a năm liên tục, tôi tranh thủ thu xếp về để giỗ má và ăn Tết với
gia đình, tìm chút hơi ấm thâm tình mà gần mười hai năm nay chẳng
thể nào có được. Những ai xa nhà mới biết, mấy ngày Xuân nó quan
trọng với mình như thế nào. Hễ giở tờ lịch, thấy người Mỹ chộn rộn
lo Noel là mình cũng bắt đầu rần rần chịu hổng nổi rồi à.
Đêm giao thừa, tôi ra đèo Bánh Ít, hòa với dòng người đông như
kiến coi bắn pháo bông. Hồi giờ cứ nghĩ dân Ninh Hòa ít lắm, có
một nhúm chớ nhiêu, ai dè người đông như kiến, đi rần rần như
thác, lỡ có chuyện gì chắc co giò chạy, dẫm đạp lên nhau dẹp lép
như con cá hố quá. Các chàng trai trẻ, cô nàng xinh xinh, cao ráo,
chân dài, từ khắp mọi miền của huyện túa về, những người xa quê
mỗi năm về được ít ngày cũng bon chen ra ngắm, chỉ có điều cất
giọng lên vẫn còn cái giọng quê rặt, thỉnh thoảng cũng gặp được
vài đứa bạn năm xưa. Giao thừa qua, pháo hết, hai chị em chen lấn
về, chợt thấy mấy chiếc xe liên tỉnh đậu ở ngã ba ngoài chờ hết
người mới chạy. Trên xe, những gương mặt mệt mỏi mất ngủ, buồn
buồn khi phải đón Tết ở quê người xứ lạ, khi tiếng pháo bông giao
thừa nổ giòn, chắc họ chạnh lòng dữ lắm khi chẳng biết mình đang ở
nơi đâu. Chắc tại giữa cả triệu người về quê đón Tết, họ không tìm
được tấm vé đúng ngày, có khi công việc còn kéo dài mãi cuối năm,
thôi thì ráng làm kiếm thêm vài ba đồng mua thêm tí quà về quê cho
sấp nhỏ.
Những đôi mắt thẫn thờ giữa thời khắc thiêng liêng năm cũ bước
sang năm mới, một cách kì lạ cứ ám ảnh làm tôi bâng khuâng hoài
rồi nghĩ lại cái cảnh gần cả chục lần bơ vơi giữa đất Mỹ giá lạnh,
hay có khi 28 Tết phải lủi thủi kéo va li ra phi trường về lại bên
này khi không dời được lịch học, bất giác da gà da vịt nổi tùm
lum. Ai dè năm nay tới lượt mình tự ngắm chính đôi mắt thẫn thờ
trong gương.
Tôi giống Má, hay gọi tháng mười hai âm lịch là tháng Chạp, tháng
một là tháng Giêng và chỉ cần nghe hai chữ tháng Chạp thôi đã thấy
rộn ràng hết sức khi người ta cuống cuồng dù giàu hay nghèo cũng
ráng chuẩn bị cho một cái Tết tươm tất để sang năm mới mong cho
mọi điều thuận lợi. Khi một trong ba cái rằm lớn nhất trong năm,
rằm tháng Giêng kẻ khiêng người quảy, rằm tháng Bảy kẻ khóc người
cười, rằm tháng Mười kẻ cười người khóc, qua đi lại mê ra chợ coi
không khí Tết rộn ràng náo nhiệt. Ở Ninh Hòa, muốn biết chuyện gì,
nghe ngóng tin chi, cứ ra chợ là rõ tất.
Tôi nhớ Tết quê, nhớ cái không khí mà Sài Gòn, Nha Trang, hay Hà
Nội chẳng bao giờ có được. Cuộc sống thay đổi, con người thay đổi,
mọi giá trị tinh thần thay đổi, nhưng đâu đó ở quê, người ta vẫn
cố giữ một chút chân chất hồn dân tộc. Thay vì đỏng đa đỏng đảnh
cầm cục tiền ra chợ rút xèn xẹt mua tất tần tật hổng thèm trả giá,
có ai đó vẫn miệt mài mua kiệu về gọt rễ, lột lớp vỏ ngoài, ngâm
với nước tro cho trắng; cắt đu đủ, cà rốt thành hình tứ giác đem
phơi hai nắng cho heo héo, đem ngào với đường, muối, mắm, bỏ thẩu
ngâm chua. Vài bữa mở ra lấy đũa trộn đều, gắp bỏ vô miệng ăn thử
một miếng, nó giòn xừn xựt. Hàng xóm vẫn giữ thói quen đánh bột
với đường cát trắng và mớ trứng gà đều tay mà không cần bột nổi,
lôi mớ khuôn sắt rỉ sét, chà sạch, bắt lên bếp than hồng làm bánh
thửng. Mùi bánh thửng lẫn với vani thơm kì lạ, nó đánh thức vị
giác, xúc giác, thính giác, tất tần tật giác quan của con người
khi tay run run, mỉm cười, cầm cái bánh vàng ươm bỏ vô miệng cắn
nhẹ, nó ngon tới tận kẽ răng.
