn Măi Trong
      
Tim !

      
Bạch Liên


 
 

TVi
 


  Vài Mẩu Chuyện VTiên Tri
      
Liên Khôi Chương
  TVi Năm Nhâm Th́n 2012
      
Phạm Kế Viêm

 

Du Lịch

 

  Vương Quốc Thái Lan: Một
      
Chuyến Đi KT

      Nguyễn Thị Thanh T

 

 

Năm Th́n Nói Chuyện Rồng
 


 
Tản Mạn V Tết Nhâm Th́n
      
Nguyễn Văn Thành
 

 

 

d_bb
Đ.H.K.H
 

  Vài Phát Biểu Một Thời
      
Điểm Qua

      Tô Đồng
  Liêu Trai C Dị-468
      Đàm Quang Hưng
  Thanh Phong Thi Tập-105
     
Vũ Tiến Phái
 
Tôn Giả Mục-Kiền-Liên
       Nguyễn Văn P
 
 Tư Duy Trong TNguyễn
      
Khuyến

      
Lê Phụng
 
 Đường Vào KINH DỊCH
      Nguyễn Hữu Quang
 
Con Đường Chứng Ngộ-34
     
Trần Cao Tần
  Lời M Hỏi - Trở V
     
Trần Cao Tần
 
Ngắm Sao
      Nguyễn Đức Tường
 
 TVi Năm Nhâm Th́n 2012
      
Phạm Kế Viêm
 


 

Sưu Tầm
 



 
 Các BTranh Dân Gian
      
Nổi Tiếng

      Vinh H
 
 Tết XNgười Xem H́nh
      
nh Cũ

      Vinh H
 
 Sinh Mệnh Con Người
      Hà Thị Thu Thủy

 

 

Chuyện
V
ượt Biên

 

  Chuyện Người T Nạn-19
      Lư H
 
 Pulau Bidong, Một Trời K
      
Niệm

      
Bạch Liên
  Phép Nhiệm Mầu

      
Lê PThọ
 

 


Văn Hóa
m Thực




 
 GThủ
      Sườn Heo Sốt Me Chua
      Mẹo Vặt Vào Bếp
      Lan Diệp
 
 Rơm RQN
      Kem Flan (Bánh Flan)
      Lê Thị Đào
 
 Món Canh Légume
      Việt Hải
 
 Mùi CKiệu
      Cao Minh Hưng
 
 Tôm Rang Muối Tiêu: Video 
      
Tôm Sốt Sữa: Video

      Lư H
 
 Chuẩn BNấu Bánh
      Bạch Liên
 
 Những Đặc Sản Hồn Quê 
      
ViệtNam Vào Tết Nhâm Th́n

      Nguyên Phong

 

 

Sức Khỏe

      

 
Bệnh Viêm Kết Mạc

      
BS Lê Ánh
 
Bệnh Tay Chân Miệng

      
BS Nguyễn Vĩ Liệt



 

 

Biên Khảo
Kinh Tế
 

Việt Nam

  Tổng Kết T́nh H́nh Kinh Tế
      
Của Việt Nam Năm 2011

     
 Nguyễn Văn Thành


H
oa Kỳ/Thế Giới

  Tổng Kết T́nh H́nh Kinh Tế
      
Của M Quốc Năm 2011

     
 Nguyễn Văn Thành


 

Kinh Nghiệm Sống

 

  Món Mới
      
Kiều Lam
 
Biển Có Linh Hồn Không?

      
Bạch Liên
 
Vạn Vật
 
    Bạch Liên
  Đạo Nghĩa V Chồng

      
Vơ Hoàng Nam
  Phân Biệt

      
Lê Văn N

 

 

Viết v
Ninh Ḥa
 


 
 Những Điều Lư TV
      
Ninh-Ḥa

     
Trần Minh Hiền
  Đám Cưới Đầu Xuân

      
Phan Nho
  Những Ngày Đồng Q

      L
ê PThọ

 



Viết v
ninh-hoa.com



  Duyên Nào Tôi Đến Với
      
Ninh-ḤaDOTCom

     
Trâm Anh
 
 Đầu Năm...Khai Máy
      Topa Panning



 

 KNiệm V
Trường:

Trần B́nh Trọng
Ninh Ḥa
 

  H Trong T Mới
     
Nguyễn Thị Đào
 
Năm Học 1974-1975

      Trần Hà Thanh
 
Lời Ngỏ

     
Bùi Thanh Xuân

 

Bán Công


 
Hồi Tưởng

     
Lương LHuyền Chiêu
 

 

Vạn Ninh



 
Lời Chúc Xuân

     
Ngọc Ánh
 
Nắng Xuân

      Tuyết Xuân
     
Huỳnh Thị Hà
 
Miên Trường Xuân Thịnh
      
Vượng

     
Lam Kha
 
Xuân Mới

     
Nguyên Kim
 
Vọng Cổ: Mừng TẾT

     
Nguyễn Thị Kính
 
Dọc Đường

     
HThoại M
 
Chúc Tết

     Vui Xuân - Đón Tết
     
Lâm Ngọc
 
Xuân Tuổi T

     
Thanh Nhàn
 
Tâm S Đầu Xuân

     
HThị Thanh Nhàn
  Lời Chúc Đầu Xuân

      Tưởng Mùa Xuân
     
Hà Tấn S
  Chúc Mừng Năm Mới

     
Nguyễn Thị T
 
C̣n Lại Trong Em...

