|
Mục
Lục
Trang
B́a
Ban
Biên Tập
Lá
Thư Xuân
Lê Văn
Ngô
Đọc
Lá Thư Xuân
Cô Hà
Sớ
Táo Xứ Ninh
Phan Song
Câu
Đối Mừng Xuân
Tư
Nguyên
& Lê Văn Ngô
Chúc
TẾT
NINH-H̉A.COM
Thi Thi
Thơ
Xuân
"Xuân
Hợp
Quần"
Lương
Lệ Huyền Chiêu
"Xuân
Hợp
Quần"
Lê
Thị Đào
Ḷng
Người Rộng Mở
Như Xuân
Vinh
Hồ
Mừng
Xuân Con Rồng
Rồng
Vinh
Hồ
Chúc
Xuân
Xuân
Đă
Về
Lư
Hổ
Đón
Xuân
Nguyên
Kim
Xuân
Quê
Hương
Kiều
Lam
Đường
Tu
Nguyên
Ngộ
(Lê
Văn
Ngô)
Xuân
Nhâm
Th́n
Hy
Vọng
Tư Nguyên
(Bùi
Ngoạn
Lạc)
'Xuân
Hợp
Quần"
Nguyên
Phong
(TN
Chánh)
"Xuân
Hợp
Quần"
Thi
Thi
Xuân
Cảm
Lê
Bá
Thiên
"Xuân
Hợp
Quần"
Nguyễn
Thị Thanh
Trí
T́nh
Khúc
Mùa
Xuân
Tiểu
Vũ Vi
Xuân Qua
Hồi Ức Mùa
Xuân
Vân
Anh
Tết Của Người
Lớn
Lữ
Kiến
Đồng
Hoài
Niệm
Xuân
Và
Tết
Trương
Khắc
Nhượng
Tết Đầu Tiên
Tại Cao
Nguyên Pleiku
Lê
Phú
Thọ
Năm
Mới
Kể
Chuyện
Cũ
Có
Một Mùa Xuân
Như Thế
Đỗ
Thị
Hương
B́nh
Chuyện
Nhà
Chuyện
Nước
Lan
Đinh
Chuyện
Kể Đầu Năm
Phạm
Thanh
Khâm
Chuyện Cũ Năm
Qua...
Phi-Ṛm
Những
Chuyến
Đi
Vô
Vọng
Lê
Phú
Thọ
Chuyện
T́nh
Cuối Năm
Bùi
Thanh
Xuân
Hội
Quán
Quảng
Đông
Chúc
Tết 2012
Huỳnh
Hớn Trang
Hoa
Mai
Ngày
Tết
Hoa
Mai
Linh Hồn Của
Mùa Xuân
Hoàng
Bích
Hà
Hoa
Ngày Tết
Nguyễn
Tường
Hoài
Chợ
Hoa
Ngày Tết
Vơ
Hoàng
Nam
Ba
Mươi
Ba
Đóa
Hoa
Mai
Phan
Song
Chuyện
Vui
Xem/Đọc
3
Ngày
Tết
Xóm
Sợ Vợ
Nguyễn
Hiền
Vạn
Vật Đều Có
Số - T́m
Người Bảo
Vệ
Lư
Hổ
Nụ
Hôn Đầu
Thanh
Mai
Ḿnh
Ơi !
Lê
Thị
Hoài
Niệm
Chuyện
Vui
Ngày
Tết
Hà
Thị
Thu
Thủy
Cắm
Hoa
Trang
Trí
Nghệ
Thuật
Cắm
Hoa
Lê
Thị
Lộc
Tranh
Nghệ Thuật
Tranh
Ảnh
Nghệ
Thuật
Phi
-
Ṛm
Thơ
Vui
Năm
Con Rồng
Rồng
Đến
Tú
Trinh
XUÂN
Ca
Hát
Nhạc Xuân Và Quê
Hương
HT Thu
Thủy,
Lan
Đinh
LL
Huyền
Chiêu,
Lư
Hổ,
LT Hoài
Niệm,
LL Minh
Trí
Slide
Show/YouTube
Phạm
Thúc
Tâm
Mai Hữu
Thọ
Phương
Ngữ
Ninh
Ḥa
Một
Số
Từ
Biến
Âm:
DẢNH
Nguyễn
Văn
Thành
Tôn
Giáo
Câu
Chuyện Đầu Năm
Lê
Thị
Mỹ Châu
Di-
Lặc Mang Xuân
Đến
Với Người
!
Mục
Đồng
Chúng
Con
Về Đây
Đinh
Thị
Lan
Christchurch
Vẫn Măi Trong
Tim !
Bạch
Liên
Tử
Vi
Vài
Mẩu Chuyện Về
Tiên Tri
Liên
Khôi
Chương
Tử
Vi Năm Nhâm
Th́n 2012
Phạm
Kế
Viêm
Du
Lịch
Vương
Quốc Thái Lan:
Một
Chuyến Đi
Kỳ Thú
Nguyễn
Thị
Thanh
Trí
Năm
Th́n
Nói
Chuyện
Rồng
Tản
Mạn Về
Tết
Nhâm
Th́n
Nguyễn
Văn Thành
d_bb
Đ.H.K.H
Vài
Phát Biểu Ở
Một Thời
Điểm Qua
Tô
Đồng
Liêu Trai Chí
Dị-468
Đàm
Quang
Hưng
Thanh
Phong
Thi
Tập-105
Vũ
Tiến Phái
Tôn Giả Mục-Kiền-Liên
Nguyễn
Văn Phú
Tư
Duy Trong Thơ
Nguyễn
Khuyến
Lê
Phụng
Đường
Vào KINH DỊCH
Nguyễn
Hữu
Quang
Con
Đường
Chứng
Ngộ-34
Trần Cao
Tần
Lời
Mẹ
Hỏi -
Trở
Về
Trần Cao
Tần
Ngắm Sao
Nguyễn
Đức Tường
Tử
Vi Năm Nhâm
Th́n 2012
Phạm
Kế
Viêm
Sưu
Tầm
Các
Bộ Tranh Dân
Gian
Nổi Tiếng
Vinh
Hồ
Tết
Xứ Người Xem
H́nh
Ảnh Cũ
Vinh
Hồ
Sinh
Mệnh Con Người
Hà
Thị
Thu
Thủy
Chuyện
Vượt
Biên
Chuyện
Người
Tị
Nạn-19
Lư Hổ
Pulau
Bidong,
Một Trời Kỷ
Niệm
Bạch
Liên
Phép
Nhiệm
Mầu
Lê
Phú
Thọ
Văn
Hóa
Ẩm
Thực
Gị
Thủ
Sườn
Heo Sốt Me
Chua
Mẹo
Vặt Vào Bếp
Lan
Diệp
Rơm
Rạ Quê Nhà
Kem
Flan (Bánh Flan)
Lê Thị
Đào
Món
Canh Légume
Việt
Hải
Mùi
Củ Kiệu
Cao Minh
Hưng
Tôm
Rang Muối Tiêu:
Video
Tôm Sốt
Sữa: Video
Lư Hổ
Chuẩn
Bị Nấu Bánh
Bạch Liên
Những
Đặc Sản Hồn
Quê
ViệtNam
Vào Tết Nhâm
Th́n
Nguyên
Phong
Sức
Khỏe
Bệnh
Viêm
Kết
Mạc
BS
Lê
Ánh
Bệnh
Tay
Chân
Miệng
BS Nguyễn
Vĩ
Liệt
Biên
Khảo
Kinh
Tế
Việt
Nam
Tổng
Kết T́nh
H́nh
Kinh
Tế
Của
Việt
Nam
Năm 2011
Nguyễn
Văn Thành
Hoa
Kỳ/Thế
Giới
Tổng
Kết T́nh
H́nh
Kinh
Tế
Của
Mỹ
Quốc Năm 2011
Nguyễn
Văn Thành
Kinh
Nghiệm
Sống
Món
Mới
Kiều
Lam
Biển
Có
Linh
Hồn
Không?
Bạch
Liên
Vạn
Vật
Bạch
Liên
Đạo
Nghĩa
Vợ
Chồng
Vơ
Hoàng
Nam
Phân
Biệt
Lê
Văn
Ngô
Viết
về
Ninh
Ḥa
Những
Điều
Lư Thú Về
Ninh-Ḥa
Trần
Minh
Hiền
Đám
Cưới
Đầu
Xuân
Phan
Nho
Những
Ngày
Ở
Đồng
Quê
Lê
Phú
Thọ
Viết
về
ninh-hoa.com
Duyên
Nào Tôi Đến
Với
Ninh-ḤaDOTCom
Trâm
Anh
Đầu
Năm...Khai
Máy
Topa
Panning
Kỷ
Niệm
Về
Trường:
Trần
B́nh Trọng
Ninh Ḥa
Hạ
Trong
Thơ
Mới
Nguyễn Thị
Đào
Năm
Học
1974-1975
Trần
Hà Thanh
Lời
Ngỏ
Bùi Thanh
Xuân
Bán
Công
Hồi
Tưởng
Lương
Lệ Huyền Chiêu
Vạn
Ninh
Lời
Chúc
Xuân
Ngọc Ánh
Nắng
Xuân
Tuyết
Xuân
Huỳnh Thị
Hà
Miên Trường Xuân
Thịnh
Vượng
Lam Kha
Xuân
Mới
Nguyên Kim
Vọng
Cổ:
Mừng
TẾT
Nguyễn Thị Kính
Dọc
Đường
Hồ Thoại
Mỹ
Chúc
Tết
Vui
Xuân -
Đón
Tết
Lâm Ngọc
Xuân
Tuổi
Thơ
Thanh Nhàn
Tâm
Sự
Đầu
Xuân
Hồ Thị
Thanh Nhàn
Lời
Chúc
Đầu
Xuân
Tưởng
Mùa
Xuân
Hà Tấn
Sỹ
Chúc
Mừng
Năm
Mới
Nguyễn
Thị
Thí
C̣n
Lại
Trong
Em...
Thúy
Vũ
VT/NTH
Chuyện
Các
Anh
Và
Tôi
Người Xứ
Vạn
Các
Trường
Khác
Họp
Mặt
Đầu
Xuân
Lê Thị
Ngọc Hà
Lụt
Trong
Văn
Chương
Mùa
Lụt
Quê
Tôi
Trần
Như
Phương
Vè Băo Lụt
Năm Nhâm
Th́n 1904
Nguyễn
Văn
Sâm
Văn
Học
Nghệ
Thuật
Đời Sao Buồn
Chi Mấy
Cố Nhân
Ơi
Lương
Lệ
Huyền
Chiêu
Rượu Trong Ca
Dao
Tục Ngữ
Hoàng
Bích
Hà
Thơ
Tứ Tuyệtt
Vinh
Hồ
T́nh Sử Lạc
Long Quân Và
Âu Cơ
Vinh
Hồ
Truyền Thuyết Trọng
Thủy-
Mỹ Châu
Và Bài Thơ
UTLâm
Vinh
Hồ
Nhớ Sao Là
Nhớ Xuân Xưa
Nhất
Chi Mai
Dịch
Thơ
Lư
Bạch: Nghĩ
Cổ
Dương
Anh
Sơn
Thanh Hiên Thi
Tập:
Bài Số:
45-46
Dương
Anh
Sơn
Một Lần Gặp
Lại
Mùa Yêu Thương
Kim
Thành
Chùm Thơ Đường
Luật
Người
Xứ
Vạn
Duyên
Dáng Mùa Xuân
Tiểu
Vũ
Vi
Thơ
Mùa
Xuân
Quê
Cũ
Vân
Anh
Nỗi
Niềm
Xuân
Dương
Công
Khánh
Hương
Xuân
Nguyễn
Thị
Bảy
Chúc
Xuân
Trần
Thị
Chất
Như
Mây
Bay
Đi
Lương
Lệ Huyền Chiêu
Xuân
Cao
Nguyên
Du
Xuân
Nguyễn
Thị
Cúc
Hoa
Xuân
Cười
Ta
Vẫn
Hẹn
Hương
Đài
Mưa
Nguồn
An
Lạc
Mục
Đồng
Bài
Thơ
Con
Cóc
Nguyễn
Hiền
Mùa
Xuân
Quê
Hương
Tường
Hoài
Em
Về Cùng Xuân
Mời
Xuân Lên Ngôi
Nguyễn
Văn
Hóa
Chùm
Thơ Họa
Vinh
Hồ
Màu
Xuân
Trà
Kim
Huy
Nói
Sao Vừa
Quỳnh
Hương
Ngày
Xuân
T́nh
Xuân
Hoàng
Công
Khiêm
Rực
Rỡ
Sắc Xuân
Lê
Thị
Lộc
Ngô
Đồng
Nhất
Chi
Mai
Sang
Mùa
Mùa
Xuân Mưa
Nguyễn
Thị
Khánh
Minh
Nhớ
Khúc
Ninh
Ḥa
NGH(NH)
Chùm
Thơ
Xuân
Nguyễn
Hoàng
Phi
Nḥa-Quê
MẸ
Ngàn
Thương
Mh
HoaiLinhphuong
Hương
Sắc
Mùa
Xuân
Bích
Phượng
Hẹn
Xuân
Đón
Xuân
Nguyễn
Quân
Mơ
Và Nhớ
Lê
Văn
Quốc
Gom
Nhặt
Những
Mùi
Hương
Quốc
Sinh
Dấu
Xưa
Sương
Khói
Dương
Anh
Sơn
Xuân
T́nh
Kim
Thành
Bâng Khuâng Chiều
Cuối
Năm
Vơ
Ngọc
Thành
Nhớ
Tết
Quê Tôi
Lê
Hùng
Thân
Xuân
T́nh Thương
Thi
Thi
Dáng
Xuân
Lời
Xuân
Hoài
Thu
Mùa
Xuân
Xa
Xứ
Ngô
Trưởng
Tiến
Xuân
Nguyện
Nguyễn
Tính
Văn
Một
Chiều
Cuối
Năm
Nhớ
Về
Các
Bạn
Nguyễn
Vũ
Trâm
Anh
Cát
Tiên
Khuất
Đẩu
Xuân
Này
Chị
Không
Về
Lê
Thị
Ngọc
Hà
Mùa
Xuân
Anh
Yêu
Em
Việt
Hải
Con
Dốc
Nguyễn
Hiền
Thầy
Bói
Trần
Minh
Hiền
Bếp
Lửa
Gia
Đ́nh
Lư
Hổ
Xuân
Vắng
Mẹ...
