Tôi
sinh ra ở Sài Gòn trong một gia đình bố là quân nhân nay đây mai
đó và mẹ tôi quê ở Thủ Đức. Biến cố năm 1975 đã đưa đẩy gia đình
tôi trôi dạt về quê nội, xã Chánh Mỹ, nơi tôi đã trải qua quãng
đời niên thiếu. Chánh Mỹ là một xã nhỏ thuộc tỉnh Bình Dương, cách
Sài Gòn khoảng ba mươi cây số và cách thị xã Thủ Dầu Một ba cây
số. Hơn hai mươi năm sống xa quê hương nhưng mỗi khi gần đến ngày
Tết, lòng tôi bỗng chợt bâng khuâng nhớ về những ngày tháng cũ với
một hương vị đặc biệt đã để lại nhiều kỷ niệm trong tôi về ngày
Tết.
Nhắc đến Tết, chúng ta thường liên tưởng đến những hình ảnh thân
quen từ nồi bánh tét, bánh chưng đêm giao thừa, xác pháo đỏ, lũ
trẻ con đi chúc Tết ông bà, đến dưa hành, câu đối đỏ, hay đi lễ
chùa, v.v. Riêng đối với tôi, hình ảnh và hương vị quyến rũ nhất
của ngày Tết lại là một hình ảnh rất đơn sơ, mộc mạc: mùi củ kiệu.
Nhắc đến củ kiệu và ngày Tết, ký ức của một thời niên thiếu trên
mảnh đất Chánh Mỹ lại hiện về trong tôi.
***
Khi lũ trẻ bắt đầu tựu trường vào tháng 9 là khoảng thời gian
chúng tôi thấy bà con trong xóm chuẩn bị kiệu giống để trồng.
Trước những sân nhà là những chiếc nia phơi củ kiệu giống để chuẩn
bị đem đi trồng. Một mùi thơm nồng toả ra khắp làng trên xóm dưới.
Ngoài đồng ruộng, từ sáng sớm tinh sương, nhiều người đã có mặt
ngoài đó để chuẩn bị cày bừa đất cho thật kỹ trước khi những củ
kiệu giống được mang đi trồng. Có thấy những khổ cực của nhà
nông, mới càng yêu quý những sản phẩm được tạo ra từ những giọt mồ
hôi đổ xuống bên những luống cày. Có được những củ kiệu to và
trắng muốt xếp trong dĩa bên cạnh những con tôm khô trong ngày
Tết, chắc không mấy ai buồn nghĩ đến những nỗi nhọc nhằn của người
nông dân tạo ra chúng.
Công việc chuẩn bị đất để trồng củ kiệu đòi hỏi nhiều thời gian vì
tôi nghe bố mẹ nói củ kiệu không chịu đất quá ẩm, nên những người
trồng kiệu phải tháo nước mảnh ruộng cho thật khô vài tuần lễ
trước đó. Sau khi cày xới cho thật kỹ, họ đắp thành những liếp đất
có chiều ngang khoảng hơn một mét và chiều dài từ bờ này qua đến
bờ ruộng phía bên kia. Tôi còn nhớ trên con đường đi học về, lũ
học trò chúng tôi thích thú nhìn những liếp đất trải dài, nối đuôi
nhau nhưng những con rắn. Có lúc nghịch ngợm, tụi tôi nhảy xuống
những mảnh ruộng và rượt đuổi nhau giữa những liếp đất vừa mới
được đắp lên. Vì ham xô đẩy rượt bắt nhau, nên có đứa té vào
những liếp đất. Chúng tôi sợ dơ quần áo thì ít, mà sợ bị la rầy
thì nhiều vì người ta đã bỏ nhiều công sức để đắp lên những liếp
đất này, mà bây giờ bị bọn trẻ chúng tôi làm lỡ sạt xuống. Cả đám
hoảng sợ bỏ chạy tứ tán như bầy chim sẻ đang ăn lúa sót sau mùa
gặt bay vụt lên không trung khi chợt nghe thấy tiếng động.
Khi những liếp đất đã chuẩn bị xong, những củ kiệu giống được mang
ra trồng. Từng củ kiệu được thả nằm gọn lỏn trong lỗ đất nhỏ vừa
được ngón tay người trồng bấm xuống lớp đất xốp mịn. Một lớp rơm
được phủ lên để giữ ẩm cho những củ kiệu giống đâm chồi. Sau đó,
từng gàu nước được múc lên từ những con mương gần đó tưới xuống từ
chiếc vòi hình hoa sen để cho củ kiệu giống có đủ độ ẩm để nảy
mầm. Những ngày tháng kế tiếp, người nông dân phải lo nhổ cỏ, bón
phân, tưới nước, xịt sâu rầy, v.v., lo chăm sóc, nâng niu cho
những củ kiệu giống từ từ mọc lên những lá xanh non mơn mởn. Chỉ
vài tuần lễ sau, những thửa ruộng trước đây còn khoác trên mình
một màu nâu sậm của những cọng rơm, được thay bằng màu xanh non
của lá kiệu. Đứng xa xa, những cánh đồng trồng củ kiệu trải dài
một màu xanh non mơn mởn không khác gì những thửa ruộng lúa sau
khi mạ non được cấy xuống sau một vài tuần lễ. Những khó khăn của
nhà nông giờ đây lại còn tùy thuộc vào yếu tố thời tiết vì nếu
trời trở lạnh hay mưa nhiều quá, cũng có thể làm ảnh hưởng đến sự
phát triển của cây kiệu do bị úng nước.
