|
Mục
Lục
Trang
B́a
Ban
Biên Tập
Lá
Thư Xuân
Lê Văn
Ngô
Đọc
Lá Thư Xuân
Cô Hà
Sớ
Táo Xứ Ninh
Phan Song
Câu
Đối Mừng Xuân
Tư
Nguyên
& Lê Văn Ngô
Chúc
TẾT
NINH-H̉A.COM
Thi Thi
Thơ
Xuân
"Xuân
Hợp
Quần"
Lương
Lệ Huyền Chiêu
"Xuân
Hợp
Quần"
Lê
Thị Đào
Ḷng
Người Rộng Mở
Như Xuân
Vinh
Hồ
Mừng
Xuân Con Rồng
Rồng
Vinh
Hồ
Chúc
Xuân
Xuân
Đă
Về
Lư
Hổ
Đón
Xuân
Nguyên
Kim
Xuân
Quê
Hương
Kiều
Lam
Đường
Tu
Nguyên
Ngộ
(Lê
Văn
Ngô)
Xuân
Nhâm
Th́n
Hy
Vọng
Tư Nguyên
(Bùi
Ngoạn
Lạc)
'Xuân
Hợp
Quần"
Nguyên
Phong
(TN
Chánh)
"Xuân
Hợp
Quần"
Thi
Thi
Xuân
Cảm
Lê
Bá
Thiên
"Xuân
Hợp
Quần"
Nguyễn
Thị Thanh
Trí
T́nh
Khúc
Mùa
Xuân
Tiểu
Vũ Vi
Xuân Qua
Hồi Ức Mùa
Xuân
Vân
Anh
Tết Của Người
Lớn
Lữ
Kiến
Đồng
Hoài
Niệm
Xuân
Và
Tết
Trương
Khắc
Nhượng
Tết Đầu Tiên
Tại Cao
Nguyên Pleiku
Lê
Phú
Thọ
Năm
Mới
Kể
Chuyện
Cũ
Có
Một Mùa Xuân
Như Thế
Đỗ
Thị
Hương
B́nh
Chuyện
Nhà
Chuyện
Nước
Lan
Đinh
Chuyện
Kể Đầu Năm
Phạm
Thanh
Khâm
Chuyện Cũ Năm
Qua...
Phi-Ṛm
Những
Chuyến
Đi
Vô
Vọng
Lê
Phú
Thọ
Chuyện
T́nh
Cuối Năm
Bùi
Thanh
Xuân
Hội
Quán
Quảng
Đông
Chúc
Tết 2012
Huỳnh
Hớn Trang
Hoa
Mai
Ngày
Tết
Hoa
Mai
Linh Hồn Của
Mùa Xuân
Hoàng
Bích
Hà
Hoa
Ngày Tết
Nguyễn
Tường
Hoài
Chợ
Hoa
Ngày Tết
Vơ
Hoàng
Nam
Ba
Mươi
Ba
Đóa
Hoa
Mai
Phan
Song
Chuyện
Vui
Xem/Đọc
3
Ngày
Tết
Xóm
Sợ Vợ
Nguyễn
Hiền
Vạn
Vật Đều Có
Số - T́m
Người Bảo
Vệ
Lư
Hổ
Nụ
Hôn Đầu
Thanh
Mai
Ḿnh
Ơi !
Lê
Thị
Hoài
Niệm
Chuyện
Vui
Ngày
Tết
Hà
Thị
Thu
Thủy
Cắm
Hoa
Trang
Trí
Nghệ
Thuật
Cắm
Hoa
Lê
Thị
Lộc
Tranh
Nghệ Thuật
Tranh
Ảnh
Nghệ
Thuật
Phi
-
Ṛm
Thơ
Vui
Năm
Con Rồng
Rồng
Đến
Tú
Trinh
XUÂN
Ca
Hát
Nhạc Xuân Và Quê
Hương
HT Thu
Thủy,
Lan
Đinh
LL
Huyền
Chiêu,
Lư
Hổ,
LT Hoài
Niệm,
LL Minh
Trí
Slide
Show/YouTube
Phạm
Thúc
Tâm
Mai Hữu
Thọ
Phương
Ngữ
Ninh
Ḥa
Một
Số
Từ
Biến
Âm:
DẢNH
Nguyễn
Văn
Thành
Tôn
Giáo
Câu
Chuyện Đầu Năm
Lê
Thị
Mỹ Châu
Di-
Lặc Mang Xuân
Đến
Với Người
!