     
Thúy Vũ


 

VT/NTH


 
Chuyện Các Anh Và Tôi

     
Người XVạn
 

 

Các Trường Khác


 
Họp Mặt Đầu Xuân

     
Lê Thị Ngọc Hà





 

Lụt Trong
Văn Chương
 


  Mùa Lụt Q Tôi

      
Trần NPhương
 
Vè Băo Lụt Năm Nhâm
      
Th́n 1904

      Nguyễn
Văn Sâm

 

Văn Học
Nghệ Thuật
 



 
Đời Sao Buồn Chi Mấy
      
CNhân Ơi

      Lương L
Huyền Chiêu
 
Rượu Trong Ca Dao
      
Tục Ngữ

      Hoàng Bích Hà
  T TTuyệtt

      
Vinh H
 
T́nh SLạc Long Quân Và
      
Âu Cơ

      
Vinh H
 
Truyền Thuyết Trọng Thủy-
      
MChâu Và Bài TUTLâm

      
Vinh H
  Nhớ Sao Là Nhớ Xuân Xưa

      Nhất Chi Mai
 
 Dịch TLư Bạch: Nghĩ C
       Dương Anh Sơn
 
Thanh Hiên Thi Tập:
      
Bài Số: 45-46

      Dương Anh Sơn
  Một Lần Gặp Lại

      Mùa Yêu Thương
      Kim Thành
  Chùm Thơ  Đường Luật

      Người XVạn
  Duyên Dáng Mùa Xuân

      
Tiểu Vũ Vi 

 



T
 


 
 Mùa Xuân QCũ
      Vân Anh
 
 Nỗi Niềm Xuân
      Dương Công Khánh
  Hương Xuân

      Nguyễn Thị Bảy
  Chúc Xuân

      Trần Thị Chất
  NMây Bay Đi

      
Lương LHuyền Chiêu
  Xuân Cao Nguyên

      Du Xuân
      Nguyễn Thị Cúc
  Hoa Xuân Cười

      Ta Vẫn Hẹn
      Hương Đài
  Mưa Nguồn

      An Lạc
      Mục Đồng
  Bài TCon Cóc

      
Nguyễn Hiền
  Mùa Xuân QHương

      
Tường Hoài
 
 Em VCùng Xuân
      Mời Xuân Lên Ngôi
      
Nguyễn Văn Hóa
  Chùm Thơ Họa

      
Vinh H
  Màu Xuân

      
T Kim Huy
 
 Nói Sao Vừa
      
Quỳnh Hương
 
 Ngày Xuân
     T́nh Xuân
      Hoàng Công Khiêm 
 
 Rực R Sắc Xuân
      Lê Thị Lộc 
 
 N Đồng
      Nhất Chi Mai
 
 Sang Mùa 
    
 Mùa Xuân Mưa
      Nguyễn Thị Khánh Minh
 
 Nhớ Khúc Ninh Ḥa
      NGH(NH)
 
 Chùm TXuân
      
Nguyễn Hoàng Phi
 
 Nḥa-QMNgàn Thương
      Mh HoaiLinhphuong
 
 Hương Sắc Mùa Xuân
      Bích Phượng
 
 Hẹn Xuân
      Đón Xuân
      Nguyễn Quân
 
 Mơ Và Nhớ
      Lê Văn Quốc
 
 Gom Nhặt Những Mùi Hương
     
Quốc Sinh
 
 Dấu Xưa Sương Khói
      Dương Anh Sơn
 
 Xuân T́nh
      
Kim Thành
 
Bâng Khuâng Chiều Cuối
      
Năm

      
Vơ Ngọc Thành
 
 Nhớ Tết Q Tôi
      Lê Hùng Thân
 
 Xuân T́nh Thương
      Thi Thi
 
 Dáng Xuân
      Lời Xuân
      Hoài Thu
 
 Mùa Xuân Xa X
      NTrưởng Tiến
 
 Xuân Nguyện
      Nguyễn Tính


 


Văn

 

  Một Chiều Cuối Năm Nhớ
      
V Các Bạn

      Nguyễn Vũ Trâm Anh
  Cát Tiên

      
Khuất Đẩu
 
 Xuân Này Chị Không V
      Lê Thị Ngọc Hà
  Mùa Xuân Anh Yêu Em

      
Việt Hải
  Con Dốc

      
Nguyễn Hiền
  Thầy Bói

      
Trần Minh Hiền
 
 Bếp Lửa Gia Đ́nh

      
Lư H
  Xuân Vắng Mẹ...

      
Hoàng Lan
 
 Bên Dốc Đời Nh́n Lại Những
      
Xuân Qua

      Hải Lộc
 
 Gởi Cô Bạn Nhỏ Xóm Rượu
      Phan Kiều Oanh
 
 Làm Con TPhải Là Con
      Phan Song
 
 Bóng Dáng Một Mùa Xuân
      
Lâm Minh Tài
 
 Người Trễ Hẹn Mùa Xuân
      
Nguyễn Hữu Tài
 
 Ḍng Đời
      Thi Thi
 
 Ba Má Tôi
      
Phạm Thị Thục
 
 Đầu Năm Đón Giao Thừa, Đi
      
LChùa Hái Lộc Đầu Xuân

      TBửu Nguyễn Thừa
 
 Một Chút Ưu Tư
      Nguyễn Tính
 
Một Mùa Xuân An B́nh
      
Đang Về...

 
     Nguyễn Đôn Huế Trang

 

 

 

 

 

Thư từ, bài vở, h́nh ảnh hoặc
ư kiến xây dựng, xin liên lạc:



diem27thuy@yahoo.com

 



 


 


 

 


 


 

 

     

THƠ TỨ TUYỆT

 

 

 

    Tứ Tuyệt là thể thơ chỉ có 4 câu, mỗi câu có 5 hoặc 7 chữ, c̣n gọi là Tuyệt Cú. C̣n Bát Cú là thể thơ có 8 câu, mỗi câu có 5 hoặc 7 chữ. Hai thể thơ này đă trải qua suốt chiều dài văn học sử VN hơn 1,000 năm, có sức sống tiềm tàng mănh liệt, do nghệ thuật tinh diệu được chắt lọc, cô đọng qua những cây bút lừng danh trong nhiều thế kỷ. Thể Bát Cú xuất hiện từ đời Đường bên Tàu có luật tắc nghiêm ngặt đă rơ rồi, nhưng thể Tứ Tuyệt xuất hiện từ thời nào? Truyền sang VN ra sao, kể cả quá tŕnh h́nh thành, phát triển, hoàn thiện và luật tắc của nó… đến nay vẫn c̣n phức tạp. Do đó trong bài viết này, chúng tôi muốn quay về nguồn cội để t́m hiểu thấu đáo về thể thơ này, xin được tŕnh bày dưới đây để chúng ta biết được lịch sử và cái hay cái đẹp của nó để có thể phát huy tinh hoa làm giàu nền thi ca VN.

