
Trong
thơ văn và âm nhạc Việt Nam có vùng địa danh mà tên nghe dễ thương và lại
có nét tôn giáo là 4 chữ trong bản nhạc "Tha La Xóm Đạo" của nhạc sĩ Dzũng
Chinh.

Giáo đường Tha La,
bách cổ c̣n đây
Phải nói là nhiều người đă nghe qua địa danh này, nhưng chi tiết tại sao
có tên lạ tai như vậy, mà họ có thể không biết nhiều về Tha La. Tôi được
anh bạn đồng hương Tây Ninh Nguyễn Thành Đởm gởi cho bài tài liệu vô cùng
công phu do anh Lâm Thanh thu thập tài liệu mà anh biên soạn lại thành bài
viết mang tên "Tha La Xóm Đạo" đăng trong tập san Tây Ninh Mến Yêu bên Úc
châu, kèm theo tài liệu của giáo sư Lê Tấn Tài và bài thơ "Tha La” của thi
sĩ Vũ Anh Khanh, cùng bài thơ của anh Lâm Thanh là “Tha La ngày trở lại".
Cho nên dựa theo tài liệu của quư báu của người Tây Ninh như anh Lâm Thanh,
Lê Tấn Tài, Trần Anh Dũng, Hà Đ́nh Huy, cũng như chị nhà thơ Nhược Trần
Huệ Thu, một người dành cho Tha La cảm t́nh nồng nàn, dù chị không là
người Tây Ninh. V́ vậy tôi xin gởi bài viết về lại đất Tha La như kư ức cũ
một lần đặt chân đến, cũng như bao lần ghé qua Trảng Bàng, một vùng đất dễ
thương trong tiềm thức cũ.
Tại sao là "Tha La Xóm Đạo ?"
Tên Tha La phát nguyên do chữ của người Thủy Chân Lạp hay Khmer là “Schla",
được người Việt đọc trại thành "Tha La", nó là vùng đất xưa nơi người Chân
Lạp định cư, trước khi sát nhập vào lănh thổ Việt Nam. V́ là tên của người
Khmer nên nó có âm thanh lạ tai của ngoại ngữ khi chúng ta dùng mà không
mang nghĩa Việt ngữ nào hết.

Nhưng nếu phải dịch từ ngữ "Schla" thí nó có nghĩa là trạm, trại, nhà lồng,
nhà mát. Vùng Tha La ngày xưa là rừng rậm hoang vu, đă được quan quân và
con dân chúa Nguyễn đến khai phá và định cư từ hơn 200 năm trước. Đất Tây
Ninh cũng có nhiều chỗ cùng mang tên Tha La. Tại nhiều tỉnh khác như Châu
Đốc, Trà Vinh, có đồng bào Khmer ở, cũng có nhiều địa danh Tha La nhưng nó
không nổi tiếng như Tha La Xóm Đạo của Trảng Bàng để rồi địa danh này được
đưa luôn vào văn học và âm nhạc Việt Nam.
Tha La theo dấu chân của Trảng Bàng khi th́ v́ Trảng Bàng thuộc tỉnh Tây
Ninh, nên có dạo thời Pháp thuộc nó bị sáp nhập vào Gia Định, rồi lại được
tách riêng theo Tây Ninh thời đệ nhất VNCH, rồi Trảng Bàng lại bị chia cắt
vào đất tỉnh mới là Hậu Nghĩa thời đệ nhị CH, rồi chính quyền CS lại sát
nhập Tha La và Trảng Bàng vào tỉnh Tây Ninh. Điều hiển nhiên mà nhiều
người Tây Ninh hay G̣ Dầu, Trảng Bàng cứ xem Tha La thuộc địa phận Tây
Ninh v́ sự gắn bó lịch sử từ nguyên thủy.