Mục
Đồng
Chúng
Con
Về Đây
Đinh
Thị
Lan
Christchurch
Vẫn Măi Trong
Tim !
Bạch
Liên
Tử
Vi
Vài
Mẩu Chuyện Về
Tiên Tri
Liên
Khôi
Chương
Tử
Vi Năm Nhâm
Th́n 2012
Phạm
Kế
Viêm
Du
Lịch
Vương
Quốc Thái Lan:
Một
Chuyến Đi
Kỳ Thú
Nguyễn
Thị
Thanh
Trí
Năm
Th́n
Nói
Chuyện
Rồng
Tản
Mạn Về
Tết
Nhâm
Th́n
Nguyễn
Văn Thành
d_bb
Đ.H.K.H
Vài
Phát Biểu Ở
Một Thời
Điểm Qua
Tô
Đồng
Liêu Trai Chí
Dị-468
Đàm
Quang
Hưng
Thanh
Phong
Thi
Tập-105
Vũ
Tiến Phái
Tôn Giả Mục-Kiền-Liên
Nguyễn
Văn Phú
Tư
Duy Trong Thơ
Nguyễn
Khuyến
Lê
Phụng
Đường
Vào KINH DỊCH
Nguyễn
Hữu
Quang
Con
Đường
Chứng
Ngộ-34
Trần Cao
Tần
Lời
Mẹ
Hỏi -
Trở
Về
Trần Cao
Tần
Ngắm Sao
Nguyễn
Đức Tường
Tử
Vi Năm Nhâm
Th́n 2012
Phạm
Kế
Viêm
Sưu
Tầm
Các
Bộ Tranh Dân
Gian
Nổi Tiếng
Vinh
Hồ
Tết
Xứ Người Xem
H́nh
Ảnh Cũ
Vinh
Hồ
Sinh
Mệnh Con Người
Hà
Thị
Thu
Thủy
Chuyện
Vượt
Biên
Chuyện
Người
Tị
Nạn-19
Lư Hổ
Pulau
Bidong,
Một Trời Kỷ
Niệm
Bạch
Liên
Phép
Nhiệm
Mầu
Lê
Phú
Thọ
Văn
Hóa
Ẩm
Thực
Gị
Thủ
Sườn
Heo Sốt Me
Chua
Mẹo
Vặt Vào Bếp
Lan
Diệp
Rơm
Rạ Quê Nhà
Kem
Flan (Bánh Flan)
Lê Thị
Đào
Món
Canh Légume
Việt
Hải
Mùi
Củ Kiệu
Cao Minh
Hưng
Tôm
Rang Muối Tiêu:
Video
Tôm Sốt
Sữa: Video
Lư Hổ
Chuẩn
Bị Nấu Bánh
Bạch Liên
Những
Đặc Sản Hồn
Quê
ViệtNam
Vào Tết Nhâm
Th́n
Nguyên
Phong
Sức
Khỏe
Bệnh
Viêm
Kết
Mạc
BS
Lê
Ánh
Bệnh
Tay
Chân
Miệng
BS Nguyễn
Vĩ
Liệt
Biên
Khảo
Kinh
Tế
Việt
Nam
Tổng
Kết T́nh
H́nh
Kinh
Tế
Của
Việt
Nam
Năm 2011
Nguyễn
Văn Thành
Hoa
Kỳ/Thế
Giới
Tổng
Kết T́nh
H́nh
Kinh
Tế
Của
Mỹ
Quốc Năm 2011
Nguyễn
Văn Thành
Kinh
Nghiệm
Sống
Món
Mới
Kiều
Lam
Biển
Có
Linh
Hồn
Không?