Hoàng
Lan
Bên
Dốc
Đời
Nh́n
Lại
Những
Xuân
Qua
Hải
Lộc
Gởi
Cô Bạn Nhỏ
Xóm
Rượu
Phan
Kiều
Oanh
Làm
Con Th́ Phải
Là Con
Phan
Song
Bóng
Dáng Một Mùa
Xuân
Lâm
Minh
Tài
Người
Trễ
Hẹn Mùa
Xuân
Nguyễn
Hữu
Tài
Ḍng
Đời
Thi
Thi
Ba
Má
Tôi
Phạm
Thị
Thục
Đầu
Năm
Đón
Giao
Thừa,
Đi
Lễ
Chùa
Hái
Lộc
Đầu
Xuân
Trí
Bửu
Nguyễn
Thừa
Một
Chút Ưu Tư
Nguyễn
Tính
Một Mùa Xuân
An B́nh
Đang Về...
Nguyễn
Đôn
Huế
Trang
Thư từ,
bài vở, h́nh ảnh hoặc
ư kiến xây dựng, xin liên lạc:
diem27thuy@yahoo.com
|
Tư Duy trong THƠ
Nguyễn Khuyến
LÊ PHỤNG
I. Mở Lời
Xét những nhà văn
nhà thơ nôm cận đại, vào khoảng thập niên 1930-40, Dương Quảng Hàm
[1] viết về Nguyễn Khuyến như sau:
Nguyễn Khuyến
(1835-1909). Ông là một người từng trải việc đời, lại có biệt tài
về văn nôm. Văn ông làm đủ các lối: thơ, ca, hát nói, câu đối, văn
tế, v.v... Ông thích tự vịnh tự trào, có vẻ ung dung phóng khoáng.
Ông cũng hay giễu cợt người đời, chỉ trích thói đời một cách nhẹ
nhàng kín đáo, rơ ra một bậc đại nhân quân tử muốn dùng lối văn
trào phúng để khuyên răn ngựi đời.
Việc xếp loại
Nguyễn Khuyến vào hàng các nhà thơ trào phúng là một tiến bộ theo
quan niệm giới phê b́nh văn học dùng phương pháp của phái hiện
đại thời đó.
Trong phần tổng kết
cuốn Việt Nam Văn Học Sử Yếu, Dương Quảng Hàm[2] đặt Nguyễn Khuyến
vào ḍng các nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, Hồ Xuân Hương, những ngựi
đă đưa văn học Việt Nam thoát ly được cái ảnh hưởng nặng nề của
Hán văn và gây nên một ḍng văn học Việt Nam tự lập.
Tiếp đến suốt gần
nửa thế kỷ, đất nước bị lôi cuốn vào cuộc chiến tranh ǵữa các đại
cường, nhà cấm quyền đă dùng thơ văn Nguyễn Khuyến làm một công cụ
tuyên truyền, Nguyễn Khuyến được thuyên chuyển sang ngạch những
nhà văn nhà thơ yêu nước. Đồng thời, một số thơ nôm của Nguyễn
Khuyến được dùng làm vè đả kích giới quan lại trong phong trào bài
phong đả thực.
Phụ bản
1. Chân dung Nguyễn Khuyến
Cảo luận này đọc
thơ Việt Âm và thơ Nôm của Nguyễn Khuyến, đứng ngoài mọi sôi động
thời thế, và không căn cứ trên những thoại về nhà thơ, nhất là
nhưng thoại về sự giao dịch giữa nhà thơ với giới quyền thế đương
thời với mục đích t́m hiểu ḍng tư duy biểu hiện trong thơ Tam
Nguyên Yên Đổ và mối tương giao giữa thơ Nguyễn Khuyến với ḍng
thơ Việt Âm cùng thơ Trung Quốc và Nhật Bản cùng kinh sách Phật
Lăo.
Tiêu biểu cho tư
duy của Nguyễn Khuyến có bài thơ Việt Âm:
慰 石 老 人
Úy Thạch Lăo Nhân
案 上 書 一 卷
Án thượng thư nhất quyển
筒 上 筆 一 把
Đồng thượng bút nhất bả
無 弦 琴 一 張
Vô huyền cầm nhất trương
無 方 藥 一 窠
Vô phương dược nhất khỏa
潤 渴 一 瓶 茶
Nhuận khát nhất b́nh trà
袪 寒 一 爐 火
Khư hàn nhất lô hỏa
石 盆 一 仙 花
Thạch bồn nhất tiên hoa
土 鉡 一 佛 果
Thổ bát nhất phật quả
與 我 相 為 娛
Dữ ngă tương vi ngu
亦 有 石 老 者
Diệc hữu thạch lăo giả
靜 澡 殊 不 同
Tĩnh táo thù bất đồng
性 情 各相 左
Tính t́nh các tương tả
石 老 無 一 好
Thạch lăo vô nhất hiếu
而 我 無 不 可
Nhi ngă vô bất khả
我 性 懶 好 臥
Ngă tính lăn hiếu ngọa
石 老 終日坐
Thạch lăo chung nhật tọa
石 老 默 不 言
Thạch lăo mặc bất ngôn
而 我 好 吟 寫
Nhi ngă hiếu ngâm tả
相 狎 無 相 猜
Tương hiệp vô tương sai
神 交 信 因 果
Thần giao tín nhân quả
與 化 為 往來
Dũ hóa vi văng lai
安 知 子 非 我
An tri
tử phi ngă.
dịch là:
An Ủi Ông Lăo
Đá
Một quyển sách
đặt trên bàn
Một ống bút cũ viết ṃn chưa thay
Một cây đàn không có dây
Một thang thuốc bốc mấy ngày chưa phong
Một khay trà uống ấm ḷng
Một ḷ sưởi rực than hồng kế bên
Một chậu đá trồng thuỷ tiên
Một trái phật thủ đặt trên bát sành
Chung vui năm tháng chân thành
Có ông lăo đá chung t́nh này thôi
Nếp trời trái ngược lạ đời
Ông tĩnh ta động đôi người khác nhau
Ông lăo đá chẳng ước ao
C̣n ta chẳng thiếu thức nào chẳng ham
Tính ta lười nhác hay nằm
C̣n ông lăo đá tháng năm chỉ ngồi
Ông lăo đá chằng hé môi
C̣n ta ngâm vịnh suốt đời nghêu ngao
Thân nhau chẳng dối lừa nhau
Bạn bè nhân quả thần giao duyên trời
Lẽ thường cơi hóa chuyền dời
Biết đâu
ông chẳng đổi đời cùng ta.
Bài thơ có nhiều
điểm đáng lưu ư. Trước hết là trong tám câu đầu mỗi câu có một chữ
một, nhất. Chắc chắn đó là chủ ư của tác giả. Mỗi
câu có một h́nh ảnh của một vật: quyển sách, ống bút, cây
đàn, thang thuốc, khay trà, ḷ sưởi, chậu thuỷ tiên, và trái phật
thủ. Sau đó là tượng ông lăo đá với bốn nét biểu thị một nếp sống
trái ngược với nếp sống người thơ: Ông lăo đá tĩnh, nhà thơ động,
ông lăo đá không hề có ước ao một điều ǵ, nhà thơ ao ước mọi thứ;
người thơ lười nhác hay nằm, ông lăo đá suốt năm tháng chỉ ngồi;
ông lăo đá không hề hé môi, nhà thơ suốt đời nghêu ngao. Tuy nhiên
t́nh bạn luôn luôn thành thực không ai dối lừa ai; rồi như có lẽ
biến đổi diệu huyền, khiến người thơ hy vọng có ngày
có sự đổi đời giữa ông lăo đá và nhà thơ.
Phụ bản
2. Tượng Ông Lăo Đá
Chuỗi h́nh ảnh tám
vật, bắt đầu từ quyển sách và ống bút dựng như là hai h́nh
ảnh tượng trưng cho cái có của nhà thơ, cái có tiêu
biểu cho nề nếp nhà nho của nhà thơ. Cây đàn không có dây, gợi cho
người đọc cây đàn không dây của Đào Tiềm (365-427) một thi nhân
đời Tấn, Trung Quốc, người chỉ muốn nghe nhạc truyền cảm mà không
muốn nghe âm ba của dây tơ.Thang thuốc bốc chưa phong gợi lên h́nh
ảnh luống cúc vàng bên chân rào trong câu:
採 菊 東 籬 下
Thải cúc
đông lư hạ
dịch là:
Chân rào đông
hái cúc vàng
trong bài Ẩm Tửu Đệ
Ngũ Thủ cũng của Đào Tiềm, tạo nên h́nh ảnh người thơ tới tuổi xế
chiều, sức khỏe cần có thuốc bồi bổ . Khay trà gợi lên cảm giác
ngọt ngào của chén trà trên vị giác. Ḷ sưởi tí tách tạo nên cảm
giác ấm áp ngày đông qua xúc giác và thính giác. Chậu thuỷ tiên nở
hoa ngào ngạt thỏa thích khứu giác cùng h́nh ảnh cánh hoa tươi đẹp
thỏa măn thị giác. Rồi sau hết là trái phật thủ trên đĩa sành như
gợi lên ư muốn về với đạo giáo.
Kể từ quyển sách
tới trái phật thủ, tám vật trong cái có của Nguyễn Khuyến
dường như chuyển từ cái cụ thể người thơ cảm nhận qua ngũ quan
trên thân thể, tới cái sống, cái lẽ huyền.
Nhưng rồi Nguyễn
Khuyến dường như tạm dời bỏ tất cả những cái có đó để nói
với tượng ông lăo đá. Điều Nguyễn Khuyến nhấn mạnh là nếp sống của
ông trái ngược với nếp sống của ông lăo đá. Ông lăo đá không mảy
may ước ao, nhà thơ c̣n đầy ham muốn, ông lăo suốt
ngày tháng chỉ ngồi, nhà thơ th́ suốt ngày lười nhác nằm dài; ông
lăo đá không hé môi nhà thơ th́ nghêu ngao trọn đời. H́nh ảnh
Nguyễn Khuyến tự họa là h́nh ảnh một con người đang ham sống
trong thề giới của cái có. H́nh ảnh ông lăo đá dường như là
h́nh ảnh một chân nhân đă gần tới cơi huyền đồng. Nhưng v́ cái
diệu huyền mà ông lăo đá cùng người thơ thành đôi bạn không
sao có thể rời nhau nổi. Mối tương quan này phải chăng là h́nh ảnh
của mối tương giữa cái có và cái sống? Và Nguyễn
Khuyến hy vọng rằng một ngày nào đó hai người sẽ đổi đời
cho nhau.
Đọc bài thơ của
Nguyễn Khuyến như trên, người đọc thơ chợt nhớ tới Gabriel Marcel
(1889-1973), triết gia người Pháp tiêu biểu cho trường phái Hiện
Sinh Ky Tô, existentialisme chrétien, chủ trương một ḍng triết
học cụ thể, philosophie concrète.
Theo giới nghiên
cứu [3], tư tưởng của Gabriel Marcel dựng trên một thế giới riêng
của triết gia. Thế giới đó là một thực thể, trong đó, ngoài thiên
nhiên và vũ trụ, có vật thể và con người. Vật thể trong thế giới
đó giúp cho con người có phương tiện sinh sống, nhưng vật thể cũng
tạo cho con ngựi nếp sống vượt mọi khó khăn để chiếm đoạt vật thể
làm của riêng.
Đoạt được vật thể
làm của riêng có làm cho con người măn nguyện và sung sướng
không? Hay tại sao chiếm đoạt đuợc môt vật làm cái có lại
chính là nỗi buồn bực lại là nguồn thất vọng? Tại sao con người đă
tích lũy được của riêng đầy kho mà vẫn con lo sợ như đúng bên bờ
cái không? Đó là những đề tài suy luận của Gabriel Marcel.
Gabriel Marcel quan
sát thấy rằng cuộc chạy đua để thỏa măn cái khao khát chiếm đoạt
vật thể chính là cái khao khát được sống, được làm người.
Nhưng, sớm muộn rồi con người cũng đối mặt với cái giới hạn
của khả năng cá nhân. Lúc đó con người đi t́m con người khác để
t́m sự thông cảm, để thấy niềm vui trong t́nh yêu, trong t́nh bạn,
trong cái sống.
Ngươi và ta
chúng ta. Đó là lẽ huyền, mystère, của cuộc sống cụ
thể. Trong một vở kịch Gabriel Marcel đă cho hai vai đối thoại:
- La réalité! je te
demande un peu ... Qu’est ce que c’est que la réalité?
- Un monde où on puisse grandir,
aimer, créer ...[4]
Đi xa hơn nữa vào
lẽ huyền, theo Gabriel Marcel, con người c̣n có hy vọng t́m
đươc nguồn an ủi trước mọi đau đớn, cũng như nỗi sợ hăi
khi phải đối mặt với cái chết.
Đó là mấy nét đại
cương về thế giới suy tư của Gabriel Marcel. Nét thứ nhất biểu thị
cái có, một thực thể hiển nhiên trước mắt mọi người; nét
thứ hai biểu thị cái sống. Cả cái có cùng cái
sống ch́m dưới lẽ huyền, biểu thị bởi đặc tính
tiềm ẩn của sự tăng trưởng, t́nh yêu và việc tác tạo.
Ngày nay, những
thực thể xẩy ra biến đi rồi lại trở lại trong đời sống hàng ngày
là một đề tài cho giới triết gia tây phương suy ngẫm. Một trong
những hướng suy ngẫm là t́m ra những giới hạn giữa cá nhân và
chính-ḿnh-trong-đời-sống-hàng-ngày để đạt được an lạc trong đời
sống hàng ngày. Bên Đông phương, vấn đề này dường như không phải
là một vấn đề đem ra bàn căi của đạo học mà là nếp sống thực tế
hàng ngày. Nếp sống đó là là biểu tượng cho tư duy con
người. Đi t́m tư duy của Nguyễn Khuyến trong thơ của Nguyễn
Khuyến là chủ đích của cảo luận này.
Đối chiếu mấy nét
của chủ thuyết của Gabriel Marcel tóm tắt trên đây với bài An Ủi
Ông Lăo Đá, người đọc thấy tám h́nh vật trong tám câu đầu bài thơ
tiêu biểu cho cái có theo triết thuyết của Gabriel Marcel.