Sắp đến Tết, tôi thường mon men ra những cánh đồng để thích thú
ngắm nhìn màu xanh của lá kiệu xen lẫn màu vàng của hoa cúc, màu
cam của hoa vạn thọ, mà một số nhà nông trồng để bán kiếm thêm
chút tiền vào dịp Tết. Tôi không biết cái tên "củ kiệu" có từ đâu
mà chỉ còn nhớ mang máng câu chuyện tôi được nghe trong một buổi
trưa hè khi bà nội của tôi ngồi đưa võng cho tôi ngủ. Nội kể rằng
ngày xưa, từ thời Hùng Vương, khi vua đi săn thú trong rừng và các
nàng hầu được bảo phải vào rừng để kiếm thêm rau cho vua ăn chung
với thịt rừng sau khi săn được. Một nàng hầu đã tìm ra được một
loại củ lạ có màu trắng mà khi nướng thịt, nàng bỏ chung vào và
tạo ra một hương vị thơm ngát. Vua ăn khen ngon và đặt tên là
"Kiệu", như tên của nàng hầu. Không biết câu truyện truyền thuyết
này có đúng hay không, nhưng với trí óc non nớt của tôi khi nghe
kể những câu chuyện thần tiên thật đẹp như vậy, tôi tin ngay mà
không cần phải bỏ công sức lên "Google" tìm hiểu thêm như bây
giờ. Bà nội của tôi, trong ý nghĩ của tôi lúc đó, còn hay hơn
"ông thầy Google" bây giờ nhiều.
Sau mấy tháng dưới bàn tay cần cù chăm sóc của người nông dân, mùa
thu hoạch củ kiệu nhằm vào những ngày cuối tháng Chạp âm lịch, tức
là vào khoảng tháng Giêng hoặc bước sang tháng Hai dương lịch.
Bọn trẻ chúng tôi cũng háo hức thức dậy sớm khi người lớn chuẩn bị
ra đồng để nhổ kiệu mang đi bán. Từng cây củ kiệu được nhổ lên
khỏi lớp đất, phơi ra những củ tròn căng, mùi thơm nồng có thể
ngửi thấy dù đứng cách xa hàng trăm mét. Con suối Giữa mà ngày
thường bọn tôi thường lội xuống tắm sau giờ học, bây giờ được dùng
làm nơi để rửa những bó kiệu được buột lại một cách thật khéo
léo. Những lớp bùn đất còn sót lại bị cuốn trôi theo dòng nước để
lộ ra những củ kiệu còn trắng hơn khi vừa được nhổ lên. Những
chiếc lá già cũng được lột bỏ bớt, chỉ giữ lại những lá còn xanh
và chùm rễ. Tôi nghe nói ở ngoài Bắc, người ta dùng rễ của củ
kiệu để làm món mọc sườn. Còn ở quê tôi, củ kiệu được dùng để xào
với thịt bò nếu nhà nào khá giả, còn nếu không thì xào với lòng
gà. Ở một số vùng đồng bằng Tây Nam Bộ, tôi còn nghe nói người ta
bẫy chuột đồng để làm món xào với củ kiệu. Lúc nhỏ, tôi nhát gan
nên khi thấy chuột, dù chuột nhà hay chuột đồng thì đã bỏ chạy từ
xa, nên chưa bao giờ được dịp thưởng thức món ăn dân dã này mà tôi
nghe tả rất hấp dẫn. Còn có nhiều món ăn được chế biến từ củ kiệu,
từ rễ đến lá tùy theo từng địa phương như món cá đối chiên lên rồi
chưng mắm kiệu trút vô ăn với cơm cháy, hay canh chua nấu với thịt
bò, v.v. Tất nhiên, món chính vẫn là món củ kiệu ngâm chua mà mỗi
dịp Tết đến, người dân từ thành thị đến nông thôn đều không thể
thiếu món củ kiệu tôm khô thường được chủ nhà bày ra đãi khách
cùng với các món ăn khác. Có lẽ hương vị vừa nồng nồng, vừa cay
cay, đã tạo ra một vị đặc biệt cho củ kiệu mà không có một món ăn
nào có thể thay thế được.
Riêng tôi, hương vị củ kiệu dường như đậm đà hơn vì tôi đã được
sống và quan sát từng ngày từ khi củ kiệu còn là một củ giống được
phơi khô trên những chiếc nia cho đến lúc chúng được mang đi trồng
trong những liếp đất. Sau đó, chúng đã cùng người nông dân trải
qua bao nhiêu ngày mưa nắng với sự chăm sóc, lo lắng từng gàu
nước, phân bón, nhổ cỏ, trừ sâu, cho đến ngày thu hoạch vào những
ngày cận Tết.