Bạch
Liên
Vạn
Vật
Bạch
Liên
Đạo
Nghĩa
Vợ
Chồng
Vơ
Hoàng
Nam
Phân
Biệt
Lê
Văn
Ngô
Viết
về
Ninh
Ḥa
Những
Điều
Lư Thú Về
Ninh-Ḥa
Trần
Minh
Hiền
Đám
Cưới
Đầu
Xuân
Phan
Nho
Những
Ngày
Ở
Đồng
Quê
Lê
Phú
Thọ
Viết
về
ninh-hoa.com
Duyên
Nào Tôi Đến
Với
Ninh-ḤaDOTCom
Trâm
Anh
Đầu
Năm...Khai
Máy
Topa
Panning
Kỷ
Niệm
Về
Trường:
Trần
B́nh Trọng
Ninh Ḥa
Hạ
Trong
Thơ
Mới
Nguyễn Thị
Đào
Năm
Học
1974-1975
Trần
Hà Thanh
Lời
Ngỏ
Bùi Thanh
Xuân
Bán
Công
Hồi
Tưởng
Lương
Lệ Huyền Chiêu
Vạn
Ninh
Lời
Chúc
Xuân
Ngọc Ánh
Nắng
Xuân
Tuyết
Xuân
Huỳnh Thị
Hà
Miên Trường Xuân
Thịnh
Vượng
Lam Kha
Xuân
Mới
Nguyên Kim
Vọng
Cổ:
Mừng
TẾT
Nguyễn Thị Kính
Dọc
Đường
Hồ Thoại
Mỹ
Chúc
Tết
Vui
Xuân -
Đón
Tết
Lâm Ngọc
Xuân
Tuổi
Thơ
Thanh Nhàn
Tâm
Sự
Đầu
Xuân
Hồ Thị
Thanh Nhàn
Lời
Chúc
Đầu
Xuân
Tưởng
Mùa
Xuân
Hà Tấn
Sỹ
Chúc
Mừng
Năm
Mới
Nguyễn
Thị
Thí
C̣n
Lại
Trong
Em...
Thúy
Vũ
VT/NTH
Chuyện
Các
Anh
Và
Tôi
Người Xứ
Vạn
Các
Trường
Khác
Họp
Mặt
Đầu
Xuân
Lê Thị
Ngọc Hà
Lụt
Trong
Văn
Chương
Mùa
Lụt
Quê
Tôi
Trần
Như
Phương
Vè Băo Lụt
Năm Nhâm
Th́n 1904
Nguyễn
Văn
Sâm
Văn
Học
Nghệ
Thuật
Đời Sao Buồn
Chi Mấy
Cố Nhân
Ơi
Lương
Lệ
Huyền
Chiêu
Rượu Trong Ca
Dao
Tục Ngữ
Hoàng
Bích
Hà
Thơ
Tứ Tuyệtt
Vinh
Hồ
T́nh Sử Lạc
Long Quân Và
Âu Cơ
Vinh
Hồ
Truyền Thuyết Trọng
Thủy-
Mỹ Châu
Và Bài Thơ
UTLâm
Vinh
Hồ
Nhớ Sao Là
Nhớ Xuân Xưa
Nhất
Chi Mai
Dịch
Thơ
Lư
Bạch: Nghĩ
Cổ
Dương
Anh
Sơn
Thanh Hiên Thi
Tập:
Bài Số:
45-46
Dương
Anh
Sơn
Một Lần Gặp
Lại
Mùa Yêu Thương
Kim
Thành
Chùm Thơ Đường
Luật
Người
Xứ
Vạn
Duyên
Dáng Mùa Xuân
Tiểu
Vũ
Vi
Thơ
Mùa
Xuân
Quê
Cũ
Vân
Anh
Nỗi
Niềm
Xuân
Dương