Tiếp theo là bốn nét tương phản giữa nếp sống của Nguyễn Khuyến và
của Ông Lăo Đá, Nguyễn Khuyến vẫn thấy t́nh bạn giữa ông và
ông Lăo Đá. Phải chăng đó là một điểm khởi đầu lẽ huyền của
cái sống theo Nguyễn Khuyến? Trong lẽ huyền đó, Nguyễn
Khuyến nuôi hy vọng rồi ra sẽ có lúc đổi đời cùng
ông Lăo Đá.
Nh́n rộng hơn,
dường như Gabriel Marcel, coi thường những ai coi nặng cái có
hơn cái sống. Điểm đó người đọc cũng thấy trong
nhưng bài thơ Nguyễn Khuyến hoặc tự trào hoặc nhạo báng những kẻ
chạy theo danh lợi.
Cái lẽ huyền
của Gabriel Marcel đưa người đọc ông về Nước Chúa. Đằng
khác, đường về lẽ huyền, xuôi ḍng thơ say
trong thơ Nguyễn Khuyến, khi nhà thơ buông bỏ lợi danh, về vui thú
vườn ruộng, không chỉ riêng mang h́nh ảnh của Đào Tiềm qua bài Quy
Khứ Lai Hề Từ, mà c̣n là h́nh ảnh Đào Tiềm trong dường như toàn bộ
ḍng thơ điền viên của Đào Tiềm. Người đọc thấy rơ nét song song
giữa chủ thuyết của Gabriel Marcel và quan niệm về cuộc sống của
Nguyễn Khuyến qua bài Úy Thạch Lăo Nhân. Nét song song này gợi cho
người đoc gọi tên tiến tŕnh buông bỏ cái có để tiến tới lẽ huyền
trong cuộc sống của Gabriel Marcel là tiến tŕnh Nguyễn Khuyến-
Gariel Marcel.
Đằng khác Nguyễn
Khuyến là một thi tài nối dài ḍng tư tưởng trong thơ Việt Âm và
thơ nôm khởi từ Nguyễn Trăi (1380-1442), truyền qua Nguyễn Du
(1765-1825) qua h́nh ảnh con người đối mặt với cái chết. Nhưng
Nguyễn Trăi gặp nạn Trại Vải năm sáu mươi hai tuổi khi c̣n tại
chức; Nguyễn Du cũng mất khi c̣n tại chức năm năm mươi lăm tuổi.
Riêng Nguyễn Khuyến mất năm bẩy mươi bốn tuổi, sau hơn hai mươi
năm nghỉ hưu, phải chăng v́ vậy mà qua thơ Nguyễn Khuyến người đọc
dường như thấy Nguyễn Khuyến thực hiện được những ước vọng của
Nguyễn Trăi và Nguyễn Du c̣n ghi lại trong thơ.
T́m hiểu tư duy đa
dạng trong thơ Viêt Âm và thơ nôm của Nguyễn Khuyến, theo chiều
hướng kể trên là diễn tiến của cảo luận này. Câu hỏi là bằng cách
nào đạt được tói mực tiêu nói trên? Thật vậy, sách Luận Ngữ[5] có
câu :
天何 言 哉
Thiên hà ngôn tai
nghĩa là :
Trời có nói đâu
.
Nguyễn Khuyến có
hai câu trong bài tứ tuyệt Trời Nói dưới đây :
Chót vót trên
này có một tao
Mày xem tao có nói đâu nào
Giới b́nh thơ
Nguyễn Khuyến thường coi hai câu này của Nguyễn Khuyến biểu lộ ư
muốn kiệm ngôn, một đặc tính của ông Lăo Đá mà ông muốn tạo
cho ḿnh trên đương về lẽ huyền như ông viết trong bài Ủy Thạch
Lăo Nhân. Thế nên khó t́m thấy tư duy của Nguyễn Khuyến trong thơ
của ông. Nhưng thơ là tiếng nói ngoài lời gửi trong những h́nh ảnh
tạo nên thi cảnh và tâm cảnh người thơ. Vậy th́, phương pháp t́m
ra tư duy trong thơ Nguyễn Khuyến là đối chiếu những h́nh ảnh
trong thơ Nguyễn Khuyến với chính những h́nh ảnh đó mà ông dùng
trong những bài khác, hoặc đối chiếu những h́nh ảnh trong thơ
Nguyễn Khuyến với những h́nh ảnh tương ứng của các thi nhân Việt
Nam hay Trung Quốc, Nhật Bản, cũng như trong các kinh sách Phật
học hoặc Lăo Trang. Những nét tương đồng hay khác biệt người đọc
thơ nh́n ra trong việc đối chiếu này phải chăng là lời thi nhân
gửi gắm ngoài lời thơ?
Kết quả giúp người
đọc nh́n thấy tư duy của Nguyễn Khuyến qua những nếp sống cụ thể
dưới đây của người thơ
1. Việc buông
bỏ cái có
2. Truyện đối mặt với cái chết
3. Việc quyết định về Vườn Bùi
4. Vui sống với thiên nhiên
5. Đọc sách và uống rưọu
6. Cái Cười
7. Về với Đạo
8. Lên
Chùa.
Phải chăng mầu nét
hiện sinh trong tư duy của nhà thạc nho Tam Nguyên Yên Đổ tiêu
biểu nếp sống của tiền nhân trước khi nếp sống này thấm nhập tư
tưởng Âu Mỹ? Câu hỏi này xin dành cho ǵới nghiên cứu giải đáp.
II. Cái Có
Cái có là vũ trụ
của vật thể. Gabriel Marcel t́m ra là cái có gồm hai loại.
Một là loại cái có ở ngoài thân thể con người, gọi cái
có ngoại thân. Con người lấy cái có ngoại thân làm của tư hữu,
tỷ như tiền của, danh giá, quyền thế. Nhưng cái có đó con người
giành lấy cho ḿnh, xử dụng riêng cho ḿnh, nhưng cũng có thể bị
kẻ khác tước đoạt mất. Cái có thứ hai là cái có tại thân,
tỷ như kiến thức, đức hạnh, kinh nghiệm, mà không ai khác có thể
đoạt của ta được. Nhưng tất cả nhưng cái có tại thân đó rồi
cũng mất khi thân ta không c̣n.
Cái có ngoại thân
cần thiết cho cái sống, nhưng từ Đông sang Tây, mọi tôn giáo cũng
như nhiều triết gia nhiều nhà thơ thựng khuyên con người coi nhẹ
cái có ngoại thân để trở về lẽ huyền. Tiêu biểu cho ḍng
thơ này là bài sau đây của Nguyễn Trăi (1380-1442):
崑 山 歌
Côn Sơn Ca
崑 山 有 泉
Côn Sơn hữu tuyền
其 聲 冷 冷 然
Kỳ thanh lănh lănh nhiên
吾 以 為 琴弦
Ngô dĩ vi cẩm huyền
崑 山 石有
Côn Sơn hữu thạch
雨 苔 洗 鋪 碧
Vũ tẩy đài phô bích
吾 以 為 簞 席
Ngô dĩ vi đan tịch
崑 山 有 松
Côn sơn hữu tùng
萬 里 翠 童 童
Vạn lư thuư đồng đồng
吾 於 是 乎 偃 息 其 中
Ngô ư thị hồ yển tức kỳ trung
林 中 有 竹
Lâm Trung hữu trúc
千 畝 印 寒 綠
Thiên mẫu ấn hàn lục
吳 於 是 乎 吟 嘯 其 測
Ngô ư thụ hồ ngâm khiếu kỳ trắc
問 君 何 不 歸 去 來
Vấn quân hà bất quy khứ lai
半 生 塵 土 是 膠 梏
Bán sinh trần thổ thị giao cốc
萬 鐘 九 鼎 何 必 然
Vạn chung cửu đỉnh hà tất nhiên
飲 水 飯 蔬 隨 分 足
Ẩm thuỷ phạn sơ tuỳ phân túc
君 不 見
Quân bất kiến
董 卓 黃 金 盈 一 塢
Đổng Trác hoàng kim doanh nhất ổ
元 載 胡 椒 八 百 斛
Nguyên Tải hồ tiêu bát bách hộc
又 不 見
Hựu bất kiến
伯 夷 與 叔 齊
Bá Di dữ ThúcTề
首 陽 餓 死 不 食 粟
Thú Dương ngạ tử bất thực túc
賢 愚 兩 者 不 相 侔
Hiền ngu lương giả bất tương mâu
亦 各 自 求 其 所 欲
Diệc các tự cầu kỳ sở dục
人 生 百 歲 內
Nhân sinh bách tuế nội
畢 竟 同 草 木
Tất cánh đồng thảo mộc
歡 悲 憂 樂 迭 往 來
Hoan bi ư lạc dđệt văng lai
一 榮 一 謝 還 相 續
Nhất vinh nhất tạ hoàn tưong tục
丘 山 華 屋 亦 偶 然
Khâu sơn hoa ốc diệc ngẫu nhiên
死 後誰榮更 誰 縟
Tử hậu thuỳ vinh cánh thuỳ nhục
人 間 若 有 巢 由 徒
Nhạn gian nhược hữu Sào So dồ
勸 渠 聽 我 山 中 曲
Khuyến
cừ thính ngă sơn trung khúc.
dịch là
Côn Sơn Ca
Núi Hun có suối quanh co
Nước tuôn róc rách nhỏ to tiếng đàn
Núi Hun vách đá ngút ngàn
Thạch bàn mưa trải một làn rêu xanh
Dặm dài thông biếc đan cành
Vắt chân nằm khểnh bên ghềnh ngắm mây
Rừng sâu vạn mậu trúc gầy
Nghêu ngao ngâm vịnh với đầy ư tho
Nẻo về sao vẫn hững hờ
Nửa đời lấm bụi chần chờ chi đây
Đỉnh chung rũ sạch nà hay
Cơm rau nước lă qua ngày đử no
Ngươi chẳng thấy
Ngọc vàng Đổng Trác đầy kho
Họ Nguyên thừ tám trăm bồ hồ tiêu
Lại chẳng thấy
Di Tề nước mất nhà xiêu
Thú Dương bỏ thóc giữ điều đục trong
Hiền ngu dẫu chẳng chung đường
Chữ dục là muốn một tuồng như nhau
Cỏ cây người thế khác đâu
Trăm năm mục nát đất sâu chôn vùi
Đổi thay lo sướng buồn vui
Một ṿng một héo một tươi một mầu
G̣ hoang điện ngọc khác sao
Nhục vinh nhắm mắt ai nào hơn ai
Sào Do trần thế lũ bay
Ta mời
cả bọn nghe bài Núi Hun.
Trong tám câu đầu
của bài thơ, Nguyễn Trăi lấy tiếng suối Núi Hun làm đàn, lấy đá
núi Hun làm chỗ ngả lưng, lấy rừng thông núi Hun làm vườn cảnh,
lấy rừng trúc của núi Hun làm cảnh thơ. Nguyễn Trăi vào kho Trời
chung, chọn vật thể làm thú vui riêng cho ông. Trong nguồn vui đó,
Nguyễn Trăi thấy đỉnh chung là những ǵ cần phải rũ sạch
khỏi tay; bát cơm rau chén nước lă mới thực là cái cần thiết. Phải
chăng đó là ư muốn về hưu đă tới với Nguyễn Trăi? Nguyễn Trăi nhớ
tới Đổng Trác, một gian thần nhà Hán, nhớ tới Nguyên Tải, một nhân
vật chưa biết đích xác là ai, nhưng chắc chắn là một người tích
lũy nhiều của cải; rồi Nguyễn Trăi nhớ tới Bá Di và Thúc Tề. Dương
Quảng Hàm chú thích về Bá Di và Thúc Tề như sau[6]:
Di, Tề: tức Bá
Di và Thúc Tề, hai người con vua nước Cô Trúc đời nhà Ân bên Tàu.
Khi cha sắp mất, dặn lập Thúc Tề. Cha mất rồi Thúc Tề nhường cho
Bá Di. Bá Di nói: “Mệnh cha như vậy”, bèn trốn đi. Thúc Tề cũng
không lên ngôi và trốn đi. Khi vua Chu Vương đánh nhà Ân, hai ông
giữ cương ngựa cản lại; đến lúc Vũ Vương đánh thua nhà Ân, làm vua
trong thiên hạ, hai ông lấy việc ăn thóc nhà Chu làm xấu hổ, đi
lên núi Thú Dương, hái rau vi mà ăn, sau chết đói.
Nhưng người hiền
hay kẻ ngu đều có một điểm giống nhau. Đó là ḷng ham chuộng
ngoại vật. Nhưng con người và cỏ cây này có khác ǵ nhau, dẫu
từng sở hữu những cái có tại thân vẫn có thời buồn vui, như
cây cỏ có thời tươi héo. Rốt cuộc, nhưng rồi con người chẳng khác
ǵ cỏ cây cũng tan biến vào ḷng đất. Vậy thời điện ngọc khác ǵ
g̣ hoang, nhục khác nào vinh. Kết luận, Nguyễn Trăi mời tất cả
những ai c̣n muốn noi gương Sào Do, (hai người cao sĩ về đời vua
Đường Nghiêu bên Tàu, mà vua Nghiêu muốn nhường ngôi cho và đều
không nhận) vào núi Hun nghe ông hát bài ca núi Hun.