    Thời nhà Đường (618 - 907) bên Tàu sử dụng hai thể thơ chính:

   -Cổ Thể: gồm Cổ phong và Nhạc phủ, không hạn chế số câu số chữ, không ràng buộc niêm luật đối vận nên phóng khoáng dễ diễn đạt tâm hồn.

   -Kim Thể: gồm Bát cú (thơ luật) và Tuyệt cú (tứ tuyệt), c̣n gọi là Đường luật g̣ bó về niêm luật đối vận khó diễn đạt nhưng có cấu trúc chặt chẽ, cân đối, hài ḥa. Bát cú là dạng chính của thơ Đường luật, từ đó có Tứ tuyệt tức Tuyệt cú.

   Tuy nhiên, tØ xÜa ljn nay ª Trung Hoa và Việt Nam (VN) có nhiều thuy‰t định nghĩa về thÖ Tứ tuyệt (TuyŒt cú) và sự h́nh thành của thể thơ này.

 

     1 -Thuyết ñÎnh Nghïa 1: Cø Bùi Kỷ theo thuy‰t Ngô Tề đời Thanh cho rằng ‘Tuyệt là tuyệt diệu, mỗi câu chiếm một vị trí đặc biệt. Chỉ trong bốn câu mà thiển, thâm, ẩn hiện, chính kỳ, khởi phục đủ cả cho nên gọi là tuyệt’. C̣n nhà nghiên cứu Phan Văn Nhiễm lại hiểu chữ tuyệt là tuyệt vời:Thơ bốn câu gọi là tứ tuyệt, người Trung Quốc gọi là tuyệt cú, tức là bài thơ hay tuyệt vời, v́ chỉ có bốn câu 20 từ hoặc 28 từ mà nói lên được đầy đủ tứ của một đề tài theo đúng luật lệ của thơ Đường.’

  

      2 -Thuyết ñÎnh Nghïa 2: Gần đây ª VN có nhiều công tŕnh chứng minh Tứ tuyệt xuất hiện ở Trung Hoa khá sớm mà  ca dao cổ đại là đầu nguồn lịch sử của tuyệt cú;  có mầm mống trong Kinh Thi, xuĂt hiŒn ÇÀu tiên trong nhạc phủ thời Nhà Hán (206 TCN–220 CN) phát triển thời Nam-Bắc-Triều (420–589). ñ‰n th©i Sơ Đường (618 - 713), tứ tuyệt chuyển ḿnh, chỉnh đốn về niêm, luật, đối, vận. Qua th©i Thịnh-Đường(713 - 766), tÙ tuyŒt phát triển v số lượng, chất lượng; trong suốt quá tŕnh h́nh thành, phát tri‹n trải qua mấy trăm năm, Çây là th©i kÿ toàn thÎnh nhĂt v́ hầu hết các nhà thơ lớn đều làm tứ tuyệt, nghệ thuật đi tới chỗ hoàn thiện, số lượng tăng vọt mà ÇÙng ÇÀu là L Bạch 193 bài, kế đến Đỗ Phủ 139 bài, Vương Duy 106 bài, Vương Xương Linh 89 bài.

    Nói một cách ngắn gọn, tÙ tuyŒt xuĂt hiŒn ÇÀu tiên tØ th©i Nhà Hán (206 TCN–220 CN) gọi là liên cú, qua đời Nhà Tấn (265–420) g†i là tuyệt hưởng (không có hưởng ứng), tÙc là tuyệt cú hoặc đoạn cú. L Trường Lộ khẳng định: Tuyệt cú c̣n gọi là tiệt cú hoặc đoạn cú. Đến đời Nhà Đường (618–907) gọi là luật tuyệt. NhÜ vÆy, Tứ tuyệt là một thể loại độc lập, có quá tŕnh h́nh thành phát triển lâu dài khoảng 800 năm trước Bát Cú thời Đường là một chỉnh thể nghệ thuật riêng biệt chứ không phải là m¶t bộ phận ÇÜ®c ngắt ra từ Luật thi hay Cổ thi.

 

    3-Thuyết ñÎnh Nghïa 3: Ô. Dương Mạnh Huy căn cứ thuy‰t Tiền Mộc Am (Ç©i Thanh) khẳng định: "Tuyệt là Tiệt (ngắt), cú là câu, tuyệt cú nghĩa là cũng theo những luật đó mà ngắt ra dùng 4 câu nửa bài trong luật 8 câu". Từ đó, ông phân tuyệt cú ra làm 4 loại, tùy theo 4 cách ngắt trong một bài bát cú: ngắt 4 câu đầu, ngắt 4 câu giữa, ngắt 4 câu cuối và ngắt 2 câu đầu, 2 câu cuối. Thuyết này được học giả Trần Trọng Kim, GS Dương Quảng Hàm, GS Trần Đ́nh Sử tán thành.

 

    4-ñÎnh Nghïa Cûa Từ Điển Văn Học:

   "Thơ tứ tuyệt theo nghĩa rộng, chỉ những bài thơ nhỏ, mỗi bài gồm bốn câu, mỗi câu thường năm hoặc bảy chữ. Theo nghĩa hẹp, c̣n gọi là tuyệt cú, gồm hai dạng: cổ tuyệt (tứ tuyệt theo lối cổ thi) và luật tuyệt (tứ tuyệt làm theo thể Đường luật)".

 

   5 -Kết Luận: Như vậy, chúng ta có th‹ xác ÇÎnh TÙ TuyŒt xuĂt hiŒn khoảng 800 năm trܧc thời nhà ñÜ©ng, cách nay trên 2 ngh́n năm v§i 4 câu phóng khoáng gọi là cổ tuyệt, tức tứ tuyệt theo lối cổ thi. Љn Ç©i ñÜ©ng do änh hܪng cûa thơ Bát Cú ch¥t chẽ v niêm luÆt ÇÓi vÆn, nên người ta mới áp døng vào TÙ tuyŒt, cho nên mới gọi tứ tuyệt làm theo thể Đường luật. TØ Çó ngÜ©i ta gom chung cä Bát Cú và TÙ TuyŒt thành m¶t th‹ chung g†i là ThÖ luÆt hay ñÜ©ng luÆt: ñÜ©ng luÆt bát cú, ñÜ©ng luÆt tứ tuyệt. R̉i theo th©i gian ngÜ©i ta quên Çi ngủn gÓc cûa TÙ TuyŒt là m¶t th‹ thÖ Çă có trܧc Bát Cú t§i khoảng 800 næm.