Công
Khánh
Hương
Xuân
Nguyễn
Thị
Bảy
Chúc
Xuân
Trần
Thị
Chất
Như
Mây
Bay
Đi
Lương
Lệ Huyền Chiêu
Xuân
Cao
Nguyên
Du
Xuân
Nguyễn
Thị
Cúc
Hoa
Xuân
Cười
Ta
Vẫn
Hẹn
Hương
Đài
Mưa
Nguồn
An
Lạc
Mục
Đồng
Bài
Thơ
Con
Cóc
Nguyễn
Hiền
Mùa
Xuân
Quê
Hương
Tường
Hoài
Em
Về Cùng Xuân
Mời
Xuân Lên Ngôi
Nguyễn
Văn
Hóa
Chùm
Thơ Họa
Vinh
Hồ
Màu
Xuân
Trà
Kim
Huy
Nói
Sao Vừa
Quỳnh
Hương
Ngày
Xuân
T́nh
Xuân
Hoàng
Công
Khiêm
Rực
Rỡ
Sắc Xuân
Lê
Thị
Lộc
Ngô
Đồng
Nhất
Chi
Mai
Sang
Mùa
Mùa
Xuân Mưa
Nguyễn
Thị
Khánh
Minh
Nhớ
Khúc
Ninh
Ḥa
NGH(NH)
Chùm
Thơ
Xuân
Nguyễn
Hoàng
Phi
Nḥa-Quê
MẸ
Ngàn
Thương
Mh
HoaiLinhphuong
Hương
Sắc
Mùa
Xuân
Bích
Phượng
Hẹn
Xuân
Đón
Xuân
Nguyễn
Quân
Mơ
Và Nhớ
Lê
Văn
Quốc
Gom
Nhặt
Những
Mùi
Hương
Quốc
Sinh
Dấu
Xưa
Sương
Khói
Dương
Anh
Sơn
Xuân
T́nh
Kim
Thành
Bâng Khuâng Chiều
Cuối
Năm
Vơ
Ngọc
Thành
Nhớ
Tết
Quê Tôi
Lê
Hùng
Thân
Xuân
T́nh Thương
Thi
Thi
Dáng
Xuân
Lời
Xuân
Hoài
Thu
Mùa
Xuân
Xa
Xứ
Ngô
Trưởng
Tiến
Xuân
Nguyện
Nguyễn
Tính
Văn
Một
Chiều
Cuối
Năm
Nhớ
Về
Các
Bạn
Nguyễn
Vũ
Trâm
Anh
Cát
Tiên
Khuất
Đẩu
Xuân
Này
Chị
Không
Về
Lê
Thị
Ngọc
Hà
Mùa
Xuân
Anh
Yêu
Em
Việt
Hải
Con
Dốc
Nguyễn
Hiền
Thầy
Bói
Trần
Minh
Hiền
Bếp
Lửa
Gia
Đ́nh
Lư
Hổ
Xuân
Vắng
Mẹ...
Hoàng
Lan
Bên
Dốc
Đời
Nh́n
Lại
Những
Xuân
Qua
Hải
Lộc
Gởi
Cô Bạn Nhỏ
Xóm
Rượu
Phan
Kiều
Oanh
Làm
Con Th́ Phải
Là Con
Phan
Song
Bóng
Dáng Một Mùa
Xuân
Lâm
Minh
Tài
Người
Trễ
Hẹn Mùa
Xuân
Nguyễn
Hữu
Tài
Ḍng
Đời
Thi
Thi
Ba
Má
Tôi
Phạm
Thị
Thục
Đầu
Năm
Đón
Giao
Thừa,
Đi
Lễ
Chùa
Hái
Lộc
Đầu
Xuân
Trí
Bửu
Nguyễn
Thừa
Một
Chút Ưu Tư
Nguyễn
Tính
Một Mùa Xuân
An B́nh
Đang Về...