Tiếp đó là bài từ
của Nguyễn Du (1765-1820)
行 樂 詞
Hành Lạc Từ
俊 犬 黃 白 毛
Tuấn khuyển hoàng bạch mao
金 鈴 繫 秀 頸
Kim linh hệ tú cảnh
輕 衫 少 年 郎
Khinh sam thiếu niên lang
牽 向 南 山 嶺
Khiên hướng Nam sơn lĩnh
南 山 多 香 麋
Nam Sơn đa hương mi
血 肉 甘 且 肥
Huyết nhục cam thả ph́
金 刀 切 玉 饌
Kim đao sơ ngọc soạn
美 酒 累 百 卮
Mỹ tửu lũy bách chi
人 生 無 百 載
Nhân sinh vô bách tải
行 樂 當 及 期
Hành lạc đương cấp kỳ
無 為 守 貧 賤
Vô vi thủ bần tiện
窮 年 不開眉
Cùng niên bất khai mi
夷 齊 無 大 名
Di Tề vô đại danh
蹠 蹻 無 大 名
Chíc Cược vô đại lơi
中 壽 只 八 十
Trung thọ chỉ bát thập
何 事 千 年 計
Hà sự thiên niên kế
有 犬 且 須 殺
Hữ u khuyển thả tu sát
有 酒 且 須 傾
Hữu tửu thả tu khuynh
眼 前 得 喪 已 難 認
Nhăn tiền đắc táng dĩ nan nhẫn
何 事 茫 茫 身 後 名
Hà sự
mang mang thân hậu danh.
dịch là
Bài Ca Hành Lạc
Cầy tơ tốt khoáy tốt khoang
Cổ đeo một chiếc nhạc vàng thêm xinh
Chàng trai áo ngắn phong phanh
Núi Nam ngắm hướng tênh tênh bước về
Núi Nam có lắm nai quê
Tiết thơm thịt béo hả hê mọi đàng
Món ngon bát ngọc dao vàng
Rượu tăm trăm chén nào màng tỉnh say
Đời người trăm tuổi mấy ai
Kíp thời hành lạc kẻo mai xuân tàn
Giữ chi nếp sống nghèo nàn
Quanh năm quần quật làm ăn ngập đầu
Di Tề nào có danh cao
Lại coi Chích Cược có giầu hơn ai
Tám mươi tuổi đà sống dai
Ngàn năm tính chuyện đường dài uổng công
C̣n cầy c̣n miếng dồi ngon
C̣n be rượu trắng ta c̣n bữa say
Mất c̣n trước mắt nào hay
Ngàn năm
danh lợi lăo đây cóc màng.
Trong bốn câu đầu
bài hành, Nguyễn Du tạo nên hai h́nh ảnh, một chàng trai áo ngắn
và một con cầy, lông trắng khoáy vàng, cả hai cùng đi về Núi Nam.
Trong thơ cổ điển, chữ Núi Nam này biễu thị cho cái chết.
Điều đáng chú ư là trong bốn câu tiếp, Nguyễn Du cho biết là tại
Núi Nam này có nhiều hương mi, hay nôm na là cầy thơm, đễ
làm những món ngon, có bát ngọc dao vàng, có rượu ngon ê hề. Điểm
này dẫn người đọc thơ về với sách Nam Hoa Kinh của Trang Tử. Sách,
Nam Hoa Kinh, chương Tề Vật Luận[7]:
Lệ Cơ, con của
vị phong nhân xứ Ngại, gả cho vua nước Tấn. Khi về nhà chồng, lụy
ướt dầm bâu. Kịp khi đến hoàng cung, cùng vua đồng sàng, nếm mùi
sô hoạn, rối lại hối hận giọt lệ ngày xưa. Ta biết đâu kẻ chết lại
không hối hận v́ ḿnh đă mong được sống thêm.
Đằng khác, Nguyễn
Du nhắc tới Di Tề cùng với Chích Cược, khiến một lần nữa người đọc
thơ lại nhớ tới chương Biền Mẫu, sách Nam Hoa Kinh[8]:
Tiểu nhân th́
chết theo lợi, kẻ sĩ th́ chết theo danh [...] Bá Di chết v́ danh ở
dưới núi Thú Dương, Đạpo Chích chết v́ lợi ở trên g̣ Đông Lăng.
Hai bên cách chết chẳng giống, song đều cùng là tàn sống, hại tính
cả. Chắc ǵ Bá Di là phải mà Đạo Chích là trái. Người thiên hạ đều
chết theo cả.
Phải chăng, v́ nh́n
cái chết như vậy, Nguyễn Du mượn rượu, rong chơi, buông danh bỏ
lợi, quên cả truyện lưu danh thơm đời sau?
Đối chiếu với ḍng
thơ Trung Quốc, bài Côn Sơn Ca của Nguyễn Trăi và bài Hành Lạc Từ
của Nguyễn Du, người đọc nhớ lại bài thơ dưói đây của Đào Tiềm[9]:
己 酉 歲 九 月 九 日
Kỷ Dậu Tuế Cửu Nguyệt Cửu Nhật
靡 靡 秋 已 夕
Mỹ mỹ thu dĩ tịch
淒 淒 風 露 交
Thê thê phong lộ giao
蔓 草 不 復 榮
Mạn thảo bất phục vinh
園 木 空 自 彫
Viên mộc không tự điêu
清 氣 澄 餘 滓
Thanh khí trùng dư chỉ
香 然 天 界 高
Hương nhiên thiên giới cao
哀 蟬 無 留 響
Ai thiền vô lưu hưởng
叢 雁 鳴 雲 霄
Tùng nhạn minh vân tiêu
萬 化 相 尋 異
Vạn hoá tương tầm dị
人 生 豈 不 勞
Nhân sinh khởi bất lao
從 古 皆 有 沒
Ṭng cổ giai hữu một
念 之 中 心 僬
Niệm chi trung tâm tiêu
何 以 稱 我 情
Hà dĩ xưng ngă t́nh
濁 酒 且 自 陶
Trọc tửu thả tự đào
千 載 非 所 知
Thiên tải phi sở tri
聊 以 永 今 朝
Liêu dĩ
vinh kim triêu
dịch là
Mùng Chín Tháng
Chín
Năm Kỷ Dậu
Chùng ch́nh thu muộn chậm tàn
Sắt se gió thoảng từng làn quyện sương
Cỏ hoang vàng úa năo nùng
Cây khô lá rụng ngập ngừng vườn sau
Mầu trời trong vắt một màu
Ngàn cao thăm thẳm ngàn cao ngút ngàn
Ve sầu dứt tiếng thở than
Xôn xao tiếng nhạn gọi đàn chân mây
Cùng trong vạn hóa đổi thay
Cái ṿng lao khổ chẳng ai ngoài ṿng
Xưa rầy cái chết bận ḷng
Nghĩ vầy tan tác dạ trong hăi hùng
T́nh riêng riêng những ngại ngùng
T́m say rượu đục từng thưng uống tràn
Truyện ngàn sau đà chẳng ham
Sớm nay
ngâm vịnh mượn làm niềm khuây.
Giới nghiên cứu về
Đào Tiềm cho biết rằng Đào Tiiềm sáng tác bài thơ này khi được tin
người em gái út của ông tạ thế. H́nh ảnh cái chết của người thân
khiến người thơ giao động mạnh hơn, so với ư nghĩ về cái chết
trong thơ Nguyễn Trăi và Nguyễn Du. Điều đáng ghi nhận khác là
giới nghiên cứu đồng ư rằng Đào Tiềm cũng như phần đông thi nhân
cổ điển mượn rượu và thơ để giải buồn, nhưng đồng thời cũng là t́m
lối về với lẽ huyền.
Đối mặt với cái
chết của người dưng, liên tưởng tới cái chết của chính ḿnh, hay
tự ḿnh lo liệu sửa soạn cho cái chết của chính ḿnh hay đau đớn
xúc động v́ cái chết của người thân là ba ngả suy nghĩ của Gabriel
Marcel về cái chết [10]. Đối mặt với cái chết, theo ba
ngả nói trên, rồi buông bỏ danh lợi, mượn rượu và thơ t́m về với
lẽ huyền là một nhánh thơ chính của Nguyễn Khuyến, nối dài ḍng
thơ bàn về cái chết trong thơ ca Đông Á, mà người đọc thơ thấy rơ
trong thơ Việt Âm và trong thơ Nôm. T́m hiểu nhánh thơ này của
Nguyễn Khuyến là mục tiêu của những trang kế tiếp.
III Cái Chết
Cái chết dường là một câu hỏi làm
con người lo sợ nhất. Câu hỏi đó dường như là câu hỏi chính đặt
giữa những thắc mắc của con người về lẽ huyền. Cái chết mang lại
cho con người cái ǵ? Ư nghĩa của cái chết là ǵ? Ba câu hỏi đó đă
được nhiều nhà triết học tây phương nghiên cứu, nhưng dường như là
chưa có ai có câu trả lời xác đáng.
Trong sách Nam Hoa Kinh, Trang Tử,
chương Chí Lạc, theo bút pháp đặc biệt của ông, cũng đă từng nhiều
phen trả lời những câu hỏi này. Tiêu biểu là đoạn sau đây[11]:
Thầy Trang sang Sở, thấy cái đầu lâu
không, có h́nh trọc lốc, xâu bắng chiếc roi ngựa, nhân mà hỏi
rằng :
- Kia ngươi tham sống mất lẽ, mà đến
nỗi này chăng? Hay ngươi có truyện mất nước; có tội ŕu búa mà đến
nỗi này chăng? Hay ngươi có nết chẳng hay, thẹn nỗi để xấu cho cha
mẹ vợ con, mà đến nỗi này chăng? Hay ngươi chrết đói chết rét mà
dến nỗi này chăng? Hay v́ xuân thu ngươi đă đáng thế này chăng?
Nói thế rồi gối chiếc đầu lâu mà
ngủ. Nửa đêm đầu lâu hiện lên trong chiêm bao mà rằng:
- Lời ngươi nói giống như kẻ biện
sĩ. Phàm những truyện ngươi nói đều là lụy cho đời người. chết th́
không có nhưng cái ấy. Ngươi muốn nghe thuyết chết chăng?
Thầy Trang đáp :
- Phài!
Đầu lâu nói:
- Chết th́ không có vua ở trên,
không có tôi ở dưới. Cũng không có truyện bốn mùa. Theo đó lấy
Trời Đất làm Xuân Thu. Dù cái sướng của kẻ nghảng mặt sang Nam mà
làm vua cũng không thể hơn được
Thầy Trang không tin hỏi
- Tôi sai thần Tư Mệnh làm sống h́nh
ngươi; cho ngươi nẩy ra xương thịt, de dẻ; trả lại cha mẹ vợ con,
làng xóm, kẻ quen biết cho ngươi. Ngươi muốn thế chăng?
Đầu lâu nhăn mặt nhăn trán mà rằng:
Tôi sao có thể bỏ cái sung sướng của
ông vua quay mặt về phương Nam, mà lại chịu cái khó nhọc ở nhân
gian?
Tiêu biểu cho con người buông bỏ cái
có, dựng như không có h́nh ảnh nào tượng trưng rơ rệt hơn chiếc
đầu lâu. Chiếc đầu lâu rỗng, không những không c̣n ǵ là cái có
ngoại lai mà cái có nội thân, như bộ năo cũng đă chút bỏ. Câu
chuyện của Trang Tử trao đổi với cái đầu lâu trên đây, cho thấy
dương như khi chút bỏ cái có đến như h́nh ảnh cái đầu lâu, th́ con
người đă đồng nhất được vói cái diệu huyền, hay nói vắn tắt
theo ngôn từ Đạo Lăo là con người đă huyền đồng. Trang Tử
không cho biết là cơi diệu huyền này như thế nào. Nhưng cái đầu
lâu th́ cho ḿnh sung sướng như ông vua, không phải một ông vua
bận bịu v́ việc trị nước dẹp loạn, mà một ông vua ngảnh mặt về
Nam, ông vua thủa nước nhà thanh b́nh. Trong cảnh đó, cái đầu
lâu khước từ không nhận lại những cái có: cha mẹ vợ con làng xóm.
Lời khước từ này tương tự như lời Thằng Bờm khước từ ba ḅ chín
trâu, ao sau cá mè cùng bè gỗ lim và con chim đồi mồi mà mỉm cười
với nắm sôi. Lời khước từ của cái đầu lâu c̣n cho thấy h́nh ảnh
của ḍng nước mắt nàng Lệ Cơ sau khi biết mùi sô hoạn bên vua nước
Tấn, để hiểu ra tại sao con người trong cơi chết c̣n hối tiếc là
đă mong sống dài hơn trên trần thế. Tóm lại Trang Tử cho người đọc
thấy là cơi chết không có ǵ đáng sợ, mà dương như Trang Tử muốn
cho người đọc thấy là trong cơi chết có thể có lắm điều hấp dẫn.
Phải chăng v́ vậy, trong những bài
thơ Nguyễn Khuyến viết về cái chết, trên ba ngả:
. cái
chết của người,
. cái
chết của ta, và
. cái
chết của người thân của ta
người đọc thơ đều không gặp những
h́nh ảnh đáng ghê sợ?
Tiêu biểu cho ư thơ về cái chết
của người, Nguyễn Khuyến có hai bài. Một là bài :
春 夜 憐 蛾
Xuân Dạ Liên Nga
羨 爾 纖 纖 一 羽 翰
Tiện nhĩ tiêm tiêm nhất vũ hàn
投 明 而 死 死 而 安
Đầu minh nhi tử tử nhi an
若 為 倘 猝 臨 宜
Nhược vi thảng thốt lâm nghi dị
到 得 逡 巡 辯 亦 難
Đáo đắc thoan tuần biện diệc nan
素 賦 知 能 猶 未 泯
Tố phú tri năng do vị dẫn
當 前 名 利 不 相 關
Đương tiền danh lợi bất tương quan
孤 燈 殺 爾 猶 憐 爾
Cô đăng sát nhĩ do liên nhĩ
到 得 成 灰 淚 未 乾
Đáo đắc thành hôi lệ vị can.
dịch là
Đêm Xuân Thương Con Thiêu Thân
Khen mi đôi cánh nhỏ nhoi
Chết nơi lửa sáng chết rồi yên thân
Phải đâu thảng thốt liều thân
Mà là thấy chết gian truân chẳng sờn
Lương năng trời phú vẹn tṛn
Không màng danh lợi nay c̣n mấy ai
Lao vào lửa thương cho mày
Xác thành tro bụi khốn thay lệ trào.
Hai là bài:
悼 落 蠅
Điệu Lạc Dang
睡 起 窗 開 酒 半 傾
Thụy khởi song khai tửu bán khuynh
青 蠅 何 事 又 營 營
Thanh dăng hà sự hựu doanh doanh
所 求 一 粒 能 充 腹
Sở cầu nhất lạo năng sung phúc
何 必 如 簧 柞 巧 聲
Hà tất như hoàng tác xảo thanh
憐 爾 祗 堪 倚 樊 棘
Liên nhĩ chỉ kham ỷ phàn cước
欺 人 不 覺 落 藜 羹
Khi nhân bất giác lạc lê canh
天 工 生 化 真 多 事
Thiên công sinh hoá chân đa sự
避 暑 驅 氛 意 未 平
Tị thử khu phân ư vị b́nh.
dịch là
Thương Con Nhặng
Tỉnh ra rựơu cạn nửa be
Nhặng xanh đâu đến vo ve bên ḿnh
Cơm rơi nửa hạt bụng ph́nh
Mà sao bắng nhắng sáo sinh chẳng ngừng
Kiếp mi bờ bụi đáng thương
Khinh người ch́m bát canh xuông đáng đời
Đặt bày sinh hóa thợ trời
Kẻ đi tránh nắng v́ ngươi bực ḿnh.