 

   6 -Tứ Tuyệt ở Việt Nam: Từ thời nhà Lư (1009 - 1225) đă xuất hiện thơ Tứ Tuyệt bằng chữ Hán. Đến thời nhà Trần (1225 - 1400), Nguyễn Thuyên là người đầu tiên làm thơ Nôm theo Đường luật, gọi là Hàn luật, có nhiều bài tứ tuyệt xuất sắc trong Phi sa giản tập của ông. Đến thời nhà Lê (1428 - 1788) , thi hào Nguyễn Trăi làm nhiều Tứ tuyệt trong Ức Trai Thi Tập bằng chữ Hán và Quốc Âm Thi Tập bằng chữ Nôm. Đến thời nhà Nguyễn (1802 - 1945), Bát cú được ưa chuộng hơn Tứ tuyệt. Từ thời Tiền Chiến đến nay, Bát cú suy vi, Tứ tuyệt được cách tân dưới dạng “trường thiên tứ tuyệt” gồm nhiều bài tứ tuyệt ghép lại, mà hầu như nhà thơ nào cũng làm, như Nguyễn Nhược Pháp bài Chùa Hương năm 1934, Vũ Đ́nh Liên bài Ông Đồ năm 1936, Thế Lữ bài Giây Phút Chạnh Ḷng tặng Nhất Linh năm 1937, TTKh bài Hai Sắc Hoa Ty Gôn năm 1937, Kiên Giang bài Hoa trắng thôi cài trên áo tím, năm 1962, v.v… Đặc biệt, Quách Tấn nhà thơ Đường luật thất ngôn bát cú, cũng ngă qua làm Tứ tuyệt, xuất bản thi tập Đọng Bóng Chiều năm 1965 gồm 100 bài toàn Tứ tuyệt. Tô Thùy Yên nhà thơ tự do cũng cầm bút viết trường thiên tứ tuyệt, bài Ta Về (1985) rất dài với trên 30 khổ tứ tuyệt thuộc hàng tuyệt bút.

 

   7-Một Số Bài Thơ Tứ Tuyệt Nổi Tiếng Của VN:


  
-Lư Thường Kiệt (1019-1105):

Năm 1076 nhà Tống đem 10 vạn quân tinh nhuệ, hợp với quân Chiêm Thành và quân Chân Lạp sang xâm chiếm nước Đại Việt. Lư Thường Kiệt lập pḥng tuyến ở bờ nam sông Như Nguyệt (sông Cầu). Một đêm quân sĩ chợt nghe ở trong đền Trương tướng quân (Trương Hống và Trương Hát: hai vị tướng đánh giặc giỏi của Triệu Quang Phục) có tiếng đọc to bài thơ thần mà tác giả chính là Lư Thường Kiệt:

Nam Quốc sơn hà Nam Đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư

            Lư Thường Kiệt (1076)

   Dịch:

Sông núi nước Nam vua Nam ở,

Rành rành định phận tại sách trời.
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm,
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời!

   (không rơ dịch giả)

*Đây là bài thơ cổ nhất, hùng tráng nhất, chủ đề có tính thời đại nhất, thường được xem là “bản tuyên ngôn độc lập băng thơ đầu tiên của VN”.

 

   -Trần Quang Khải:

    Năm 1284, đem quân vào thành Thăng Long mở tiệc khao quân sau khi đánh tan giặc Nguyên (Thoát Hoan bỏ chạy về Tàu), tướng Trần Quang Khải làm bài tứ tuyệt:

 Đoạt sáo Chương Dương độ
Cầm Hồ Hàm Tử quan
Thái b́nh nghi nỗ lực
Vạn cổ thử giang san

   Dịch:
Chương Dương cướp giáo giặc
Hàm Tử bắt quân thù
Thái b́nh nên gắng sức
Non nước ấy ngh́n thu

   Trần Trọng Kim dịch

 

   -Vua Trần Nhân Tông:

   Xuân hiểu

Ngủ dậy ngó song mây
Xuân về vẫn chửa hay.
Song song đôi bướm trắng
Phấp phới sân hoa bay.

      Vua Trần Nhân Tông

 

   -Nguyễn Thuyên: Ông là người đầu tiên làm thơ Nôm theo Đường luật, gọi là Hàn luật. GS Dương Quảng Hàm nhận xét: "Ông là người đầu tiên biết làm thơ phú bằng quốc âm, nên ông có thể coi là ông tổ của văn nôm”.

 

   Văn tế cá sấu

Ngặc ngư kia hỡi! Mày có hay!
Biển Đông rộng răi là nơi này

Phù Lương đây thuộc về thánh vực
Lạc lối đâu mà lại đến đây

 

Há chẳng nhớ rằng nước Việt xưa
Dân quen chài lưới chẳng tay vừa
Đời Hùng vẽ ḿnh vua từng dạy
Xuống nước giao long cũng phải chừa

 

Thánh thần nối dơi bản triều nay
Dấy từ Hải ấp ngôi trời thay
Vơ công lừng lẫy bốn phương tịnh
Biển lặng sông trong mới có rày

 

Hùm thiêng xa dấu dân cày cấy
Nhân vật đều yên đâu ở đấy
Ta vâng đế mạng bảo cho mày
Hăy vào biển Đông mà vùng vẫy...

 

   (trích từ "Les chefs-d"oeuvres de la littérature Vietnamiennes", Dương Đ́nh Khuê, Kim Lai Ấn Quán, Sài G̣n, 1966).

 

   Tập thơ Phi sa giản tập của Nguyễn Thuyên viết về thiên nhiên bằng chữ Nôm như các bài:

   Xuân
Hoa nở, lộc hường, xuân lại xuân,
Cỏ cây mơn mởn đón đông quân.
Bướm ong bay rộn. Trời đang ấm
Mừng mảng trăng xuân sáng bội phần

   (Trích Phi sa giản tập theo Ngô Văn Phú - Văn Nghệ Trẻ).