Đường về Tha La:
Đường đi đến Tha La không khó mà thật dễ đi. Ta cứ lấy Quốc Lộ 1 từ Sài
G̣n theo hướng tây bắc mà chạy thẳng về G̣ Dầu hay về Tây Ninh. Con đuờng
này đưa bạn về Trảng Bàng nơi có địa danh Tha La Xóm Đạo. Nên biết đoạn
đường Trảng Bàng và Sài G̣n cách nhau khoảng 30 miles hay 50 cây số mà
thôi. Từ Trảng Bàng mon men về hướng tây thêm 3.5 miles hay 6 cây sô th́
chúng ta vào đất Tha La, nơi có xóm đạo hiền ḥa, nơi có nhiều trái ngọt
cây lành.
Người Tha La hay người Trảng Bàng không thể nào không biết những món ăn
địa phương tại đây là món bánh canh gị heo hay bánh tráng cuốn thịt heo.
Mỗi khi tôi về G̣ Dầu mà xe đ̣ khi ngừng tại chợ Gia Huỳnh, nằm bên phải
quốc lộ khi dừng chân tại nơi đây cho hàng khách ăn trưa, ở tuổi vừa lớn
tôi đớp 2 tô bánh canh cho đỡ cơn đói và không quên lót dạ thêm một dĩa
thịt và gị heo luộc cuốn bánh tráng, mẹ tôi thường nói đùa là ăn hàng
kiểu đó chỉ có nước ế vợ mà thôi, nhưng những ngày khôn lớn khi biết làm
dáng ghé Trảng Bàng tôi ăn bánh canh trong ngại ngùng, v́ sợ lỡ có mấy cô
nữ sinh áo dài trắng của đất Tha La hay của quận Trảng Bàng thấy được sẽ
bảo tôi rằng "nam thực như hổ" th́ mất hết duyên con trai của tôi... và
tôi sẽ buồn t́nh lắm huhu...

Sau khi ăn no nê muốn theo dấu chân của mấy cô nữ sinh áo dài trắng vào
thẳng địa danh này. Th́ bạn hăy rẽ trái vô con đường đất đỏ dẫn vô xă An
Hoà, cứ đi thẳng miết sẽ gặp nhà thờ Tha La, và chắc chắn bạn sẽ không bị
lạc đâu, theo lời anh Hà Đ́nh Huy, bạn tôi dặn vậy. Tôi đă đến thăm gia
đ́nh anh Sơn một lần vào năm 1971 được uống nước mưa mà có 2 cô nữ sinh áo
dài trắng, em anh Sơn là Thu Nga, Thu Cúc đă lâu rồi, tôi quên lối vào Tha
La, nên khi viết bài phải dọ hỏi lại những người bạn đồng hương Tây Ninh,
Trảng Bàng, th́ cái nhớ lại hiện về trong tôi.
Tây Ninh Quê Tôi có nhiều vùng đất mang tên của thảo mộc, cây cối như
Trăng Bàng, Trăng Dài, Trảng Sụp, Trăng Lớn, G̣ Dầu Thượng, G̣ Dầu Hạ, G̣
Chai, Giồng Riềng, Giồng Ổi v.v. nói lên ư nghĩa của cây cối, của vị thế
đất, chỗ cao, chỗ thấp, chổ trũng. Tha La tuy nhỏ về diện tích, nhưng cũng
mang ít nhiều đặc tính đó.
Toàn không gian hay khunh cảnh là một bức tranh thật linh động, đẹp đẽ và
mát rượi tâm hồn, mát vô cùng tận của những vùng đất thiên nhiên ph́ nhiêu,
nào là đất g̣ nhô lên, đất đỏ, dất sét, đất trắng, đất ruộng hay đất vườn.
Tùy theo vị thế đất, cư dân ở đây trồng đủ các thứ rau quả, cây trái như
một nét tham lam của thiên nhiên. Bước vào đầu ngỏ ta thấy nhiều nhất là
tre, trúc và tầm vong. Với thân thon, cành dịu, lá mỏng dài nằm dọc hai
bên đường, ngọn giao chụm vào nhau thành một cái ṿm như cái hang mát rượi,
chạy dài cả cây số.