Riêng với bài Đêm Xuân Thương Con
Thiêu Thân, có thời người ta cho rằng tác giả làm bài thơ này khi
nghe tin ông nghè Giao Cù, tức Vũ Huy Lợi, người làng Giao Cù,
huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định, chủ mưu đánh chiếm tỉnh Nam Định.
Việc không thành, ông bị nhà cầm quyền Pháp bắt và xử chém.
Ngày nay, đọc hai bài thơ trên đây,
Nguyễn Khuyến làn lượt thương con thiêu thân chết thiêu trong lửa
đèn, và thương con nhặng xanh chết ch́m trong bát canh, người đọc
tự hỏi phải chăng hai bài thơ này nối dài ḍng thơ từ bài Côn Sơn
Ca của Nguyễn Trăi qua bài Hành Lạc Từ của Nguyễn Du? H́nh ảnh con
thiêu thân lao vào lửa đèn đâu có khác h́nh ảnh Ba Di Thúc Tề chê
thóc nhà Chu chết đói trên núi Thú Dương và h́nh ảnh con nhặng
chết trong bát canh gợi lên h́nh ảnh của Đạo Chích chết v́ tham
lợi trên g̣ Đông Lăng. Lấy h́nh ảnh con thiêu thân thay thề h́nh
ảnh Bá Di và Thúc Tề và h́nh ảnh con nhặng xanh thay thế h́nh ảnh
Chích Cược phải chăng là biệt tài dùng h́nh ảnh thực tế để thay
thế điển cố, đưa thơ nôm ra khỏi vùng ảnh hưởng của văn học Trung
Quốc, và vẫn giữ được ư chính tiêu biểu cho việc buông danh bỏ
lợi? Điều đáng ghi nhận khác là nếu Nguyễn Khuyến viết hai bài thơ
trên đây trước khi từ quan th́ phải chăng Nguyễn Khuyến dùng hai
cái chết đáng thương của con thiêu thân và con nhặng xanh để tự
nhủ ḿnh buông danh bỏ lợi, khi Nguyễn Khuyến đối mặt với truyện
từ quan về vườn Bùi?
H́nh ảnh cái chết của người trong
thơ Nguyễn Khuyến c̣n đọc thấy trong bài:
己 丑 九 月 連 夜 風 雨
Kỷ Sửu Cử Nguyệt Liên Dạ Phong Vũ
獨 坐 無 聊
Độc Tọa Vô Liêu
引 滿 不 止 又 聞 同 邑
Dẫn Măn Bất Chỉ Hựu Văn Đồng Ấp
一 老 徂 落
Nhất Lăo Tồ Lạc
因 感 作 云
Nhân Cảm Tác Vân
江 山 風 雨 近 重 陽
Giang sơn phong vũ cận trùng dương
貧 病 歸 來 酒 後 狂
Bần bệnh quy lai tửu hậu cuồng
聞 道 西 鄰 亡 一 老
Văn đạo tây lân vong nhất lăo
不 知 此 去 是 何 鄉
Bất tri thử khứ thị hà hương
死 生 尻 脊 真 閒 事
Tử sinh khào tích chân nhàn sự
號 泣 笙 簫 枉 斷 腸
Hào khấp sinh tiêu uổng đoạn trường
醉 矣 添 杯 又 添 醉
Túy hĩ thiêm bôi hựu thiêm túy
憑 窗 仰 面 看 蒼 蒼
Bằng song ngưởng diện khán thương thương.
dịch là
Năm Kỷ Sửu, Tháng Chín, Mưa
Gió Mấy Đêm Liền
Một Ḿnh Ngồi Buồn, Rượu
Uống Không Ngừng Lại Nghe Tin
Ông Già Trong Làng Mới Mất
Cảm Xúc Làm Thơ
Trùng dương mưa gió xạc xào
Hưu quan nghèo bệnh rượu vào thơ ra
Xóm Tây có đám ông già
Chuyến này chẳng biết ông qua quê nào
Xương cùng xương sống lạ đâu
Khóc than kèn sáo thêm đau đớn ḷng
Say rồi uống nữa say cuồng
Bầu trời u ám ngoài song ngẩng nh́n.
Tiết trùng dương nhằm ngày 9 tháng
9, khi xưa là ngày các cụ họp bạn uống rượu ngâm thơ, nhưng năm kỷ
sửu (1889) này sắp tới lễ Trung Dương th́ trời mưa to gió lớn,
Nguyễn Khuyến, đă về hưu, lại thêm bệnh tật, uống rượu làm thơ một
ḿnh. Trong cảnh cô đơn đó, người thơ nghe thấy tiếng kèn đám ma
một ông già bên xóm tây. Cái chết của ông lăo này khiến Nguyễn
Khuyến xúc động tự hỏi chuyến này ông lăo qua quê hương nào?
Câu hỏi này dẫn ngựi đọc thơ về chương Đại Tông Sư sách Nam Hoa
Kinh của Trang Tử[12]:
Thầy Tang Hộ, thầy Mạnh Tử Phan,
thầy Cầm Trương [...] làm bạn với nhau. [...] Rối thầng Tang Hộ
chết ... [Hai người bạn] kẻ sắp khúc, kẻ gẩy đàn họa nhau mà hát:
“Này anh Tanh Hộ ơi! Này anh Tang Hộ ơi! Anh đă trở lại đời thật
của anh rồi.”
Trong câu kế tiếp, chữ khào
nghĩa là xương cùng, tích là xương sống lại dẫn người đọc
về chương Đại Tông Sư sách Nam Hoa Kinh của Trang Tử [13]
Tử Tự, Tử Dư, Tử Lê, Tử Lai, bốn
người nói với nhau rằng: “Ai biết lấy cái không làm đầu, lấy cái
sống làm xương sống, lấy cái chết làm xương cùng; ai
biết được lẽ sống chết c̣n mất chỉ là một thể, chúng ta sẽ cùng
người ấy làm bạn.” Bốn người nh́n nhau cười, không ai thấy nghịch
trong ḷng, đoạn cùng nhau làm bạn.
Phải chăng, như qua lời Trang Tử,
việc sống chết chỉ là lẽ thường, ông lăo xóm tây phen này,
biết đâu chẳng như thầy Tang Hộ, về quê thực của ông. Kèn
trống khóc than chỉ làm đau ḷng người sống, riêng người thơ tiếp
tục uống thêm rượu, đă say say thêm, ngửa mặt nh́n trời u ám một
mầu?
H́nh ảnh cái chết của chính ḿnh tới
với Nguyễn Khuyến qua hai thơ dưới dây. Môt là bài:
Đề Ảnh 14
Ngô nhiễn ngô diện b́
Ngô tâm ngô phất trị
Nhật nguyệt tu thiêm bạch
Phong trần sắc tiệm tuy
Bách bôi h́nh tặng ảnh
Thiên tả ngă vị tùy
Ngưởng phủ phất hà tưởng
Yên ba vô tạn kỳ.
dịch là
Đề Ảnh
Nh́n ngoài chỉ thấy da ta
Ḷng ta th́ đến chính ta chẳng tường
Tháng ngày râu tóc điểm sương
Xạm đen gió bụi dặm trường mầu da
Nh́n h́nh trăm chén chuốc ta
Ngàn sau chẳng biết ta là ai đây
Trông lên nh́n xuống cao dầy
Tân kỳ sóng nước khói mây mịt mùng.
Hai là bài:
Bài Muộn
II
五 十 衰 翁 白 髮 新
Ngũ thập suy ông bạch phát tân
不 堪 憂 病 且 憂 貧
Bất kham ưu bệnh thă ưu bần
花 軒 月 影 知 非 客
Hoa hiên nguyệt ảnh tri phi khách
竹 徑 風 聲 疑 有 人
Trúc kính thanh phong nghi hữu nhân
一 枕 黃 粱 真 亦 夢
Nhất chẩm hoang lương chân diệc mộng
千 年 去 鶴 我 何 身
Thiên niên khứ hạc ngă hà thân
坐 看 即 羨 扇 中 老
Tọa khan khước tiễn phiến trung lăo
倚 澍 啣 杯 不 計 春
Ỷ thụ hàm bôi bất kế xuân.
dịch là
Giải Buồn
I
Năm mươi già ốm tóc sương
Lo nghèo lo bệnh hết đương nổi rồi
Hiên trăng vắng bạn lẻ loi
Tre già kẽo kẹt ngỡ người tới thăm
Tỉnh mơ một giấc kê vàng
Ngàn năm thành hạc thân tàn hóa ai
Ngồi nh́n h́nh quạt trong tay
Lăo ông nâng chén dựa cây kệ đời.
H́nh ảnh cái chết len vào trong bài
Đề Ảnh trong câu:
Thiên tả ngă hà vi:
nghĩa là:
Ngàn năm nữa ta là ai?
Và trong bài Giải Muộn II, qua câu :
Thiên niên khứ hạc ngă hà thân
Giới nghiên cứu giải thích câu này
bắng điển sau đây :
Đinh Lệnh Uy đời Hán, tu tiên tại
núi
Linh Hư, sau hóa thành hạc bay về đất
Lưu, lượn trên không mà đọc thơ.
Nguyễn Khuyến dường như không tin
vào điều này nên, cũng như trong bài Đề Ảnh, ông tự hỏi, một ngàn
năm nữa tấm thân của ông sẽ thành ai? Câu hỏi này khiến người dọc
nhớ tới hai câu của Nguyễn Du trong bài Độc Tiểu Thanh Kư, trong
Thanh Hiên Thi Tập15
不 知 三 百 餘 年 後
Bất tri tam bách dư niên hậu
天 下 誰 人 泣 素 如
Thiên hạ thùy nhân khấp Tố Như
dịch là
Ba trăm năm lẻ về sau
Khóc Tố Như biết c̣n bao nhiêu người.
Người đọc tự hỏi phải chăng, cũng
giống Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến qua hai bài thơ trên đây, dưong như
c̣n chưa dứt khoát với chính ḿnh trong ba chữ thân hậu danh?
Sửa soạn đợi cái chết của chính
ḿnh, Nguyễn Khuyến để lại cho hậu thề bài:
遺 囑 文
Di Chúc Văn
我 年 值 八 八
Ngă niên trị bát bát
我 數 逢 九 九
Ngă số phùng cửu cửu
嗟 哉 我 德 涼
Ta tai ngă đức lương
壽 紀 邁 先 考
Thọ kỷ mại tiên khảo
嗟 哉 我 學 淺
Ta tai ngă học thiẻn
魁 然 占 龍 首
Khôi nhiên chiếm long thủ
豈 非 先 考 齡
Khởi phi tiên khảo linh
留 以 錫 爾 父
Lưu dĩ tích nhĩ phụ
豈 非 先 考 名
Khởi phi tiên khảo danh
不 做 以 留 後
Bất tố dĩ lưu hậu
平 日 無 寸 功
B́nh nhật vô thốn công
俯 仰 已 慚 負
Phủ ngưỡng dĩ tàm phụ
足 矣 亦 何 求
Túc hỷ diệc hà cầu
死 葬 勿 淹 久
Tử táng vật yêm cửu
死 幸 得 全 歸
Tử hạnh đắc toàn quy
葬 幸 得 親 附
Táng hạnh đắc thân phụ
棺 衾 不 可 美
Quan khâm bất khả mỹ
只 以 斂 足 手
Chỉ dĩ liễm thủ túc
具 饌 不 可 豊
Cụ soạn bất khả phong
只 以 答 奔 走
Chỉ dĩ đáp bôn tẩu
不 可 寫 祝 文
Bất khả tả chúc văn
不 可 為 對 句
Bất khả vi đối cú
不 可 設 銘 旌
Bất khả thiết minh tinh
不 可 題 神 主
Bất khả đề thần chủ
不 可 達 門 生
Bất khả đạt môn sinh
不 可 訃 僚 友
Bất khả phó liêu hữu
賓 客 不 可 招
Tân khách bất khả chiêu
賵 吊 不 可 受
Phúng điếu bất khả thụ
此 皆 纍 於 生
Thử giai lụy ư sinh
死 者 亦 奚 有
Tử giả diệc hề hữu
惟 以 重 吾 過
Duy dĩ trọng ngô quá
囂 然 眾 多 口
Hiêu nhiên chúng đa khẩu
惟 於 葬 之 日
Duy ư táng chi nhật
旗 扁 導 前 柩
Kỳ biển đạo tiền cữu
竽 工 八 九 人
Vu công bát cửu nhân
吹 送 列 左 右
Xuy tống liệt tả hửu
草 草 死 葬 完
Thảo thảo tử táng hoàn
酹 我 以 杯 酒
Lỗi ngă dĩ bôi tửu
爰 題 某 石 碑
Viên đề mộ thạch bi
皇 阮 故 休 叟
Hoàng Nguyễn cố hư tẩu.
Tác giả tự dịch là:
Di Chúc
Kém hai tuổi xuân đầy chín chục
Số sinh ra gặp lúc dương cùng
Đức thày đă mỏng mỏng mong
Tuổi thầy lại sống hơn ông cụ thầy
5Học chẳng có rằng hay chi cả
Cưỡi đầu ngưởi kể đă ba phen
Tuổi là tuổi của gia tiên
Cho nên thày được hưởng niên lâu dày
Ấy thủa trước ông mày chưa đỗ
10Hoá bây giờ để bố làm xong
Ơn vua chửa chút đền công
Cúi trông thẹn đất ngửa trông thẹn trời
Sống được tiếng trên đời trọn vẹn
Chết được về quê quán hương thôn
15Mới hay trăm sự vuông tṛn
Sống lâu đă trải chết chôn chờ ǵ
Đồ khâm liệm chớ nề xấu tốt
Kín chân tay đầu gót th́ thôi
Cỗ đừng to lắm con ơi
20Hễ ai chạy lại khuyên mời người ăn
Tế đừng có viết văn mà đọc
Đối trướng đùng gấm vóc làm chi
Minh tinh con cũng bỏ đi
Mời quan đề chủ con th́ chớ nên
25Môn sinh chẳng tống tiền đạt giấy
Bạn của thầy cũng vậy mà thôi
Khách quen chớ viết thiếp mời
Ai đưa phúng điếu con thời chớ thu
Chẳng qua nợ để cho người sống
30Chết đi rồi c̣n ngóng vào đâu
Lại mang cái tiếng to đầu
Khi nay bày biện khi sau chê bàn
Cờ biển của vua ban ngày trước
Khi đưa thầy con rước đầu tiên
35Lại thuê một lũ phường kèn
Vừa đi vừa thổi mỗi bên dăm thằng
Việc tống táng nhung nhăng qua quít
Cúng cho thầy một it rượu hoa
Đề vào mấy chữ trong bia
40Rằng quan nhà Nguyễn cáo về đă lâu.