Nguyễn
Đôn
Huế
Trang
Thư từ,
bài vở, h́nh ảnh hoặc
ư kiến xây dựng, xin liên lạc:
diem27thuy@yahoo.com
|
hân thời gian băo lụt ở Việt Nam hiện giờ, giới thiệu lần đầu tiên một bản văn Nôm thời sự miền Nam Kỳ Lục Tỉnh về băo lụt:
Vè Băo Lụt Năm Th́n 1904
Nguyễn Văn Sâm
Thơ liên quan đến thời sự ở Nam Kỳ Lục Tỉnh hiện c̣n nhiều
nhưng v́ đa số là những bài văn ngăn ngắn không có tên tác giả nên
chẳng được giới nghiên cứu để ư khảo sát công phu v́ vậy người có
dịp chú ư đến loại nầy không nhiều, người biết cũng là phơn phớt,
chưa có dịp đi sâu vào nguyên bản. Đầu thế kỷ 20 nổi tiếng nhứt là
Thơ Sáu Trọng, Thơ Cậu Hai Miêng, Thơ Thầy Thông Chánh.
Những tác phẩm ngắn hơn, nói về những chuyện tầm thường hơn cũng
có lưu truyền nhưng phổ biến không rộng răi bằng có thể kể là
Khám Lớn Thơ, Thơ Năm Tỵ, Thơ Nam Kỳ, Thơ Máy Bay, Vè Máy Bay, Vè
Vương Sinh Mê Mèo Bỏ Mạng, Vợ Nhỏ Đánh Vợ Lớn Thơ, Thơ Sáu Nhỏ, Vợ
Lớn Vợ Bé Đánh Ghen Thơ, Vè Gái Du Giang Hồ, Vè Anh Hà Tiện, Vè
Giải Oan cho vợ Chệt vợ Chà, Vè Heo Điên Cắn Cô Thợ May, Vè Trời
Trồng, Vè Cô Ba Cô Sáu Đua Xe Máy,Vè Dâu Dữ Bị Trời Hành Tội, Thơ
Tuồng Ông Trượng Tiên Bửu, Thơ Tuồng Thằng Lănh Bán Heo….
Đó là những tài liệu sống động cho thấy những hoạt cảnh một thời đă qua
hơn trăm năm rồi, với những nét tuy chấm phá nhưng cụ thể, gia công một
chút ta có thể vẽ phác lại cái xă hội Việt vào những năm đầu của thế kỷ
trước, lúc giao thời của một xă hội cô lập lâu đời đóng khung trong ảnh
hưởng độc nhất của văn hóa Trung Quốc với văn minh Tây Phương.
Đó là nói chuyện quốc ngữ, về mặt Nôm, tác phẩm liên quan đến thời
sự không có cái may mắn như phần quốc ngữ. Hiếm hoi lắm mới gặp
được một.
Chúng tôi nhờ cơ duyên được sở hữu một bản Nôm viết tay, xuất hiện
khoảng đầu thế kỷ 20 gồm 5 tờ chép đầy 10 trang khổ lớn của một
bài thơ lục bát dài 226 câu nói về chuyện băo lụt ở Lục Tỉnh năm
Giáp Th́n 1904, nay xin phiên âm, giới thiệu và chú giải vài chỗ
khó hiểu để cống hiến bạn đọc.
Bản văn không thấy tựa đề, người chủ trước, ông Nguyễn Văn Thoa
nói rằng đă sưu tầm được ở Sađéc, đề nghị đặt tên là Lục Tỉnh
Giáp Th́n Băo Lụt Vè, thấy cũng hữu lư nên xin để nguyên.
Nh́n chung, bài thơ b́nh dân về mặt dùng từ, về sự gieo
vần, về diễn ư, tổng quát có thể coi như một bài vè, nhưng về mặt
nội dung có những điều cụ thể về thời sự lúc nó xuất hiện
không dễ ǵ những bài thơ kiểu nầy, dầu văn chương hơn có thể cung
cấp được. Một sự giới thiệu v́ vậy rất đáng được bỏ công.