 

   Gió nồm

Ra tết hây hây gặp gió nồm
Cỏ loang mặt đất. Lúa xanh om
Người ḥa tươi tốt. Cảnh ḥa lạ
Biếc một ngàn xa. Biếc núi non...

  (Trích Phi sa giản tập theo Ngô Văn Phú - Văn Nghệ Trẻ)

 

   -Ngô Chi Lan (thế kỷ XV):

Trước sự tích Đức Thánh Gióng, nữ sĩ cảm tác bài tứ tuyệt:

Vệ Linh cây cỏ lẫn mây ngàn

Muôn tía ngh́n hồng đẹp thế gian

Ngựa sắt lên trời tên rạng sử

Anh hùng măi măi với giang san.

 

   -Nguyễn Trăi (1380 - 1442): Thi hào thời Lê có nhiều thi tập.

   Mộ Xuân Tức Sự

Nhàn trung tận nhật bế thư trai

Môn ngoại toàn vô tục khách lai

Đỗ Vũ thanh trung xuân hướng lăo

Nhất đ́nh sơ vũ luyện hoa khai.

         Nguyễn Trăi (trích Ức Trai Thi Tập)

 

   Cuối Xuân Tức Cảnh   

Suốt ngày nhàn nhă khóa pḥng văn

Khách tục không lai văng đến gần

Trong tiếng cuốc kêu xuân đă muộn

Đầy sân mưa bụi nở hoa xoan.

       Vinh Hồ dịch

 

   Trại Đầu Xuân Độ

Độ đầu xuân thảo lục như yên

Xuân vũ thiêm lai thủy phách thiên

Dă kính hoang lương hành khách thiểu

Cô châu trấn nhật các sa miên

      Nguyễn Trăi (trích Ức Trai Thi Tập)

 

   Bến Đ̣ Xuân Đầu Trại  

Cỏ xuân đầu bến xanh như khói

Lại có mưa xuân nước vỗ trời

Quạnh quẽ đường đồng thưa thớt khách

Con đ̣ gối băi suốt ngày ngơi.

      Điềm Ca / Vinh Hồ dịch

 

   Cây chuối

Tự bén hơi xuân tốt lại thêm
Đầy buồng lạ, mầu thâu đêm
T́nh thư một bức phong c̣n kín
Gió nơi đâu gượng mở xem.
      Nguyễn Trăi

 

   Vô đề

Cây rợp tán che am mát
Hồ thanh nguyệt hiện bóng tṛn
Rùa nằm hạc lẫn nên bầy bạn
Ủ ấp cùng ta làm cái con.
      Nguyễn Trăi

 

   Thuật hứng

Hái cúc ương lan hương bén áo;
T́m mai đạp nguyyệt tuyếtn xâm khăn
Đàn cầm suối trong tai dội
C̣n một non xanh là cố nhân.

      Nguyễn Trăi

 

   -Vua Lê Thánh Tông: Vị Vua tài đức:

   Con Cóc

Bố mẹ sinh ra vốn áo sồi
Chốn nghiêm thăm-thẳm một ḿnh ngồi.
Nghiến răng ba tiếng cơ trời động
Tắc lưỡi vài hồi chúng kiến lui

       Vua Lê Thánh Tông

 

   -Nguyễn Hữu Chỉnh

   Cái Pháo

Xác không, vốn những cậy tay người,

Bao nả công tŕnh, tạch cái thôi!

Kêu lắm, lại càng tan tác lắm,

Thế nào cũng một tiếng mà thôi.

       Nguyễn Hữu Chỉnh

 

   -Hồ Xuân Hương: bà Chúa thơ Nôm:

   Bánh trôi nước

Thân em vừa trắng lại vừa tṛn

Bảy nổi ba ch́m với nước non

Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn

Mà em vẫn giữ tấm ḷng son.

      Hồ Xuân Hương

 

   -Trần Tế Xương: nhà thơ trào phúng:

    Ba cái lăng nhăng

Một trà một rượu một đàn bà,
Ba cái lăng nhăng nó quấy ta,

Chừa được cái nào hay cái nấy,
Có chăng chừa rượu với chừa trà.

Trần Tế Xương

 

   -Yến Lan: nhà thơ tiền chiến:

    Hồn mưa

Cửa khép giờ này em ngủ say

Ngoài kia trời đất trở heo may

Lặng thầm chiếc nón treo trên vách

Quanh nón hồn mưa chấp chới bay

       Yến Lan

 

   -Quách Tấn: nhà thơ tiền chiến

   Ngậm Ḷng
Từ phen mây nước đổi
Biếc ngậm ḷng sông sâu
Nh́n cầu xưa chửa nối
Đôi bờ thương nhớ nhau.

   Mong Đợi
Ngọt ngào xuân rụng móc
Cam chuối đượm t́nh quê
Tựa cửa chờ trăng mọc
Muôn xa ḷng ghé về

   -Hàn Mặc Tử: nhà thơ tiền chiến:

   Đây Thôn Vĩ Dạ (trường thiên tứ tuyệt)

 

Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

Nh́n nắng hàng cau nắng mới lên,

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền

 

Gió theo lối gió, mây đường mây

Ḍng nước buồn thiu, hoa bắp lay...

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,

Có chở trăng về kịp tối nay?

 

Mơ khách đường xa, khách đường xa,

Áo em trắng quá nh́n không ra...

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết t́nh ai có đậm đà?

        Hàn Mặc Tử  (1938)

 

   8-Một Số Bài Thơ Tứ Tuyệt Nổi Tiếng CủaTrung Hoa:

   -Cổ phong tứ tuyệt thời Nam-Bắc-Triều: g†i là ngũ ngôn tứ tuyệt, như bài:

   Tí Dạ tứ thời ca

Thanh hà cái lục thủy,

Phù dung ba hồng tiên.

Lang kiến dục thái ngă,

Ngă tâm dục hoài liên.

 

   Dịch:

Lá xanh phủ nước biếc xanh

Phù dung mơn mởn muôn cành hồng tươi.

Chàng nh́n muốn hái em rồi,

Ḷng em vương vít bên nơi sen hồng.

   PHAnh

 

   -Tứ tuyệt nhạc phủ Bắc triều: khảng khái như bài:

    Chiết dương liễu ca

 Phúc trung sầu bất lạc,

Nguyện tác lang mă tiên.