Dì Tám vẫn giữ nghề gói bánh tét mỗi năm, nấu cho gia đình, bán
cho bà con lối xóm. Dì huy động cả đội quân con nít đi mua lá
chuối ta, ngâm nếp, ướp thịt mỡ với hành, hầm đậu xanh, luộc đậu
phộng, bày ra trước sân gói bánh tét. Dì bày ba bốn lớp lá, lấy
chén múc nếp đổ vô, lấy tay banh đều, với tay gắp miệng thịt mỡ có
dính tí nạc bỏ giữa, thêm vá đậu xanh hay đậu phộng rồi múc thêm
chén nếp đổ vô. Mà bánh tét phải ăn với thịt mỡ mới ngon nhen, ai
sợ cao máu hổng dám ăn mỡ, đòi toàn nạc, bánh mất đi mùi vị. Bởi
khi gói, mỡ chảy ra thấm vào từng hột nếp căng tròn, mướt rượt. Dì
gói chặt tay, răng rụng gần hết, miệng móm xọm nhưng vẫn hàm dùng
răng siết bánh tét bằng sóng lá cho nó chặt tay, nước không chui
vô nhão bánh. Tí Dzẹo thức trắng cả đêm canh chụm củi (thay vì xài
bếp gas) cho nồi bánh tét, mùi lá chuối tươi trộn lẫn nếp mới len
khắp xóm thôn, thơm đến từng mái ngói.
Tết mà thiếu bánh mứt với hột dưa thì hổng còn là Tết nữa. Ăn rằm
tháng chạp xong, dì Năm đã lo xắt dừa, gọt gừng, khoai lang, ngâm
với nước vôi trong rồi vớt ra phơi cho ráo. Mỗi thứ mỗi thau, trộn
chung với đường cát trắng, để lửa than riu riu trộn cho đều tay.
Tới khi nào đường khô dính vào miếng khoai, gừng, cắn thử một
miếng vừa cay vừa ngòn ngọt, thanh thanh là mứt tới (để cả hai ba
tháng cũng hổng sợ hư). Sau đó dì quay qua làm me dẻo và me ngâm.
Me già (không dốt) giờ người ta lột sẵn bán, lựa trái căng tròn,
ít hột bỏ vô thẩu ngâm với đường cát sống nó hơi lâu một tí nhưng
khi thấm ăn ngon bá cháy bồ chét, giòn và thanh hơn nhiều so với
thắng nước đường. Còn me dẻo, phải lấy hột rồi xâm đều, vắt sạch
nước chua trộn với đường cát, xắp vòng tròn trong thau, giữa là
nước đường. Lấy vá múc nước đường tưới lên me đều tay, tới khi nào
đường tới, rờ tay vô me thấy dinh dính là được rồi đó. Hột dưa thì
cắn xả đầy nhà, nhưng mùng một không được cầm chổi quét nhen, sợ
quét luôn tài lộc thì khổ.
Hàng xóm lúc nào cũng chộn rộn, nhưng riêng nhà tôi thì chẳng mấy
khi vui bởi má rầu lo chạy tiền trả nợ không để dây dưa qua năm
mới. Người ta khất hổng sao riêng mình hổng muốn nợ nần ai cho
mệt. Túng tiền, phải lôi hết mớ vàng vòng cất năm nảo năm nào ra
khi nào có tiền sắm lại. Dù cực cỡ nào, má cũng ráng lo một cái
Tết tươm tất, cũng đi ra đi vô hối sấp nhỏ mua vôi, pha màu quét
lên vách. Mùi vôi tôi hăng hăng đủ màu xanh đỏ nhìn tươi rói. Rồi
vô bàn thờ, thắp nhang xin ông bà lấy bộ lư hương cả năm ám khói
đen, xin khế chua về trộn với tro chà mọi ngóc ngách cho trắng. Ba
đôn đốc quét dọn nhà cửa, lau nền xi măng, lấy chổi sống lá quét
hết mạng nhện bám đầy trên mái ngói. Rồi ra chợ mua lò mới bằng
đất nung về thay thế ba ông táo cả năm trời cật lực đỏ lửa cho gia
đình. Chỉ có cuối năm, tụi tôi mới được ăn những món đặc trưng cho
ba ngày tết như bánh tráng cuốn măng khô kho với thịt gà hay vịt,
khổ qua xào trứng, canh bún tàu nấu với lòng gà, thịt thưng, bánh
tét.