Phải nói liền là chữ Nôm trong văn bản rất Nam Kỳ,
nghĩa là nếu âm theo chữ Nôm được sử dụng trong đó th́ có thể bị
coi là sai chánh tả v́ người viết viết Nôm theo giọng đọc địa
phương miền Nam, không phân biệt phần cuối có hay không g,
viết bằng c hay t , nhứt là khuynh hướng viết như
nói với ít tốn công nhứt (chữ thở dùng cho thuở
chẳng hạn, cũng như chữ tùy một vào tác phẩm viết bằng
t́…).
Tuy nhiên như chúng tôi đă nói ở trên, chúng ta chú ư đến
những chi tiết thực tế hữu ích về sinh hoạt của người dân lúc bài
văn xuất hiện, những điều cụ thể mà người sống thời đó nh́n thấy,
cảm nhận. Chẳng hạn như quân Pháp đánh Việt Nam đầu tiên vào năm
nào, ở địa phương nào, thái độ của quan quân thời điểm lịch sử đó
ra làm sao:
t1. Thốt thôi lại kể đời nay,
Từ năm Đinh Tị
Tây rày mới qua,
Ban
đầu vô lấy Sơn Trà,
Năm sau Gia Định, Biên Ḥa, Đồng Nai.
005 Quan trên thiên hạ ai ai,
Dốc đền nợ nước ra tài chiến tranh.
Lúc đó, trước sự tấn kích của súng đạn Tây Phương các cứ điểm
pḥng thủ tan vở, quan quân chạy tán loạn, bỏ mặc dân t́nh trong
cảnh đau thương như rắn mất đầu:
V́ đâu nên nỗi
giặc Tây tới ḿnh.
Thương thay những kẻ dân t́nh,
Quan quân chẳng có, một ḿnh bơ vơ.
Ban đầu là vậy, nhưng sau giặc Tây với súng đạn ưu thế của
ḿnh, ổn định t́nh h́nh, làng tổng được chiêu an để tái lập, dân
chúng trở về lại quê nhà sống đời sống an b́nh trước đây nhưng bây
giờ dưới sự kiểm soát của chánh quyền chiếm đóng. Giặc Tây, lúc
nầy có tên mới là Nhà Nước Đại Pháp, thực hiện những xây dựng phục
vụ cho việc cai trị lâu dài. Người dân quê Việt Nam lần đầu thấy
những vật lạ mắt, những áp dụng kỹ thuật Tây Phương, họ ngạc nhiên
và thán phục:
Tỉnh thành chí những quận châu,
Cũng đều lập gác,
xây cầu xinh thay!
035 Dưới sông tàu chạy rất hay,
Trên bờ xe lửa chim bay khác nào.
Rất nhiều phép lạ tài cao,
Giăng ra dây thép
việc nào cũng hay.
Đường đi ba bốn năm ngày,
040 Ước chừng giây thép đi nay một giờ.
Ví như học phép tiên cơ,
Làm ra những máy binh thơ nhiệm mầu.
Máy xe, máy ngựa, máy cầu,
Máy đèn, máy nước, máy dầu lạ thay!
045 Áo quần lại có máy may,
Gạo thời máy giả máy xay máy sàng,
Chuyện hành chánh được tổ chức lớp lang theo Tây phương, chẳng
hạn như Ṭa Án, không c̣n giao quyền xử phán cho một ông quan theo
những xét đoán không mấy khoa học và nhiều cảm tính như từ trước
tới giờ:
Ai mà hung dữ lung lăng.
t3. Phạm vô điều luật đóng trăn
bỏ tù.
San đầm, phú lít
tuần du,
Đề lao khám tối canh tù nghiêm thay.
055 Gian tham trộm cướp đâu rày,
Sát nhơn hung bạo án đày chung thân.
Lập làm ṭa án xử phân,
Việc h́nh điền thổ có phần bẩm thưa
Tóm lại, có thể một phần nào người viết đă lóa mắt trước những
thay đổi mới nên thán phục quá đáng, nhưng thật sự những thay đổi
đó dân chúng cũng hưởng được nhiều tốt lành của đời sống văn minh
mới.