Viết bài Di Chúc trên đây, dường như
Nguyễn Khuyến đă nh́n thẳng vào cái chết của chính ḿnh. Về vấn đề
này, Gabriel Marcel viết 16:
Lorsque je tente de prendre
conscience de ma situation d’existant et que je la considère par
rapport à ce que j’appelle mon avenir, je constate que seul
apparait indubitable cette proposition : je mourrai sans
que je puisse le moindre du monde me prononcer sur les conditions
d’espace et de temps qui seront celles de ma mort.
Cái chết chắc chắn sẽ đến với mọi
người trong tất cả chúng ta, nhưng chúng ta không một ai có mảy
may kinh nghiệm về cái chết. Trên thực tế, theo Gabriel Marcel,
cái chết đặt con người vào giữa ḷng lẽ diệu huyền. Tại đó
mỗi người chúng ta đều được tự do hành xử để cái chết sắp tới của
ḿnh có ư nghĩa theo sự chọn lựa của ḿnh trong suốt cuộc sống.
Trong cuốn En Chemin Vers Quel Éveil17 ,Gabriel Marcel,
khi đó đă 84 tuổi, sáu tuần lễ trưóc khi từ trần, đưa ra nhận xét
rằng người cao tuổi, đă hoàn tất được sự nghiệp, đă tự cho là ḿnh
chu toàn được mọi bổn phận, đă t́m ra cho ḿnh được ư nghĩa của
đời sống, thời dễ dàng chấp nhận cái chết hơn nhưng kẻ chưa thành
đạt, hay kẻ có một cuộc sống khó khăn đầy rẫy thất bại.
Trở lại bài Di Chúc, trong chín câu
đầu Nguyễn Khuyến nói với đàn con về những điều may mắn của đời
ông, trước ngưỡng cửa cái chết : đức mỏng mà lại hưởng tuổi thọ
hơn cha, học không hơn ai mà thi đỗ đầu ba lần, tuổi thọ lả do cha
ông để lại cho ông, và đỗ cao để hoàn thành mộng thi cử của cha
ông.
Truyện ông được hưởng tuổi thọ của
cha chép trong gia phả, chi thứ ḍng họ Nguyễn ở Vị Dạ là khi ông
c̣n nhỏ ốm nặng, cha ông nguyện được chết thay con, sau đó ông
lành bệnh và năm ông 18 tuổi th́ cha ông từ trần. Truyện này
Nguyễn Khuyến ghi lại trong hai câu mở đầu bài Cận Thuật :
Ngô bệnh ngô thân đại tích linh
Hất kim tứ thập tứ niên linh
dịch là
Ta đau cha nguyện chết thay
Bốn bốn năm lẻ tới nay xa vời
Tiếp theo, Nguyễn Khuyến viết hai
câu :
Cánh vô thực học t́ suy thế
Thặng hữu hư danh quán đại đ́nh
dịch là
Vô tài thực học giúp đời
Đỗ đầu đ́nh hội đè người hư danh:
Hai câu này phải chăng chứng tỏ là
Nguyễn Khuyến coi nhẹ việc thi cử thành đạt của ông : việc ông đi
học đi thi đỗ đạt chỉ để đáp đền ơn cha ông
Ấy thủa truớc ông mày chưa dỡ
Hoá bây giờ để bố làm xong
Nguyễn Khuyến hài ḷng với ḿnh v́
việc báo hiếu này, rối ông c̣n thỏa măn là được về quê quán di
dưỡng tuổi già, thế nên lúc này, đối mặt với cái chết, ông b́nh
thản viết:
Sống lâu đă trải chết chôn chờ ǵ?
Tiếp theo, ông dăn ḍ con về việc
làm đám tăng : đồ khâm liệm không cần tốt xấu, cỗ bàn không cần
hậu hĩ linh đ́nh. Rồi tới tám điều không được làm: không viết văn
tế, không làm câu đối, không đặt minh tinh, không đề thần chủ,
không mời học tṛ, không cáo phó với bè bạn, không mời khách khúa,
không nhận phúng viếng. Rồi Nguyễn Khuyến dặn con ngày đám rước cờ
biển vua ban đi trước, có phường bát âm đi hai bên quan tài đưa
tiễn. Những điều dặn ḍ này khiến người đọc nghĩ rằng Nguyễn
Khuyến muốn buông bỏ những điều ông đă làm trong cuộc đời làm quan
làm thầy của ông. Đặc biệt là khi chôn cất xong ông dặn con tưới
lên mộ ông một chén rượu trắng, phải chăng ông c̣n muốn giữ h́nh
ảnh ông say của ông. Và trên bia ghi vắn tắt :
Quan nhà Nguyễn cáo về đă lâu. phải
chăng v́ việc ông sớm xin về hưu là một việc ông tự cho là đắc ư
nhất trong đời ông? Phải chăng đó là điều mà ông đă làm được để
thực hiện câu của Trang Tử18:
khéo nuôi cái sống của ta là khéo
liệu cái chết của ta
Tóm lại, qua bài Di Chúc trên đây,
Người đọc đă thấy Nguyễn Khuyến b́nh tĩnh nh́n vào cái chết của
ḿnh, thu xếp việc cuối cùng cũa đời ḿnh và thản nhiên đi về
quê thật của ông.
Nh́n sang thơ Đào Tiềm, trên nhánh
thơ về cái chết của chính ḿnh, Đào Tiềm có ba bài dưới cùng đầu
đề Văn Ca Thi. Bài thứ ba như sau:
挽 歌 詩
Văn Ca Thi
其 三
Kỳ Tam
荒 草 何 茫 茫
Hoang thảo hà mang mang
白 楊 亦 蕭 蕭
Bạch dương diêc tiêu tiêu
嚴 霜 九 月 中
Nghiêm sương cửu nguyệt trung
送 我 出 遠 郊
Tống ngă xuất viễn giao
四 面 無 人 居
Tứ diện vô nhân cư
高 墳 正 崔 嶢
Cao phần chính thôi nghiêu
馬 為 仰 天 嗚
Mă vi ngưỡng thiên ô
風 為 自 蕭 條
Phong vi tữ tiêu điều
幽 室 一 已 閉
U thất nhất dĩ bế
千 年 不 復 朝
Thiên niên bất phục triêu
千 年 不 復 朝
Thiên niên bất phục triêu
賢 達 無 柰 何
Hiền đại vô nại hà
向 來 相 送 人
Hướng lai tương tống nhân
各 自 澴 其 家
Các tự hoàn kỳ gia
親 戚 或 餘 悲
Thân thích hoặc dư bi
他 人 亦 已 哥
Tha nhân diệc dĩ ca
死 去 何 所 道
Tử khứ hà sở đạo
託 體 同 山 阿
Thác thể đồng sơn a
dịch là
Thơ Văn Ca
Kỳ III
Mênh mông cánh đồng cỏ
Hàng bạch dương xác xơ
Trời tháng chín sương lạnh
Đưa ta ra ngoài ô
Bốn bên không nhà ở
Mộ thấp cao nhấp nhô
Ngựa hí vang nghển cổ
Gió từng cơn vật vờ
Nhà tối một đóng kín
Ngàn năm chẳng sáng cho
Ngàn năm chẳng sáng cho
Hiền đạt há khác chi
Người đưa ta đến đó
Đà lục tục ra về ra về
Thân thuộc c̣n xót xa
Người dưng đà vui vẻ
Chết đi là hết nói
Thân vùi bên sườn đồi.
Cũng như Nguyễn Khuyến, Đào Tiềm
trong bài Văn Ca trên đây, viết về cái đám tang cũa chính ḿnh
không dăn ḍ con cháu như Nguyễn Khuyến, nhưng tường thuật đám
tang của chính ḿnh như một nhân chứng. H́nh ảnh Đào Tiềm mô tả
thân phận của người nẳm dưới mồ như vào trong nhà tói kín mít
ngh́n năm không có anh sáng lọt tới, là một h́nh ảnh đặc biệt của
Đào Tiềm mô tả cái đáng sợ của cái chết. Phải chăng đó là kết quả
của điều Đào Tiềm sợ cái chết? Và đó là điểm Nguyễn Khuyến khác
biệt với Đào Tiềm : Nguyễn Khuyến thản nhiên đối mặt với cái chết,
dăn ḍ con cái lo việc tống táng cho ông. Sau hết, phải chăng hai
câu cuối cùng bài Văn Ca cho thấy cái vô nghĩa của việc sống chết.
Chuyển sang câu truyện cái chết của
người thân, Nguyễn Khuyến để lại bốn bài thơ, trong số đó bài nổi
tiếng nhất, có kèm thêm bài tác giả tự dịch sang thơ nôm, là bài :
輓 同 年 雲 亭 進 士
Văn Đồng Niên Vân Đ́nh Tiến Sĩ
楊 尚 書
Dương Thượng Thư
已 矣 楊 大 年
Dĩ hĩ Dương đại niên
雲 樹 心 懸 懸
Vân thụ tâm huyền huyền
回 憶 登 科 後
Hồi ức đanh khoa hậu
與 君 晨 夕 聯
Dữ quân thần tịch liêu
相 敬 且 相 愛
Tương kính thả tương ái
遭 逢 如 夙 緣
Tao phùng như túc duyên
有 時 出 京 路
Hữu thời xuát kinh lộ
空 山 聞 落 泉
Không sơn văn lạc tuyền
有 時 上 高 閣
Hữ thời thượng cao các
歌 兒 鳴 素 絃
Ca nhi minh tố huyền
有 時 對 君 飲
Hữu thời đối quân ẩm
大白 浮 八 延
Đại bạch phù bát diên
有 時 與 論 文
Hữu thời dữ luận văn
東 壁 羅 簡 編
Đông bích la giản biên
厄 運 逢 陽 九
Ách vận phùng dương cửu
斗 升 非 貪 天
Đẩu thăng phi tham thiên
予 老 公 亦 老
Dư lăo công diệc lăo
解 組 歸 田 圓
Giải tổ quy điền viên
往 來 不 數 得
Văng lai bất sác đắc
一 遇 三 年 前
Nhất ngộ tam niên tiền
執 手 問 衰 健
Chấp thủ vấn suy kiện
語 言 殊 未 愆
Ngữ ngôn thù vị khiên
公 年 少 予 歲
Công niên thiểu dư tuế
予 病 疑 公 先
Dư bệnh nghi công tiên
忽 聞 公 訃 至
Hốt văn công phó chí
驚 起 皇 皇 然
Kinh khởi hoàng hoàng nhiên
予 豈 不 厭 世
Dư khởi bất yếm thế
而 公 爭 上 仙
Nhi công tranh thượng tiên
有 酒 為 誰 買
Hữu tửu vi thủy măi
不 買 非 無 錢
Bất măi phi vô tiền
有 詩 為 誰 寫
Hữu thi vi thùy tả
不 寫 為 無 箋
Bất tả vi vô tiên
陳 蕃 榻 不 下
Trần Phồn tháp bất hạ
伯 牙 琴 亦 然
Bá Nha cầm diệc nhiên
公 既 棄 予 去
Công kư khí dư khứ
予 亦 不 公 憐
Dư diệc bất công liên
老 人 哭 無 淚
Lăo nhân khốc vô lệ
河 必 強 而 漣
Hà tất cưỡng nhi liên.
tác giả tự dịch là:
Khóc bạn
Bác Dương thôi đă thôi rồi
Nước mây mang mác ngậm ngùi ḷng ta
Nhớ từ thủa đang khoa ngày trước
Vẫn sớm hôi tôi bác cùng nhau
Kính yêu từ trước đến sau
Trong khi gặp gỡ khác đâu duyên trời
Cũng có lúc chơi nơi dặm khách
Tiếng suối tuôn róc rách lưng đèo
Có khi tầng gác cheo leo
Thú vui con hát lựa chiều cầm xoang
Cũng có khi rượu ngon cùng nhắp
Chén quỳnh tương ăm ắp bầu xuân
Có khi bàn soạn câu văn
Biết bao đông bích điển phần trước sau
Buổi dương cưu cùng nhau hoạn nạn
Phận đẩu thăng chẳng dám tham trời
Bác già tôi cũng già rồi
Biết thôi thôi thế th́ thôi mới là
Muốn đi lại tuổi già thêm nhác
Trước ba năm gặp bác một lần
Cầm tay hỏi hết xa gần
Mừng rằng bác vẫn tinh thần chưa can
Tuổi tôi lại c̣n hơn tuổi bác
Mà tôi đau trước bác mấy ngày
Ai ngờ bác vội về ngay
Chợt nghe tôi đă chân tay rụng rời
Ai chẳng biết chán đời là phải
Vội vàng chi đă mải lên tiên
Rượu ngon không có bạn hiền
Không mua không phải không tiền không mua
Câu thơ nghĩ đắn đo không viết
Viết đưa ai ai biết mà đưa
Giường kia treo cũng hững hờ
Đàn kia gẩy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn
Bác chẳng ở dẫu van chẳng ở
Tôi tuy thương lấy nhớ làm thương
Tuổi già giọt lệ như sương
Hơi đâu ép lấy đôi hàng chứa chan.
Bài thơ Việt âm Văn Đồng Niên Vân
Đ́nh Tiến Sĩ Dương Thượng Thư và bài thơ nôm Khóc Bạn, là hai
trong số ngoài bốn chục bài thơ viết bằng hai ngôn ngữ với cùng
một đề tài, đă đưa tên tuổi Nguyễn Khuyến vào danh sách một số văn
thi sĩ trên thế giới sáng tác một tác phẩm bằng hai ngôn ngữ, tỷ
như nhà viết kịch Samuel Beckett (1906-1989) ngựi Ái Nhĩ Lan,
sáng tác nhiều kịch bản nổi danh bằng hai thứ tiếng Anh và tiếng
Pháp.