Đi trong bóng râm xanh um ấy, gió thổi hiu hiu làm lao xao kẻo kẹt cành
cây hay đánh rơi những chiếc lá vàng khô, tung tăng theo những giọt nắng
mang màu huyền ảo. Hỏi rằng bạn có thích không chứ? Dọc theo hai bên đường,
sau hàng rào tre là những ngôi nhà đủ loại không đồng bộ tùy theo t́nh
trạng kinh tế của gia chủ, như nhà của anh Sơn mà tôi quen, nhà anh có mái
lợp tranh, vách đất, trước nhà có cái lu nước đựng nước mưa, anh dùng gáo
dừa khô múc nước mời tôi uống mà có mấy con lăng quăng nhảy tango trong
màu nước trong trẽo, chúng tung tăng bơi lội, tôi rùng ḿnh lưỡng lự, anh
Sơn nói cá lia thia nhỏ xíu không sợ lăng quăng chẳng lẽ tôi có thân h́nh
bồ tượng như vậy mà e ngại vài con lăng quăng, loài vi sinh vật này đang
ve vẩy đuôi kia sao.
Bên cạnh là hai cô em Thu Nga và Thu Cúc cười khúc khích v́ cái sợ sệt
của tôi. Hai cô gái Tha La khiến tôi nhắm mắt làm luôn ngay 5 con lăng
quăng vô bụng. Láng giềng nhà anh th́ có nhà lợp mái tôn hoặc mái ngói,
trước mỗi nhà là cây cối xanh um, phần lớn là cây ăn trái và cho bóng mát.
Nhà anh Sơn phía trước trồng hai cây xoài, một cây xoài tượng và một xoài
thanh ca, nhiều vú sữa, cây ly-ô-ma, măng cụt, sa-pô-chê, nhà có con chó
mực, phía sau nhà có hàng dừa, bưởi, mận, tầm ruột, đu đủ và măng cầu xiêm
mà ba anh trồng kiểu sưu tầm. Sau nhà nuôi một bầy heo cho lợi tức. Đó là
một gia đ́nh tiêu biểu của miền quê mà tôi quen. Họ sống an phận, hiền
lành và tử tế.
Tha La Xóm Đạo:
Tha La là một địa danh đẹp về thắng cảnh thiên nhiên và đẹp v́ t́nh người
trong tiềm thức của tôi.. Thật vậy, tên Tha La chỉ cho ta ư nghĩa tượng
h́nh ra một họ đạo tại đất Tha La này. Chính v́ mật độ dân cư không nhiều
chỉ vào khoảng 3,000 người trước năm 1975, người ta không t́m thấy Tha La
trong bản đồ địa lư hay hành chánh. Đây là xóm đạo thuộc Xă An Hoà được tổ
chức khá ngăn nắp và qui củ, nhà cửa khang trang, quây quần chung quanh
ngôi thánh đường.
Trải qua bao thăng trầm của chiến tranh tàn phá, nhà thờ đă được trùng tu
lại. Cho tới năm1967 th́ việc sửa sang được hoàn tất. Chánh toà nằm giữa
với tường gạch bao quanh, với sân rộng lót đá, với trường học và nhiều cơ
sở phụ thuộc. Ngôi Chánh toà đồ sộ có phần nguy nga, hai mái ngói xoải dài
xuống thấp có sức chứa chừng 400 con người ngoan đạo trong các buổi hành
lễ.
Tượng Đức Mẹ trước mặt, và có một hang đá khổng lồ nằm bên hông, tháp
chuông không cao nhưng có kiến trúc lạ mắt như cái lồng chim. Toàn bộ khu
nhà thờ, nh́n chung, với lối kiến trúc đơn giản, không mang nặng nét cổ
điển của Tây phương, nhưng lại được bao bọc xung quanh bằng những tàn cây
cổ thụ cao to cho bóng mát, mang vẻ u hoài, thanh tịnh như một ngôi chuà
cổ của một miền quê.