Xuất nhập hoàn lang tí,

Điệp tọa lang tất biên.

   Dịch:

Ḷng bủn bă bĂt an

NguyŒn làm roi ng¿a chàng

Mang trên tay xuĂt nhÆp

QuĂn quít bên gÓi chàng.

     Vinh H̉ dÎch.

 

   -Tứ Tuyệt Sơ Đường: (618 - 713) đă luật hoá th‹ tứ tuyệt thành "luật tuyệt", phát triển thĂt ngôn tÙ tuyŒt thành "thất ngôn luật tuyệt". Việc áp dụng niêm luật của luật thi vào tứ tuyệt, khiến tứ tuyệt Sơ Đường có thanh vận hài ḥa hơn. "Tam Vương" th©i Sơ Đường là Vương Tích, Vương Phạn Chí, Vương Bột mở đường phát triển về chất làm cho tứ tuyệt lời giản dị, sâu sắc. Trần Tử Ngang đưa thơ ca về hiện thực mở hướng mới cho tứ tuyệt. TÙ tuyệt Sơ Đường thoát ly tính chất ca từ, nội dung mang tính triết l nhân sinh thế sự:

 

    -Vi Thừa Khánh

    Nam hành biệt đệ

Đạm đạm trường giang thủy,

Du du viễn khách t́nh.

Lạc hoa tương dữ hận

ñáo địa nhất vô thanh.

    Vi Thừa Khánh  

   Dịch thơ:

 Biệt Em Về Phương Nam

Lênh láng trÜ©ng giang thûy

Mênh mang viÍn khách t́nh 

Hoa rơi chia mÓi hÆn

Chåm ÇĂt tuyŒt vô thanh     

      (Vinh H̉ dịch)

 

   -Vương Bột:

   Tư quy

Trường Giang bi dĩ trệ,
Vạn lư niệm tương qui.
Hướng phục cao phong văn,
Sơn sơn hoàng diệp phi.
   Dịch
   Nghĩ trở về 
Trường Giang buồn lai láng  
Muôn dặm nghĩ ngày về        
Gió thổi chiều tái tê
Lá vàng bay trên núi.

    Vinh H̉ dÎch.

 
-Lạc Tân Vương

   Dịch thuỷ tống biệt

Thử địa biệt Yên Đan
Tráng sĩ phát xung quan.
Tích thời nhân dĩ một,
Kim nhật thủy do hàn.
   Lạc Tân Vương

    Dịch:

   Tiễn Người Trên Sông Dịch

Đất này biệt Yên Đan

Tráng sĩ tóc dựng ngược

Người xưa đă khuất rồi
Nước sông nay lạnh buốt.

   Vinh Hồ dịch

 

   -Trần Tử Ngang

   Đăng U Châu Đài Ca

Tiền bất kiến cổ nhân,
Hậu bất kiến lai giả.
Niệm thiên địa chi du du,
Độc sảng nhiên nhi thế hạ.

   Trần Tử Ngang


   Lên đài U Châu Ca
Trước không thấy người xưa
Sau không thấy ai cả

Nghĩ trời đất rộng vô cùng
Một ḿnh lệ rơi lă chă.

   Vinh Hồ dịch


   Hí đề tân tài tường vi

Di căn dịch địa mạc tiều tụy
Dă ngoại đ́nh tiền nhất chủng xuân
Thiếu phủ vô thê xuân tịch mịch
Hoa khai tương nhĩ đáng phu nhân.
 
Trần Tử Ngang   

   Dịch:
   Đề bỡn cây tường vi mới trồng
Rễ dời, đất đổi đừng tiều tụy
Dă ngoại đ́nh tiền cũng một xuân
Thiếu phủ không thê xuân quạnh quẽ

Lấy hoa nở thắm làm phu nhân.

   Vinh Hồ dịch

 

   -Lư Chiếu Lân

   Khúc Tŕ Hà
Phù hương nhiễu khúc ngạn
Viên ảnh phú hoa tŕ
Thường khủng thu phong tảo
Phiêu linh quân bất tri !
   Lư Chiếu Lân
   Dịch:
   Sen Trong Ao Khúc
Hương ngạt ngào ao khúc

Bóng lá tṛn đẹp thay!

Ngại gió thu về sớm

Trôi dạt người có hay?
  
Vinh Hồ dịch

 

   -Hạ Tri Chương 

   Hồi Hương Ngẫu Thư

Thiếu tiểu ly gia , lăo đại hồi

Hương âm vô cải , mấn mao thôi

Nhi đồng tương kiến bất tương thức

Tiểu vấn “khách ṭng hà xứ lai”

 

   Dịch:

   Ngẫu nhiên viết khi về làng   

Niên thiếu ra đi, già lăo hồi

Giọng quê không đổi, tóc sương phơi

Thấy nhau chẳng biết nhau, trẻ vấn:

“Khách từ đâu bước đến làng tôi?”

    Vinh Hồ dịch

 

 -Tứ Tuyệt Thịnh Đường (713 - 766):

  -Lư Bạch:

   Tĩnh dạ tứ

Sàng tiền minh nguyệt quang,

Nghi thị địa thượng sương.

Cử đầu vọng minh nguyệt,

Đê đầu tư cố hương.

   Dịch thơ:

Đầu giường ánh nguyệt sáng

Ngỡ mặt đất giăng sương.

Ngẩng đầu nh́n trăng sáng,

Cúi đầu nhớ cố hương.

      Vinh Hồ dịch

 

   Oán t́nh

Mỹ nhân quyển châu liêm,

Thâm tọa tần nga mi.

Đăn kiến lệ ngân thấp,

Bất tri tâm hận thùy.

      Lư Bạch

   Dịch thơ:

Ngựi đẹp cuốn rèm ngọc

Ngồi im chau đôi mày

Chỉ tay lệ vơi đầy

Ḷng giận ai không biết?

      (Vinh Hồ dịch)

 

   Tự khiển

Đối tửu bất giác minh,

Lạc hoa doanh ngă y.

Túy khởi bộ khê nguyệt,

Điểu hoàn nhân diệc hi

      Lư Bạch

   Dịch:

Rượu vào trời tối mịt không hay,

Hoa rụng rơi trên áo ta đầy.