Thế nhưng vào năm Giáp Th́n đời sống b́nh thường của dân bỗng
nhiên bị tai trời ách nước, bắt đầu với sự kiện lạ lùng của mặt
trời năm đó:
Tháng ba mười
sáu bằng nay,
080 Mặt trời sao lại khuyết
rày một bên.
Nhân dân thiên hạ ngó lên,
t4. Cũng
điều thấy khuyết một bên rơ ràng.
Cỏ cây coi thấy vàng vàng,
Ngó ra chẳng khác dặm đàng sương sa.
085 Mặt trời
vừa mới xế qua,
Mờ mờ như thể trời đà hoàng hôn.
Rồi th́ mưa to gió lớn, nhà sập, đất lỡ, nghĩa là băo đến mà
không ai biết trước kể cả chánh quyền, chẳng ai đề pḥng nên tai
họa rất khủng khiếp:
Trời mưa nổi
nước minh mông,
Lúa rê chẳng đặng ngâm chùng mộng ra.
095 Tới ngày
mười sáu tháng ba,
Từ từ gió tới tưởng là trận dông.
Nặng nề tại xứ G̣ Công,
Nhà thời sập hết chẳng không cái nào.
Dưới sông nổi sóng ba đào,
100 Ghe
thuyền đâu mất nơi nào bặt tăm.
Trên bờ cây ngă ầm ầm,
Mới hay là băo ruột tầm héo don.
Nhiều cảnh tượng thương tâm diễn ra, bài văn mô tả rất cụ thể
với người chết thây trôi tấp vô chỗ nầy chỗ khác, thi thể lơa lồ,
đất sạt lỡ biến mất:
Mười phần c̣n một là may,
Chín phần bị sóng xẩy tay
chết rồi.
Lỏa lồ
thân thể thương ôi,
Linh đinh sóng dập gió dồi biết bao.
Giang hồ có chỗ nào cao,
120 Thây trôi
tấp lại biết bao nhiêu người.
Trẻ già nào biết mấy mươi,
G̣ Công ra biển hết mười ba thôn.
Thây thời chẳng có ai chôn,
Người c̣n sống lại hết hồn thất kinh.
Trong cảnh tang thương đó, có một ông Đốc Phủ, tuy là người
quyền chức nhưng đầy ḷng nhơn từ đă giúp đở việc chôn cất người
chết, không có ǵ, chỉ cung cấp chiếu để bó thây thi thôi, nhưng
cũng là số rất lớn, tốn kém:
Có quan lớn Đốc
Phủ Tư,
Vợ chồng ăn ở
nhơn từ xưa nay,
Sai quân chở
đệm về rày,
Một người một chiếc hết nay ba ngàn.
145 Cảm
thương mấy chú dân làng,
Thở hơi nực mũi thảm càng xiết chi.
Một hầm năm bảy
cái thi,
Đua nhau xuống
đó lấp đi cho rồi .
Không phải một ḿnh quan Đốc Phủ, c̣n có những viên chức nhỏ
hơn, ở cấp làng xă thôi, nghĩa là rất thấp trong hệ thống hành
chánh, nhưng đầy thiện tâm trong việc xuất phát tiền bạc để giúp
nạn dân. Nếu chúng ta liên tưởng đến những hành vi đê tiện trong
việc lợi dụng chức vụ để ăn xới ăn bớt hay phân phát không công
b́nh thời nay khi có thiên tai th́ người xưa thiệt là đáng khen:
Có thầy Cai Trí
Vĩnh Long,
Chức làm Cai
Tổng ở trong Ba Kè.
Vợ chồng khi ấy
mới nghe,
Chở tiền cùng
gạo một ghe cho đầy.
155 Dốc ḷng
làm phước hội nầy,
Ba Kè lại có một thầy Nhiêu Ninh.
Hai người thôi
mới đồng t́nh,
Chở tiền cùng
gạo lộ tŕnh ra đi.
Tới nơi xem
thấy sầu bi,
160 Trước là
làm phước sau th́ thương dân.