Xă An Ḥa, thuộc quận Trăng Bàng, có 8 ấp, dân số 12,000, nh́n trên bản đồ
thấy h́nh dạng bầu dục, nằm dọc theo rạch Trăng Bàng mà đầu nhọn là ấp An
Thới vươn ra tận Vàm Trăng bên bờ sông Vàm Cỏ Đông. Đây là vùng đất ph́
nhiêu, trù phú do phù sa sông bồi nên có lẽ từ lâu lắm rồi..
Ngoài đồng ruộng, nương rẩy ra, khung cảnh c̣n thấy có những ḷ gạch nung
đất sét, rồi trại mộc trại cưa, hay những nhà máy xay lúa. Ngành thủ công
thịnh hành nhất là nghề đan lát các sản phẩm gia dụng bằng tre, trúc hay
nứa. Ấp An Phú được xem là giàu có là nơi có chợ chính của xă, quán xá
sung túc, nơi tọa lạc trụ sở xă và có trường trung học địa phương công lập.
Trong xă có 3 ngôi chùa, và ngôi chùa cổ hay lâu đời nhất là chùa tại ấp
An Phú. Phần lớn dân trong những xă này nói chung theo đạo Phật hay đạo
gia tiên thờ cúng ông bà. Nhưng nổi tiếng và gây ảnh hưởng nhiều nhất vẫn
là xóm đạo Tha La mà chúng ta đang bàn. Xóm đạo nằm trong địa phận hai ấp
An Hội 1 và An Hội 2. Hơn ba ngàn giáo dân ở đây là người cố cựu đă định
cư lâu đời, chỉ có 4 gia đ́nh người thuộc gốc Bắc di cư 54.
Như một tập tục từ lâu, ngày lễ Giáng Sinh cũng như các ngày lễ Thánh lớn,
đều là ngày hội chung của đồng bào trong xă. Vào đêm Giáng sinh th́ cả mấy
ngàn người kéo nhau đi dạo mừng lễ đông đảo, nườm nượp ngoài đường. Thật
đông người khiến xe cộ đi qua không lọt, và chỉ toàn người đi bộ hành. Do
vậy nhiều khi không phải chỉ dân trong xă không mà thôi, nhưng lại có có
nhiều người ngoại đạo từ chợ Trăng Bàng, chợ G̣ Dầu và các xă chung quanh
về đây xem lễ. Quả là ngày lễ hội vui chung của dân toàn vùng Hiếu Thiện
(hay G̣ Dầu) - Trăng Bàng kéo nhau tập trung về đây.
Diễn tŕnh xây dựng Tha La Xóm Đạo:
Theo sách Tây Ninh Xưa và Nay của tác giả Huỳnh Minh, xuất bản năm 1972 và
tái ấn bản tại Úc năm 1992 th́ vào cuối thời Minh Mạng, khoảng 1840, có
một nhóm giáo dân độ vài chục gia đ́nh được cha Cosimo Trí d́u dắt, chạy
nạn tới khu rừng Tha La, khai quang lập ấp xây dựng cuộc sống, đồng thời
cố gắng bảo tồn gốc đạo và niềm tin. Để tránh sự theo dơi và phát giác của
viên chức triều Nguyễn đang ở thời kỳ e ngại đạo ngoại lai khiến bị theo
dơi, những buổi lễ thường phải lưu động. Một tàn cây cổ thụ, một mái lá
đơn sơ, hoặc túp liều tranh ủ dột cũng mang đủ ư nghĩa và mang tính chất
của cái nhà thờ. Nhiều lúc phải làm lễ ban đêm.