Lúy túy bước đi khê nguyệt hiện

Chim bay về tổ, người đâu đây?

      (Vinh Hồ dịch)

 

   -Liễu Tông Nguyên:

    Giang tuyết

Thiên sơn điểu phi tuyệt,

Vạn kính nhân tung diệt,

Cô chu thôi lạp ông,

Độc điếu hàn giang tuyết.

       

   Tuyết trên sông

Ngàn non chim mất dấu    

Vạn nẻo không bóng người   

Thuyền đơn nón áo tơi,

Ngồi câu sông tuyết lạnh.

   Vinh Hồ dịch

 

   -Trương Kế:

   Phong Kiều Dạ Bạc

Nguyệt lạc ô đề sương măn thiên

Giang phong ngư hỏa đối sầu miên

Cô Tô thành ngoại Hàn San tự

Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.

      Trương Kế

 

   Đêm Trắng Phong Kiều

Quạ kêu trăng lặn sương đầy trời

Lửa chài cây băi đối sầu ngơi

Hàn San tự nửa đêm chuông động

Qua Cô Tô vọng đến thuyền, người.

Vinh Hồ dịch

 

   -Vương Hàn:

   Nhiều điệu hát dân gian như khúc Thượng chi hồi, Chiến thành nam, Tương tiến tửu, Hoàng tước hành, Lạc mai hoa... được nhiều người dùng để đặt tên cho tác phẩm của ḿnh. Lương Châu Từ sau đây được sáng tác từ tên gọi của một điệu hát cổ nói về trận mạc, biên ải.

 

   Lương Châu Từ

Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi
Dục ẩm tỳ bà mă thượng thôi
Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi.

   Dịch:

Bồ đào mỹ tửu, chén dạ quang
Muốn uống tỳ bà giục lên ngựa     

Đừng cười người say nằm chiến địa  
Xưa nay chinh chiến mấy ai về?

   Vinh Hồ dịch

 

   -Vương Duy:

   Vị Thành khúc

Vị Thành triêu vũ ấp khinh trần,

Khách xá thanh thanh liễu sắc tân.

Khuyến quân cánh tận nhất bội tửu,

Tây xuất Dương quan vô cố nhân.

 

   Dịch:

Sáng sớm Vị Thành mưa bụi bay,

Quán trọ xanh xanh sắc liễu này.

Một chén nữa mời anh hăy cạn,

Rời Dương Quan bạn cũ c̣n ai?

Vinh Hồ dịch

 

   Điểu Minh Giản

Nhân nhàn quế hoa lạc
Dạ tĩnh xuân sơn không
Nguyệt xuất kinh sơn điểu
Thời minh xuân giản trung .
      Vương Duy

   Khe Chim Kêu

Người nhàn, hoa quế rụng
Đêm lặng, núi xuân yên
Trăng lên chim núi hoảng
Kêu vang giữa khe xuân.
      Vinh Hồ dịch

  

   Trúc Lư Quán

Độc toạ u hoàng lư
Đàn cầm phục trường khiếu
Thâm lâm nhân bất tri
Minh nguyệt lai tương chiếu .
Vương Duy

   Quán Trúc Ly

Một bóng bên khóm trúc
Đàn cầm gảy khúc ca
Rừng sâu người chẳng biết
Trăng sáng đến cùng ta.
Vinh Hồ dịch  

 

   Lộc Trại

Không sơn bất kiến nhân
Đản văn nhân ngữ hưởng
Phản ảnh nhập thâm lâm
Phục chiếu thanh đài thượng .
   Vương Duy

   Trại Lộc

Núi vắng không thấy người
Chỉ nghe tiếng người nói
Rừng thâm u nắng rọi
Thảm rêu xanh nắng soi.

   Vinh Hồ dịch 

 

   -Đỗ Phủ

   Tặng Hoa Khanh

Cẩm Thành ti quản nhật phân phân,
Bán thập giang phong bán nhập vân
Thử khúc chỉ ứng thiên thượng hữu,
Nhân gian năng đắc kỷ hồi văn!

    Đỗ Phủ

 

   Tặng Hoa Khanh

Cẩm Thành đàn địch suốt đêm ngày

Nửa theo sóng gió, nửa theo mây

Xem ra chỉ ứng trên thiên quốc

Trần thế ai nghe được khúc này?

 Vinh Hồ dịch 

 

   -Vương Xương Linh

   Tống Hồ Đại
Kinh Môn bất kham biệt,
Huống năi Tiêu Tương thu.
Hà xứ dao vọng quân,
Giang biên ḿnh nguyệt lâu.

   Vương Xương Linh
   Tiễn Hồ Đại

Kinh Môn chẳng đành biệt

C̣n gặp Thu Tiêu Tương

Biết đứng đâu trông bạn?

Lầu nguyệt sáng bên sông.

   Vinh Hồ dịch 

 

   Khuê Oán

Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu

Xuân nhật ngưng trang thướng thúy lâu

Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc

Hối giao phu tế mịch phong hầu

   Vương Xương Linh

    Dịch:

   Khuê Oán

Thiếu phụ pḥng khuê chẳng biết sầu

Ngày Xuân trang điểm bước lên lầu

Đầu đường chợt thấy màu dương liễu

Hối hận khuyên chồng kiếm tước hầu. 
   
Vinh Hồ dịch 

 

   -Bạch Cư Dị (772 – 846)

    Dạ vũ
Tảo cung đề phục yết
Tàn đăng diệt hựu minh
Cách song tri dạ vũ
Ba tiêu tiên hữu thanh.

   Dịch:

   Mưa đêm
Con dế  hừng đông gáy lại ngừng

Ngọn đèn tàn lụi bỗng sáng bừng

Cách song biết đêm mưa rả rích

Tàu tiêu lộp độp măi không ngừng.

   Vinh Hồ dịch

 

   Tŕ Thượng 

Tiểu oa sanh tiểu đỉnh

Thâu thái bạch liên hồi

Bất giải tang tung tích

Phù b́nh nhất đạo khai

   

   Trên Ao     

Cô bé bơi thuyền nhỏ

Bông sen trắng hái về

Hớ hênh không che dấu

Mặt bèo hở một khe.