Những bài thơ tự dịch này của Nguyễn
Khuyến có thể là khuôn vàng thước ngọc cho giới dịch thơ. Nguyễn
Khuyến có biệt tài làm thơ Việt Âm cũng như làm thơ nôm khiến
không có thể nào biết chắc được bản nào là bản chính bản nào là
bản dịch. Trong bài tự dịch trên đây, cái khó là hai điển : Trần
Phồn treo giường và điển Bá Nha treo Đàn. Trong bài thơ nôm,
Nguyễn Khuyến không nhắc tới tên tuổi Trần Phồn và Bá Nha, nhưng ư
chính Trần Phồn và Bá Nha nhớ bạn không v́ vậy mà phai mờ trong
bài thơ nôm. Đào sâu vấn đề này là một đề tài quan trong trong
việc dịch những áng thơ Việt Âm đời Lư đời Trần đời Lê đời Nguyễn
sang thơ nôm.
Điểm đặc biệt của bài Khóc Bạn và
bài Văn Đồng Niên Vân Đ́nh Tiến Sĩ Dương Thượng Thư là điểm Nguyễn
Khuyến đă cho người đọc thấy là không phải tác giả chỉ riêng khóc
bạn mà dường như viết hai bài thơ này Nguyễn Khuyến không chỉ một
ḿnh nhớ lại những kỷ niệm cũ ông đă sống cùng Dương Khuê, mà cả
hai bài thơ cùng cho người đọc thấy tác giả đang linh động cùng
Dương Khuê ôn lại truyện cũ, như khi Dương Khuê c̣n sống.
Toàn thể ba mươi tám câu thơ là một chuỗi hoạt cảnh sống động. Đó
là những cảnh Nguyễn Khuyến sống bên Dương Khuê kể từ khi, do
duyên trời, hai người quen nhau ngày cùng thi đỗ. Nguyễn
Khuyến kể lại kỷ niệm những ngày cùng Dương Khuê đi du ngoạn, ḥa
ḿnh với thiên nhiên, hay cùng đi mua vui nơi ca lâu tửu điếm, hay
những lúc cùng nhau đề vịnh. Rồi tới tuổi cùng nhau về già, gặp
được nhau là mừng cho nhau c̣n khẻo mạnh, như lần gặp nhau cuối
cùng ba năm trước. Mười sáu câu cuối bài Khóc Bạn và bài Văn Đồng
Niên Vân Đ́nh Tiến Sĩ Dương Thượng Thư là đoạn tác giả kể cho
Dương Khuê nghe nỗi kinh hoàng của ḿnh khi nghe tin Dương Khuê
lên cơi tiên. Đoạn thơ này đẫm mấu hiện sinh qua câu :
Ai chẳng biết chán đời là phải
bẩy chữ này làm người đọc nhớ tới
Albert Camus (1913-1960) triết gia người Pháp viết trong cuốn Le
Mythe de Sisyphe 19:
la vie ne vaut pas la peine d’être
vécue.
Tiếp theo, Albert Camus 20
đưa ra nhận xét về cái ngỡ ngàng, cái chán nản của con người trước
cái phi lư của cái chết :
Un jour seulement, le 'pourquoi'
s'élève et tout commence dans cette lassitude teintée
d'étonnement. 'Commence', ceci est important. La lassitude est à
la fin des actes d'une vie machinale, mais elle inaugure en même
temps le mouvement de la conscience. Elle l'éveille et elle
provoque la suite. La suite, c'est le retour inconscience dans la
chaine, ou c'est l'éveil définitif.
Cái ngỡ ngàng đến với Nguyễn Khuyến
qua câu :
Chợt nghe tôi đă tay chân rụng rời.
Cái chán nản Nguyễn Khuyến tả trong
bốn câu :
Rượu ngon không có bạn hiền
Không ngon không phải không tiền không mua
Câu thơ nghĩ đắn đo không viết
Viết đưa ai ai biết mà đưa
Giường kia treo nhưng hững hờ
Đàn kia gẩy nhưng ngẩn ngơ tiếng đàn.
Cái chết phi lư làm Nguyễn Khuyến
mất bạn, ông không c̣n thiết uống rượu, ngâm thơ, gẩy đàn, mà chỉ
c̣n nhớ thương bạn. Nhớ thương bạn, nhưng Nguyễn Khuyến đă già
rồi, không c̣n nước mắt khóc bạn nữa, hay Nguyễn Khuyến đă đạt tới
chữ ngộ, (dịch chữ éveil của Camus trong dẫn chứng trên
đây).
Người đọc thơ Nguyễn Khuyến, không
khỏi thấy rằng cái chết của người bạn thân có một điểm quan
trọng : đó là cái chết không chỉ cho con người biết là ta đă mất
bạn, mà trái lại c̣n cho ta thấy là ta c̣n thương tiếc bạn. Với
ḷng thương tiếc đó, đôi khi con người mất bạn c̣n cảm thấy như
bạn đang ở bên cạnh ... thân thiết hơn bao giờ hết. Phải chăng
đó chính là cảm hứng của Nguyễn Khuyến khi viết bài Khóc Bạn trên
đây?
Trong ḍng thơ về cái chết của người
thân, Nguyễn Khuyến c̣n để lại ba bài thơ khóc vợ. Trước hết là
bài :
悼 內
Điếu Nội
巾 櫛 追 隨 五 十 年
Cân trút truy tùy ngũ thập niên
倚 槐 一 夢 已 成 眠
Ỷ ḥe nhất mộng di thành miên
白 駒 忽 忽 有 如
Bạch câu hốt hốt hửu như thị
青 塚 纍 纍 誰 不 然
Thanh trủng luy luy thùy bất nhiên
淨 土 安 知 非 爾 樂
Tịnh thổ an tri phi nhĩ lạc
塵 途 未 必 望 人 憐
Trần đồ vị tất vọng nhân liên
若 教 我 壽 如 彭 祖
Nhược diao ngă tgọ như Bành Tổ
八 百 春 秋 幾 泣 懸
Bát bách xuân thu kỷ khấp huyền
dịch là
Khóc Vợ
Năm chục năm thôi cũng đành
Giấc ḥe chợp mắt mà thành ngàn thâu
Ngoài song vùn vụt bóng câu
Ngổn ngang mồ mả ai nào khác ai
Người về tĩnh thổ vui thay
Đường trần kẻ ở nỗi rày xót thương
Sống bằng Bành Tổ xin nhường
Tám trăm năm ấy đoạn trường đ̣i phen.
Qua câu đầu bài thơ, giới nghiên cứu
đồng ư rằng bài thơ này Nguyễn Khuyến khóc bà vợ cả, thành hôn với
ông từ năm ông mới mười bẩy tuổi. Trong bài thơ trên đây, Nguyễn
Khuyến không nhắc lại một kỷ niệm rơ rệt nào giữa ông và bà vợ cả.
Ông mô tả năm mươi năm bà nâng khăn sửa túi cho ông như một giấc
ḥe. Nay bà đă ra người thiên cổ như tất cả ai ai khác. Bà về nơi
tịnh thổ, để mối xót thương cho ông. Nỗi xót thương đè nặng khiến
ông thương hại ông Bành Tồ, theo truyền thuyết, sống tám trăm năm
chôn 49 bà vợ.
Nh́n qua ḍng thơ nôm, ngựi đọc thơ
t́m thấy một bài ghi lại kỷ niệm giữa Nguyễn Khuyến và bà vợ cả.
Đó là bài:
Khuyên Vợ Cả
Ta chẳng như ai lối nguyệt hoa
Trước là ngẫm nghĩ nỗi gần xa
Lấy năm th́ cũng dành ngôi chính
Dấu bẩy càng thêm vững việc nhà
Mọi việc cửa nhà là việc nó
Mấy con trai gái ấy con ta
Thôi đừng nghĩ sự chi chi cả
Chẳng chữ ǵ hơn chữ thuận ḥa.
Bài thơ chữ nôm cho thấy, Nguyễn
Khuyến, tuy có bốn bà vợ, nhưng không phải là người
Mặn t́nh cát lũy nhạt t́nh tao
khang. (Kiều)
Tự diển Khai Trí Tiến Đức giảng hai
chữ cát lũy là một loại dây ḅ như cây sắn, nghĩa bóng là người vợ
lẽ; và hai chữ tao khang là bă rượu và hạt tấm, nghĩa bóng là
người vợ cưới thủa c̣n bần hàn. Có nhiều thoại về bà vợ tao khang
của Nguyễn Khuyến . Một khoa, Nguyễn Khuyến đi thi, nhà thiếu
tiền, bà phải cầm cố cả áo quần mới tạm đủ tiền cho Nguyễn Khuyến
ăn đường đi thi. Đến ngày Nguyễn Khuyến vinh quy, bà con cùng chị
em đi làm công ở một làng xa, bà nấn ná không dám về, e mất buổi
công. Chị em phải giục măi bà mới lội tắt cánh đồng về đón chồng.
Nay bà cả vui nẻo về tĩnh thổ, để
mối xót thương cho ông ở lại cơi trần, dường như là lúc ông thấy
là cái có được sống dai, lại được đa nhân duyên như ông
Bành Tổ cũng chẳng là hạnh phúc trong cuộc sống con người. Cái
chết chắc chắn làm bà khuất dạng bên ông, nhưng phải chăng cái
chết cũng tạo ra ư nghỉa cho cái hiện diện của bà bên ông trong
suốt năm chục năm qua mà tới nay ông mới nhận ra được?
Phải chăng đó là điều Gabriel Marcel
viết trong cuốn Journal Métaphysique 21 (1938-1943),
kèm trong tập Présence et Immortalité như sau :
Rôle que peut jouer ici la mort : en
donnant du recul à l’autre, elle l’ecarte de moi, elle le place à
distance où je peux enfin le voir, où il peut se révéler à moi.
Sau bài Khóc Vợ trên đây, trong ḍng
thơ Việt Âm c̣n có bài :
旅 殯 哭 內
Lữ Thấn Khốc Nội
相 期 佳 老 老 無 緣
Tương kỳ giai lăo lăo vô duyên
一 別 逾 年 便 百 年
Nhất biệt du niên tiện bách niên
招 爾 魂 兮 來 此 些
Chiêu nhĩ hồn hề lai thử ta
曰 予 慟 矣 為 誰 憐
Viết dư dỗng hỹ vị thùy liên
邶 鄘 而 下 風 斯 變
Bội dung nhi hạ phong tư biến
秦 漢 之 間 禮 則 然
Tần Hán chi gian lễ tắc nhiên
聞 訃 不 勝 衰 病 久
Văn phó bất thắng suy bệnh cửu
旅 墳 菁 草 已 芊 芊
Lữ phần thanh thảo dĩ thiên thiên.
dịch là
Khóc Vợ Chôn Nơi Đất Khách
Hẹn đầu bạc lăo vô duyên
Một năm xa cách lỗi nguyền trăm năm
Gọi hồn hồn có về chăng
V́ ai đau xót khóc than năo nùng
Tư phong đổi từ Bội Dung
Giữa Tần Hán lễ vẫn chừng ấy thôi
Bệnh già tin đến ngậm ngùi
Tá tà ngọn cỏ quê người mồ chôn.
Giới nghiên cứu tiểu sử Nguyễn
Khuyến cho biết là Nguyễn Khuyến có bốn vợ. Bà cả họ Nguyễn, người
cùng làng; bà thứ hai cũng họ Nguyễn. Sau khi bà cả bà hai tạ thế,
Nguyễn Khuyến cưới bà kế, rồi cưới thêm bà thứ tư. Bà này không
con và mất sớm. Các nhà văn bản học phân vân không biết bài thơ
trên dây Nguyễn Khuyến khóc bà nào 22.
Tiếp tục t́m trong ḍng thơ Việt Âm,
người đọc gặp bài :
Văn Thiếp Phạm Thị 23
Ai ai nhĩ Phạm ky
Ṭng ngă kim thất kỳ
Tu du khí ngă khứ
Kiết nhiên vô nhất di
Tuy nhiên hữu thành hiệu
Mang mang bất khả kỳ
Bằng viễnphương huyền thụ
Đương thời mạc chi tri
Hà dĩ nhất tử hậu
Bích thảo sinh tân tỳ
Thẩn nhĩ thị phụnhân
Phủ nhương vô sở ti
Phấn thân hiệu cân quắc
Thức mục vô tu mi
Thế đạo hữu như thử
Nhĩ tân lương bất khi
Khốc tử phi vi sinh
Khẳng khái hứng tửu chi
Phi phi thất tịch vũ
Ḥa lệ vi tân thi.
dịch là
Khóc Bà Thiếp Họ Phạm
Khóc nàng họ Phạm xót thương
Bẩy năm một chiếu một giường có nhau
Bỏ ta bằn bặt đi đâu
Nỗi con chưa có thêm rầu ḷng ta
Ngỡ là chung sống đến già
Hóa ra gặp lại họa là kiếp sau
Xa nàng tin bặt bấy lâu
Nỗi nàng vắn số thật đâu có ngờ
Đến khi xanh cỏ yên mồ
Hay tin mới lập bàn thờ thờ vong
Đành nàng phận gái chữ ṭng
Khói hương chẳng biết cậy trông ai cùng
Yếm khăn đến tuổi lấy chồng
Mày râu giụi mắt vừa ḷng chẳng ai
Chớ trêu sự thế đặt bày
Chẳng lầm duyên kiếp xum vầy cùng ta
Khóc nàng chẳng vị gần xa
Tay nâng chén rượu xót xa tấc ḷng
Mưa ngâu tháng bẩy ṛng ṛng
Ḥa cùng nước mắt viết ḍng tân thi.
Đối chiếu bài Khóc Bà Thiếp Họ Phạm
với kết quả nghiên cứu tiểu sử của Nguyễn Khuyến cho thấy một điểm
đáng ghi nhận. Đó là bà thiếp thứ tư mất sớm và không có con, và
cả ba bà kia cùng có con ghi rơ được tên tuổi. Trong bài Khóc Bà
Thiếp Họ Phạm, Nguyễn Khuyến cho hay là bà họ Phạm chưa có con.