Tuy nhiên, nỗi khổ cực của người nông dân dường như chưa dừng lại
đó. Sau khi đã rửa những bó kiệu xong, chỉ có một số ít củ kiệu
được người trong xóm gánh hoặc chở mang đi bán ở những chợ gần
đó. Số còn lại, mọi người phải chờ cho đến khi những người lái
buôn mang những xe tải lớn đến để thu mua. Trí óc non nớt của tôi
ngày ấy chưa hiểu tại sao người dân phải xếp những bó kiệu dọc
theo con đường lộ từ sáng đến trưa mới có người mang xe đến mua.
Sau này, tôi được giải thích sở dĩ những người lái buôn cố tình
đến trễ vì họ muốn chờ cho những bó kiệu khô ráo hết nước để nhẹ
cân đi khi mua lại của người dân. Tuy nhiên, khi đi bỏ mối, họ
lại tưới thêm nước vào những bó kiệu cho chúng được nặng cân hơn
để kiếm thêm lời. Người dân trồng kiệu biết rõ thủ đoạn nầy,
nhưng họ không dám làm gì hơn vì những người lái buôn khi cầm bó
kiệu mà nước còn nhiễu xuống, họ sẽ từ chối không mua hàng trong
khi người dân thì chỉ mong sao bán cho được để còn kiếm tiền trang
trải nợ nần và chuẩn bị cho mấy ngày Tết.
Chứng kiến bao nỗi thăng trầm với cuộc sống vất vả của người dân
hiền lành và cam chịu, có lẽ vì vậy mà hương vị của củ kiệu càng
thêm nồng, thêm cay như muốn cảm thông với cuộc đời nhiều cay đắng
của người dân hiền lành, tay lấm chân bùn chăng? Riêng tôi, cứ
mỗi lần mùi hương củ kiệu toả lên từ những cánh đồng là nỗi háo
hức chờ đón những ngày Tết lại trỗi dậy trong lòng. Tôi mong có
được bộ quần áo đẹp để đi chúc Tết ông bà, chúc Tết các Thầy Cô và
đi chơi với các bạn bè trong ngày đầu năm. Tuổi thơ vốn hồn
nhiên, nhưng tôi vẫn ý thức được những khổ nhọc của mẹ cha, nên dù
có những năm Tết đến không có áo mới để mặc vì củ kiệu bị mất mùa
hay bị mua với giá chèn ép, tôi chỉ buồn thầm trong lòng chứ không
dám lên tiếng đòi hỏi với bố mẹ. Nhiều mùa trồng và thu hoạch củ
kiệu như vậy lặng lẻ trôi qua cho đến khi tôi từ giã xóm Chánh Mỹ
để đi học trên Sài gòn và sau đó đi qua Mỹ. Kể từ lúc đó, tôi
không còn đựợc dịp chứng kiến những mùa trồng kiệu, thu hoạch và
bán củ kiệu nhộn nhịp như xưa nữa. Sau này, mỗi lần vào chợ Việt
Nam, khi đi ngang qua hàng bán rau cải và nhìn thấy thau củ kiệu
được bày bán, tôi đứng tần ngần thật lâu như muốn tìm lại những
hình ảnh của một quãng đời đã qua...
***
Mười mấy năm trôi qua, tôi có dịp về thăm lại xã Chánh Mỹ trong
một dịp cận Tết. Tôi ngơ ngác và cảm thấy như hụt hẫng khi thấy
những thửa ruộng ngày xưa ven đường quốc lộ số 13 giờ đây đã bị
lấp đi để xây lên những ngôi nhà và những hàng quán. Con suối
Giữa cũng bị lấp đi. Con suối nhỏ đã in dấu những nhiều ký ức
tuổi thơ ngày xưa không biết giờ đây đã bị tắt nghẽn nơi nào? Tôi
gặp lại một người bạn học cũ ngày xưa, bên một quán nước ven đường
với chiếc áo rách vai bay phất phơ theo những cơn gió từ những
chiếc xe vận tải chạy ngang qua. Người bạn cho tôi biết thanh
niên trong làng giờ đây không còn ai sống nổi với nghề làm ruộng
đồng, nên phần lớn đã bỏ làng lên thành phố tìm việc làm. Nhiều
thửa ruộng xa đường lộ không thể bán để xây cất nhà, nên bị bỏ
hoang. Không còn tìm thấy cảnh nhộn nhịp mua bán củ kiệu như xưa
nữa...
Trên chuyến bay về lại Mỹ, tôi mang theo hình ảnh một quê hương mà
khi trở về thăm sau bao năm xa cách, tôi cứ ngỡ mình là người
khách lạ. Hình ảnh những mùa củ kiệu năm nào giờ đây chỉ còn
trong ký ức.