Mỗi năm vào dịp này tôi mới được chị Hòa may cho một bộ đồ mới để
mặc (chả bù bây giờ tôi đi shopping mỗi tuần). Nói đồ mới cho sang
chứ toàn vải thừa của khách chắp thành áo (nhìn mô đen lắm nhen,
áo đủ màu xanh đỏ). Chị ưu tiên may cho khách trước, còn trong nhà
thì để sau. Đêm ba mươi vẫn chong đèn đạp máy. Sáng mùng một, tụi
tôi đứng ngoài cửa sổ, xong cái nào chị thảy ra cái đó, đó lật đật
mặc vô tung tăng ra đường, trên áo vẫn còn lờ mờ đường phấn may.
Giao thừa tới, ba thắp nhang cúng ông bà phù hộ cho năm mới làm ăn
phát đạt. Giếng được đậy kín không thả gàu trong ba ngày cho tới
khi cúng giếng, bánh trái được thay mỗi sáng. Tôi thức nổi thì
canh đốt pháo, không thì ngủ gật lúc nào chả hay, sáng mai tiếc
hùi hụi vì cả năm canh có lúc này mà hổng chịu thức. Sáng mùng một
xếp hàng cho má lì xì, hổng nhiều nhỏi gì, nhưng nhận được vài
trăm bạc bỏ trong cái phong bì đỏ là sướng rân cả người. (Giờ tôi
bỏ ra mấy chục triệu lì xì, đôi khi vẫn thèm được ai đó lì xì vài
ngàn ít ỏi, để tôi được nhận cái bì đỏ may mắn, gợi lên trong lòng
cái thuở con nít nôn nao hồi xưa, để ít ra còn biết mình được quan
tâm. Nhưng mọi người quên hay vô tình hổng nhớ điều đó. Có lẽ họ
vô tâm.
Những giá trị cũ theo thời gian phôi pha đâu hết. Bao lớp người đi
trước giờ theo ông theo bà nằm yên trong lòng đất, về với giời
cao, để lại khoảng trống thế hệ chẳng thể nào lấp nổi, người trung
niên thầm lặng giữ chút hương vị ngày xuân giữa những đổi thay
chóng mặt của đời sống , những đứa trẻ ngày đó như tôi, giờ nửa
đời người phiêu bạt, lâu lâu về đau đáu tìm lại tháng ngày xưa cũ.
Năm nay tôi không về, chẳng biết có ai đi chợ hoa vào đêm hai tám
hai chín, mua cúc vàng về chất đầy nhà, vạn thọ để trước ngõ;
không biết có ai xúng xính cầm cọc tiền đi chợ mua bánh mứt dưa
hành, nem chua, bia rượu để đầy tủ lạnh. Có mợ chợ vẫn đông, vắng
mợ chợ chẳng bỏ không bữa nào, thiếu tôi, Tết vẫn rộn ràng và háo
hức, nhưng tôi biết, ít ra gia đình, bè bạn, vẫn ngậm ngùi nhớ tới
thằng tôi một mình giữa trời buốt giá đón Tết xứ người. Mai năm cũ
đã bắt đầu he hé nở, đào năm ngoái chị bảo nụ ra đầy cành, hoa năm
cũ vẫn còn, chỉ có người năm xưa không về kịp lúc.
Dù đã đi dọc Việt Nam những ngày lễ Tết, ghé Huế, Hội An, Đà Nẵng,
ra Hà Nội, vô Sài Gòn, xuống Cần Thơ, không khí chộn rộn đã lắm,
nghe nhiều phương ngữ, lặng ngắm dòng người qua lại, coi mai vàng,
đào phơn phớt hường, cúc đủ màu khoe sắc thắm, nhưng vẫn rất tự
ti, trề môi bảo rằng, hổng Tết nơi nào vui và đẹp bằng Tết Ninh
Hòa hết.
Tháng năm mãi miết đi không trở lại. Muốn về lắm chớ để hóng ít
tiết trời lành lạnh, khoác vội manh áo dày đi giữa khóm hoa vàng,
nhưng lại chần chừ bởi có chuyện này, chuyện khác. Thôi đành làm
người trễ hẹn mùa xuân. Ai đó được ở quê vào ba ngày Tết
là người may mắn vì không chịu cảnh lúc giao
thừa bên nhà lẳng lặng một mình ra giữa trời, nước mắt chảy thành
dòng thấy tủi thân.