Vậy phải chăng bà thứ tư là bà thiếp họ Phạm? Đằng khác, đối chiếu
câu thứ hai bài Khóc Vợ Chôn Nơi Đất Khách với câu thứ ba bài Khóc
Bà Thiếp Họ Phạm, người đọc cũng ghi nhận một điểm. Đó là bà vợ
Nguyễn Khuyến chết chôn đất khách, đă bỏ đi sau cả năm Nguyễn
Khuyến mới được tin bà mất và chôn tại quê người. Trong bài Khóc
Bà Thiếp Họ Phạm, tác giả cũng cho thấy bà bỏ đi một thời gian khá
lâu ở nhà mới được tin bà đă mất. Vậy phải chăng, theo hai bài thơ
này, bà thiếp họ Phạm và bà mà Nguyễn Khuyến khóc trong bài Lữ
Thấn Khốc Nội v́ chết chôn tại đất khách là một bà?
Điểm đáng lưu ư khác là ḍng nước
mắt của Nguyễn Khuyến trước ba cái chết của ngựi thân. Nguyễn
Khuyến không c̣n nước mắt khóc bạn Dương Khuê. Nguyễn Không không
rơi nưóc mắt ngày bà vợ cả về tịnh thổ, nhưng nước mắt Nguyễn
Khuyến chan ḥa như mưa tháng bẩy khi hay tin bà thiếp họ Phạm mất
đă xanh mồ nơi đất khách.
Trở lại bài Lữ Thấn Khốc Nội, qua
câu thứ ba:
招 爾 魂 兮 此 些
Chiêu nhĩ hồn hề lai thử ta
dịch là
Gọi hồn hồn có về chăng
gợi cho người đọc nhớ tới một đoạn
trong bài Trường Hận Ca, dài hai trăm câu, của nhà thơ Đường Bạch
Cư Dị, tả nỗi vua Đường Minh Hoàng thương nhớ Dương Qúy Phi sai
phương sĩ Lâm Cùng Hồng Đô Khách phải đè mây cưỡi gió đi khắp đó
đây kiếm t́m quư phi cho nhà vua. Khi quư phi gặp phương sĩ, nàng
giăi tỏ mối hận đằng đẵng vô tận của nàng. Câu truyện trước ngày
cưới của bà thiếp họ Phạm cũng được Nguyễn Khuyến nhắc nhở trong
thơ: đến tuổi lấy chồng bà họ Phạm đă có nhiều người tới hỏi cưới,
nhưng bà không ưng một ai mà về làm thiếp Nguyễn Khuyến, nhưng
không biết v́ sao, và chính Nguyễn Khuyến cũng không rơ, bà đă bỏ
ra đi rồi trong ngoài một năm sau th́ có tin báo bà từ trần và
táng thân nơi đất khách. Bà c̣n trẻ, lại chưa có con, không có ai
hương khói khiến Nguyễn Khuyến càng thêm thương xót. Phải chăng
ḍng nước mắt chứa chan như mưa tháng bẩy của Nguyễn Khuyến là
ḍng nước mắt ông khóc mối hận của bà thiếp họ Phạm như Đường Minh
Hoàng thương khóc Dương Quư Phi và kèm theo niềm hối hận là đă
không che chở nổi mạng sống cho quư phi?
C̣n một điều đáng chú ư trong bài
Khóc Vợ Chôn Nơi Đất Khách, là Nguyễn Khuyến muốn gọi hồn bà thiếp
họ Phạm như vua Đường Minh Hoàng cho phương sĩ Lâm Cùng Hồng Lô
Khách đi t́m Dương Quư Phi tại thế giới bên kia cái chết. Ngày
nay trên thế giới khoa học văn minh vẫn c̣n có nhiều hội mục đích
nối liên lạc vói thế giới bên kia cái chết. Gabriel Marcel, qua
các tài liệu để lại, từng là một nhà nghiên cứu muốn đi sâu vào
truyện này.
Sau đây là một đoạn đối thoại về
việc đi t́m liên lạc với người bên kia cái chết. giữa Gabriel
Marcel và Paul Ricoeur. Paul Ricoeur nói24:
Si je pleure ceux que j’ai aimés,
c’est que, d’une certaine facon, je les ai perdus et que ce seait
miracle de les trouver.
Gabriel Marcel trả lời :
Pourquoi le miracle n’existerait pas?
Trên ḍng thơ khóc người thân, nhiều
cuốn tuyển thơ Đào Tiềm chép bài văn tế kèm lới tựa dưới đây :
祭 程 氏 妹 文
Tế Tŕnh Thị Muội Văn
序 : 維 晉 義 熙 三 年 五 月 甲 辰,
Duy Tấn Nghĩa Hy tam niên ngũ nguyệt giáp th́n
程 氏 妹 服 制 再 周.
Tŕnh thị muôi phục chế tái chu.
淵 明 以 少 牢 之 奠, 俛 而 酹 之
Uyên Minh dĩ thiếu lao, phủ nhi lỗi chi,
嗚 呼 哀 哉
Ô hô ai tai.
寒 往 暑 來
Hàn văng thử lai
日 月 寢 疏
Nhật nguyệt tẩm sơ
梁 塵 委 積
Lương trần ủy tích
庭 草 荒 蕪
Đ́nh thảo hoang vu
廖 廖 空 室
Liêu liêu không thất
哀 哀 遺 孤
Ai ai di cô
肴 觴 虛 奠
Hào thương hư điện
人 逝 焉 如
Nhân thệ yên như
誰 無 兄 弟
Thùy vô huynh đệ
人 亦 同 生
Nhân diệc đồng sinh
嗟 我 與 爾
Ta ngă dữ nhĩ
特 百 常 情
Đặc bách thường t́nh.
慈 妣 早 世
Từ tỷ tảo thế
時 尚 孺 嬰
Th́ thượng nhu anh
我 年 二 六
Ngă niên nhị lục
爾 纔 九 齡
Nhĩ tài cửu linh
爰 從 靡 識
Viên ṭng mỹ thức
撫 髫 相 成
Phủ thiều tương thành
咨 爾 今 妹
Tư nhĩ kim muội
有 德 有 橾
Hữu đức hữu thao
靖 恭 鮮 言
Tĩnh cung tiên ngôn
聞 喜 則 樂
Văn hỷ tắc lạc
能 正 能 和
Năng chính năng ḥa
惟 友 惟 孝
Duy hữu duy hiếu
行 止 中 閨
Hành chỉ trung khuê
可 象 可 傚
Khả tượng khả hiệu
我 聞 為 喜
Ngă văn vi hỷ
慶 自 己 蹈
Khánh tự kỷ đạo
彼 蒼 何 偏
Bỉ thương hà thiên
而 不 斯 報
Nhi bất tư băo
昔 在 江 陵
Tích tại Giang Lăng
重 罹 天 罰
Trọng ly thiên phạt
兄 弟 索 居
Huynh đệ tác cư
乘 隔 楚 越
Thừa cách Sở Việt
伊 我 與 爾
Y ngă dữ nhĩ
百 哀 是 切
Bách ai thị thiết
黯 黯 高 雲
Ảm ảm cao vân
蕭 蕭 冬 月
Tiêu tiêu đông nguyệt
白 雲 俺 晨
Bạch vân yểm thần
長 風 悲 節
Trường phong bi tiết
感 惟 崩 號
Cảm duy băng hào
興 言 泣 血
Hưng ngôn khấp huyết
尋 念 平 昔
Tầm niệm b́nh tích
觸 事 未 遠
Xúc sự vị viễn
書 疏 猶 存
Thư sơ do tồn
遺 孤 滿 眼
Di cô măn nhăn
如 何 一 往
Như hà nhất văng
終 天 不 返
Chung thiên bất phản
寂 寂 高 堂
Tịch tịch cao đường
何 時 復 踐
Hà th́ phục tiễn
藐 藐 孤 女
Miểu miểu cô nữ
曷 依 曷 恃
Hạt y hạt thị
煢 煢 遊 魂
Quỳnh quỳnh du hồn
誰 主 誰 祀
Thuỳ chủ thuỳ tư
奈 何 程 妹
Nại hà Tŕnh muội
於 此 永 巳
Ư thử vĩnh tỵ
死 如 有 知
Tử như hữ tri
相 見 蒿 里
Tương kiến hao lư
嗚 呼 哀 哉
Ô hô ai tai.
dịch là
Đời Tấn, năm Nghĩa Hy thứ ba, tháng
năm, ngày Giáp Th́n. Nhân ngày giỗ lần thứ hai, em gái là Tŕnh
Thị, ta Uyên Minh sửa lễ thiếu lao, cúi đầu tưới rượu. Ô hô ai
tai.
Rét qua nực tới
Ngày tháng cách trở
Xà nhà bụi phủ
Sân cỏ hoang vu
Trong nhà vắng ngắt
Sùi sụt con côi
Đầy bàn cỗ cúng
Người thác đâu rồi
Ai không anh em
Thường cùng một mẹ
Nhưng em cùng ta
Khác xa thế t́nh
Mẹ em tạ thế
Thủa ḿnh thơ dại
Ta mới mười hai
Em chớm chín tuổi
Từ thủa để chóm
Tới kỳ chải tóc
Thương người em nhỏ
Có đức có hạnh
Khiêm nhường ít lời
Vui nghe điều lành
Đoan chính thuận ḥa
Vẹn toàn chữ hiếu
Trong chốn pḥng khuê
Đáng bực gương mẫu
Từng nghe làm lành
Tất gặp sự lành
Ông Xanh bất công
Chẳng chút đền đáp
Thủa ở Giang Lăng
Từng bị trời phạt
Anh em ĺa đàn
Sở Việt cách biệt
Riêng ta cùng em
Trăm đường thua thiệt
Ảm đạm mây cao
Trăng đông lạnh lẽo
Mây che sớm mai
Gió lùa thê thảm
Xúc động khôn cầm
Mắt trào lệ máu.
Ôn lại truyện cũ
Xa xưa chẳng quên
Thư em giữ đủ
Trước mắt con nhỏ
Một khi ra đi
Sao chẳng có về
Nhà trên quạnh quẽ
Bao giờ trở lại
Nheo nhóc con côi
Nương ai nhờ ai
Lởn vởn cô hồn
Ai cúng ai thờ
Sao đây cô Tŕnh
Vĩnh biệt từ nay
Người chết bằng hay
Gặp nhau tuyền đài
Ô hô ai tai.
Đối chiếu với những bài thơ Nguyễn
Khuyến khóc ngựi thân, người đọc thấy nhiều điểm tương đồng với
bài văn tế em gái của Đào Tiềm. Xét trên cấu trúc bài Khóc Dương
Khuê của Nguyễn Khuyến và bài văn tế em gái của Đào Tiềm, người
đọc thấy là trong cả hai bài, người chết gợi cho người sống nhiều
kỷ niệm sâu đậm, và sự ra đi của ngưới chết làm người sống thấy cô
đơn, bàng hoàng xót thương. và nhất là thấy rơ cái phi lư của sự
sống chết. Đào Tiềm không chúc người em gái sớm về Tịnh Thồ, nhưng
hẹn gặp lại cô em gái ờ cơi bên kia cuộc sống. Hy vọng đó cũng là
hy vọng của Nguyễn Khuyến mong gặp lại bà vợ chết chôn nơi quê
người. Đào Tiềm khóc người em gái bằng hai ḍng nước mắt cũng như
Nguyễn Khuyến khóc bà thiếp họ Phạm bằng ḍng nước mắt chan ḥa
như mưa ngâu tháng bẩy. Phải chăng Dương Khuê đă già và Nguyễn
Khuyến cũng đă già khiến khi Dương Khuê nằm xuống Nguyễn Khuyến
không c̣n nước mắt khóc Dương Khuê. Nhưng bà thiếp họ Phạm c̣n trẻ
lại chưa có con khiến Nguyễn Khuyến nước mắt chan ḥa khi nghe tin
bà vắn số, và Đào Tiềm khóc cô em gái trào máu mắt v́ cô em mất
khi c̣n trẻ, để lại đàn con côi không nơi nương tựa?
[11] Trang Tử Nam Hoa Kinh, bản dịch của Nhượng Tống, sách đă dẫn,
tr. 284-285.
[12] Trang Tử Nam Hoa Kinh, bản dịch của Nhượng Tống, sách đă dẫn,
tr. 133-134
[13] TrangTử Nam Hoa Kinh, bản dịch của Nhượng Tống, sách đă dẫn,
tr. 131.
[14] Chưa tim được bản chữ nho.
[15] Mai Mộng Liên, Nguyễn Du Toàn Tập, sách đă dẫn tr. 185 :
[16] Gabriel Marcel, Etre et Avoir, vol.1: Journal Métaphysique
(1928-1933),Gallimard, Paris 1927 p. 171-172
[17] Gabriel Marcel, En Chemin vers quel éveil, Gallimard, Paris
1971, p.160
[18] Trang Tử Nam Hoa Kinh, chương Đại Tông Sư, bản dịch của Nhượng
Tống, sách đă dẫn, tr. 128.
[19] Le Mythe de Sisyphe, Gallimard, Paris 1942, p. 16
[20] Le Mythe de Sisyphe, sách đă dẫn, p. 27.
[21] Gabriel Marcel, Journal métaphysique (1938-1943). Parus dans
Présence et Immortalité, coll. Homo Sapien, Flamarion, Paris 1959,
p.140.
[22] Cuốn Thi Văn Nguyễn Khuyến, nhà xuất bản Văn Học, Hà Nội
1971, tr. 425 ghi chú là chưa rơ tác giả khóc bà nào. Cuốn Thi Hào
Nguyễn Khuyến Đời và Thơ do Nguyễn Huệ Chi chủ biên, viện Văn Học
Xuất bản năm 1994, trang 478, không cho biết xuất xứ và lư do, ghi
là có lẽ tác giả khóc bà vợ thứ hai, tức là bà Nguyễn Thị Thục;
Cuốn Nguyễn Khuyến, Tác Phẩm & Dư Luận, Tuấn Thành và Anh Vũ tuyển
chọn, Nhà Xuất bản Văn Hoc, Hà Nội ,2002, tr. 206, cũng không cho
biết xuất xứ cùng lư do, ghi là có lẽ tác giả khóc bà thứ hai.
[23] Chưa t́m được bản chữ nho
[24] Réné Davignon, Le Mal Chez Gabriel Marcel, sách đă dẫn, p.133
Chủ đề:
Tư Duy Trong Thơ Nguyễn Khuyến
LÊ PHỤNG
|
Trang XUÂN 2012- Văn Học Nghệ Thuật
Và Quê Hương
|
|