Khắp vùng xă An Hoà xưa hầu như đều có dấu chân của con Chúa. Cha chủ
chiên Cosimo Trí đă thấp một ngọn nến giữa rừng âm u, vừa khai hoang lập
ấp vừa ẩn náu, vừa mưu sinh, vừa khai sáng nguồn suối tâm linh tươi mát
cho các con chiên, để nó trôi chảy cho đến ngày hôm nay. Nếu triều đ́nh có
lệ phong thần cho những vị có công khai làng mở mang bờ cơi th́ chính cha
Trí cũng là vị rất xứng đáng được phong Thánh Hoàng bổn cảnh của dân chúng
An Hoà.
Sau năm 1863, khi Pháp chiếm 3 tỉnh miền Nam Nam kỳ th́ hoàn cảnh thuận
tiện hơn. Việc truyền đạo Chúa được nhà cầm quyền Pháp khuyến khích và
giúp đỡ. Giáo dân gom tụ lại Tha La đông hơn và họ đạo Tha La được chính
thức thành lập, trực thuộc Toà Thánh La Mă. Nhà thờ có nơi cố định, đầu
tiên được xây cất, với vật liệu đơn sơ. Từ điểm nầy, các vị cha tiếp nối
đi đến các địa phương khác để truyền đạo và lập thêm xứ đạo mới. Ngày nay
ở Tây Ninh, đạo Công Giáo vẫn phát triển song hành với các tôn giáo khác.
Đi đâu cũng thấy nhà thờ, ngay cả vùng thánh địa Cao Đài cũng có.
V́ nhờ sự cho phép của người Pháp họ đạo Tha La phát triển ngày càng mạnh
mẽ và vững vàng. Vào đầu thế kỷ 20 nhà thờ được xây cất qui mô hơn. Tuy
vậy người Công Giáo Tha La không quay lưng lại với dân tộc. Chúng ta không
đủ tài liệu để biết Tha La có tham gia phong trào Cần Vương và Văn Thân
chống Pháp hay không, nhưng chắc chắn vào mùa Thu năm 1945, thanh niên Tha
La, nhất là thành phần trí thức đă tích cực tham gia phong trào kháng
chiến ở đất Nam Kỳ. Và chính thời điểm nầy, nhà thơ Vũ Anh Khanh cũng gia
nhập đi theo phong trào kháng chiến, ông đă làm bài thơ để đời, trong đó
có những câu cho thấy rằng người Tha La đă đặt t́nh yêu quê hương tổ quốc
lên trên hết:
"Trời xa xanh, mây trắng nghẹn ngàn hàng
Ngày hiu quạnh. ờ...Ơ...Hơ... Tiếng hát,
Buồn như gió lượn, lạnh dài đôi khúc nhạc.
Tiếng hát rằng:
Tha La hận quốc thù,
Tha La buồn tiếng kiếm.
Năo nùng chưa! Tha La nguyện hy sinh..."
Pháp là ân nhân của nền đạo, nhưng lại là kẻ thù của dân tộc. Dù phải chọn
lựa khó khăn, thanh niên Tha La đă dứt khoát ra đi kháng chiến, bỏ lại
ngôi nhà thờ hoang vắng. Tha La đă trở thành một trong những địa bàn của
Đoàn Thanh Niên Tiền Phong. Đặc biệt, không phải chỉ có dân thường mà cả
những vị tu sĩ cũng tạm xếp áo ḍng để vô bưng, ví dụ trường hợp của linh
mục Nguyễn Bá Kính ra đi năm 1946.
Sau năm 1954, Tha La hồi sinh, được tái thiết, mỡ mang nhanh chóng. Nhưng
chỉ được ít năm sau th́ trận giặc khác nổi lên. Đó là cuộc nội chiến nam
bắc phân tranh và chiến tranh đă ảnh hưởng đến sinh hoạt êm đềm của Tha
La. Đoạn trích thơ "Tha La" của Vũ Anh Khanh nghe sao năo nề trong tâm hồn
tôi:
"- Thôi hết rồi! C̣n chi nữa Tha La!