Vậy mà dân cũng chưa hết nạn, khi băo dứt, mọi người vừa mới
tỉnh tỉnh bắt đầu làm ăn trở lại, chưa kịp phục hồi đời sống như
trước, vết thương mất mát người thân chưa lành miệng th́ tới tháng
chín cũng năm đó, băo lại viếng nữa, nước dâng tràn khắp Lục Tỉnh,
nghĩa là phải đối phó với một sự tàn phá lớn tiếp theo:
190 Qua rằm
tháng chín một lần băo sau.
Sốc Trăng,
Vàm Tấn, Bảy Xàu,
Bạc Liêu, Rạch
Giá, Cà Mau cũng nhiều,
Nước dâng chẳng
có bao nhiêu,
Nhà thời cái sập cái xiêu cái c̣n.
195 Việc đời
nhiều nỗi thon von…
Năm Giáp Th́n dân Lục Tỉnh gánh hai trận băo, tưởng là qua năm
sau dễ thở hơn, ai dè tai nạn lại xảy ra lần nữa, lần nầy tuy là
h́nh thức khác hơn, lúa trồng cũng tốt tươi nhưng tiếc là không
thể thu hoạch được, do đất đai bị biến đổi, trong đó có thể là sự
nhiểm mặn, sự biến đổi độ acid trong đất…
205 Giáp Th́n
nay đă hết rồi,
Bước qua Ất Tỵ
lần hồi sẽ hay.
Ai ngờ trời
khiến chẳng may,
Lúa thời có bụi bông rày không bông.
Người giàu năm
bảy chục công,
210 Nghèo
thời cấy ít ngoài đồng vàng mơ.
Việc nầy v́ bỡi thiên cơ,
Nạn dân ách
nước bây giờ biết sao
Và người dân bỏ làng ra đi, tha phương cầu thực bằng chính đôi
tay của ḿnh, không thể ở lại quê nhà để bó tay chịu chết đói do
chẳng có đất ruộng cày cấy, chẳng có lúa giống, chẳng có ai mướn
ai mượn:
E khi sợ nỗi
đói ḷng,
Hết tiền hết
lúa ai pḥng cho vay.
Lo đêm rồi lại
lo ngày,
Rủ nhau làm
mướn đi rày các nơi.
Ra đi vái Phật
vái Trời,
226 Xin cho mạnh khoẻ gặp thời làm ăn.
Vái Trời! Con người ta thiệt là cùng cực mới mới cầu cứu đến
Trời!
Đất nước nào cũng từng chịu đựng những thiên tai, thế kỷ trước
khoa học chưa tiến bộ, sự báo động hay pḥng ngừa các hiện tượng
thiên nhiên dữ dằn chưa có, dân chúng v́ vậy khổ sở hơn ngày nay
khi băo lụt đến. Bài văn nầy công kích gián tiếp chánh quyền cai
trị khi không cho thấy bất cứ một sự giúp đở, săn sóc nào của
người Pháp vốn là chủ nhơn ông của nước ta lúc đó đối với dân
chúng nạn nhân. Ngoại nhân cai trị th́ dân chúng ở thuộc địa là
con ghẻ để bị bóc lột và khai thác hơn là được giúp đở để sống
thoải mái, sống ra con người. Tính ngoại nhân ác độc, vô
cảm, bàng quan bộc lộ rơ ràng khi sự khai thác chỉ nhằm cho tư lợi
của người có quyền chức chớ không v́ lợi ích của người dân.
Bài văn Nôm trên tuy b́nh thường về mặt văn từ nhưng vấn đề
đặt ra cho độc giả sau khi coi xong không b́nh thường như ta nghĩ
v́ chắc chắn là một cảm thức đau buồn man mác lẩn quẩn trong trí
sau đó rất lâu chung quanh những đau thương của dân Việt trong quá
khứ và hiện tại. (NVS, Tháng
10 năm 2011)
NGUYỄN
VĂN
SÂM
|
Trang XUÂN 2012- Văn Học Nghệ Thuật
Và Quê Hương
|
|