   Vinh Hồ dịch

 

   Hàm Đan đông chí dạ tư gia

Hàm Đan dịch lư phùng đông chí
Băo tất đăng tiền ảnh bạn thân
Tưởng đắc gia trung thâm dạ tọa
Hoàn ưng thuyết trước viễn hành nhân
    Bạch Cư Dị

Dịch:

   Hàm Đan đêm đông chí ở nhớ nhà

Hàm Đan nhà trạm tiết đông chí

Ôm gối trước đèn một bóng ta

Tưởng đến gia trung đêm đă cạn

C̣n ngồi bàn tán nhắc người xa.

   Vinh Hồ dịch

 

-Mạnh Hạo Nhiên.

Xuân hiểu

Xuân miên bất giác hiểu

Xứ xứ văn đề điểu

Dạ lai phong vũ thanh

Hoa lạc tri đa thiểu

   Mạnh Hạo Nhiên.

 

   Buổi sớm mùa xuân

Xuân ngủ vùi nào hay

Nơi nơi chim ríu rít.

Đêm qua mưa gió lay

Hoa rụng nhiều hay ít?

   Vinh Hồ dịch

 

   9-Tâm T́nh Sẻ Chia:

   Qua những bài Tứ tuyệt tiêu biểu trên của các tác giả lừng danh, có nhiều tác giả đă sống cách nay hơn ngh́n năm, nhưng tâm hồn luôn đa cảm, trân trọng cái đẹp, yêu quư t́nh nghĩa… không khác chúng ta bây giờ. Đứng trước thiên nhiên, t́nh người… trái tim họ rung lên bằng lời thơ bày tỏ, ca ngợi. Họ thường sống đạm bạc, ḥa ḿnh vào thiên nhiên vũ trụ. Qua thơ, thiên nhiên gẫn gũi, người và thiên nhiên ḥa nhập thành một, phảng phất hương vị Thiền, Đạo. Nhà thơ như đạo sĩ, Thiền sư. Trong thơ họ, thiên nhiên đẹp rực rỡ, thường bàng bạc đâu đó nỗi cô đơn, u tịch của thân phận con người hữu hạn trước trời đất vũ trụ vô cùng. Vũ trụ bao la, t́nh người vĩ đại, cảm xúc tràn đầy… đáng lẽ phải được viết ra trong vài ba trang giấy nhưng không, họ chỉ chấm phá cô đọng (tối đa) trong 4 câu 28 chữ, thậm chí chỉ có 20 chữ mà thâm sâu ảo diệu vô cùng! Thế mới biết Tứ Tuyệt tuyệt vời ra sao? Một thể thơ đă sống, trải qua 2 ngh́n năm lịch sử, đến nay vẫn c̣n được nhiều người hâm mộ, vẫn c̣n được nhiều người chấp bút. Đặc điểm của Tứ Tuyệt là nhỏ về h́nh thức nhưng lớn lao về nội dung. Ư nghĩa này có lẽ đă được đề cập đến trong Kinh Duy Ma Cật: căn pḥng chỉ có một trượng nhưng đă chứa hàng hà sa số chư thiên. Lăo Tữ cũng nói “Quư dĩ tiện vị bổn. Cao dĩ hạ vi cơ” (Quư lấy tiện làm gốc. Cao lấy thấp làm nền). Người xưa nói chỉ trong gang tấc mà có cái thế của vạn dặm. Tứ tuyệt có thể ví như một ly cà phê phin, một chậu bon-sai hay một viên ngọc. Có nhiều bài đă đạt tới 2 chữ: “thơ thần” sống măi với thời gian.

   Đọc thơ Tứ tuyệt, yêu thơ Tứ tuyệt, làm thơ Tứ tuyệt là trở về với cội nguồn văn hóa dân tộc VN và không ngừng nỗ lực phát huy tinh hoa của nó. Suốt trên một ngh́n năm, Tứ Tuyệt đă chuyên chở một phần đáng kể “tâm hồn” VN. Đẹp đẽ biết bao nhiêu!

   Vinh Hồ (sưu tầm, biên khào).

   8/11/11

 

   *Kinh Thi là một bộ tổng tập thơ ca vô danh của Trung Quốc, một trong năm bộ sách kinh điển của Nho giáo. Các bài thơ trong Kinh Thi được sáng tác trong khoảng thời gian 500 năm, từ đầu thời Tây Chu (1027 -771 TCN) đến giữa thời Xuân Thu (770-476 TCN). Kinh Thi chia làm Phong, Nhă, Tụng gồm 311 bài thơ có nguồn gốc ca dao, dân ca và nhă nhạc triều đ́nh mà tác giả thuộc mọi tầng lớp trong xă hội đương thời. Từ lĩnh vực dân gian, âm nhạc… được chuyển sang lĩnh vực thành văn rồi thành kinh tịch, Kinh Thi đă trải qua quá tŕnh sưu tầm, chỉnh lư, biên soạn khá phức tạp.

Thời Xuân Thu (722 đến 481 TCN), Thời Chiến Quốc (403-221 TCN). Năm 230 trước công nguyên, vua Nhà Tần lần lượt tiêu diệt 6 nước, thống nhất toàn quốc vào năm 221 trước công nguyên, kết thúc chia rẽ trong gần 600 năm ở Trung Quốc.

 Tài liu tham kho:

  • Nguyn Hiến Lê, Đại cương Văn hc s Trung Quc, Nxb Tr, 1997.
  • Dch Quân T, Văn hc s Trung Quc (Tp I). GS. Hunh Minh Đức dch. Nxb Tr, 1992.
  • Nguyn Khc Phi, T đin Văn hc (b mi), Nxb Thế gii, 2004.
  • Nhiu tác gi Trung Quc, Đại cương lch s văn hóa Trung Quc. GS. Lương Duy Th (ch biên) dch t tiếng Trung Quc. Nxb Văn hóa-Thông tin, 1994.
  • Trn Trng San, Thơ Đường. T sách Đại hc Tng hp Sài G̣n n hành, 1990.
  • Hunh Minh Đức, Hán văn I, Nxb Minh Trí, Sài G̣n, 1973.

 

 

 


 

VINH HỒ

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

     

 

 

 

       

 

 

 

 

 

Trang XUÂN 2012- Văn Học Nghệ Thuật Và Quê Hương