Bao người đi thề chẳng trở lại nhà
Nay đă chết giữa chiến trường ly loạn!
Tiếng địch càng cao, năo nùng ai oán
Buồn trưa trưa, lây lất buồn trưa trưa
Buồn xưa xưa, ngây ngất buồn xưa xưa
Ḷng viễn khách bỗng dưng tê tái lạnh
Khách rùng ḿnh, ngẩn ngơ người hiu quạnh..."
Hay như ư thơ của Lâm Thanh, nghe trong bài "Tha La ngày trở lại" cho thấy
hậu quả của chiến tranh tràn vào sinh hoạt Tha La, nghe trong buồn tênh:
"Ngày quê hương súng nổ
Ta vật vă yêu thương,
Rẽ đôi đường sông núi
Nước vận trở về nguồn.
Ngày quê hương nhuộm đỏ
Anh tức tưởi ra đi,
Em ở cùng giặc dữ,
Nghe tim vỡ biệt ly.
Anh chim trời gẩy cánh
Hằn bao vết thương ḷng
Vẫn miệt mài viễn xứ
Mộ phần biết có không!..."
Cũng như bao địa phương khác trên đất nước Việt Nam thân yêu khi giặc tràn
vào thôn xóm, Tha La đă đứng lên tự vệ cho chính ḿnh một cách oai hùng,
Tha La của sự kiên cường, của niềm tự hào bất khuất. Lần nầy th́ người dân
đất Tha La rời bỏ hàng ngũ những người bạn kháng chiến cũ để trở về với
người quốc gia, với lập trường dân tộc. Họ yêu Chúa, yêu nước, yêu bờ
ruộng nương, yêu con sông rạch, yêu xóm làng, một cách cụ thể hơn là họ
không yêu chủ thuyết vô gia đ́nh, vô tín ngưỡng của Xă Hội Chủ Nghỉa. Tha
La giữ vững niềm tin, giữ vững lập trường với quê hương dân tộc theo ḍng
lịch sử đă qua. Sau đây chúng ta hăy xét Tha La qua lănh vực thi ca và âm
nhạc hay một truyền thống lâu đời của đất Tây Ninh.
Tha La qua thi ca:
Như đă trích đoạn thơ ở phần trên, bài thơ "Tha La" của tác giả Vũ Anh
Khanh, dài 93 câu, được in trong phần mở đầu của cuốn truyện dài có tên "
Nửa Bồ Xương Khô", dày hơn 500 trang cũng của chính ông, ghi lại một số
h́nh ảnh hào hùng khi tác giả đi kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 -
1954). Sách xuất bản khoảng đầu thập niên 50. Bài thơ nầy đă được anh Lê
Tấn Tài sưu tầm và đăng trong Tây Ninh Mến Yên, đặc san năm Mậu Dần 1998,
trang 41.
Rồi anh Duy Văn Hà Đ́nh Huy chủ trương tờ Đời Mói tại bắc Cali, cũng là
người Tây Ninh rành rẽ về Tha La đă email cho tôi. Người bạn khác là nhà
văn Trần Anh Dũng ở Minneapolis, là người đồng hương G̣ Dầu Hạ đă in dấu
chân tại đất Trảng Bàng và Tha La lắm lần cũng cho tôi bài thơ này. Sáng
nay nhà văn Hoàng Ngọc Liên cũng gởi tôi bài tùy bút về Tha La của nhà thơ
Nhược Trần Ngọc Huệ tại Raleigh, North Carolina bàn về bài thơ bất hủ này.
Có lẽ nói không ngoa trong văn học khi nói về đất Tha La, ta không thể bỏ
quên bài thơ lịch sử của người Tha La Vũ Anh Khanh. Hồn thơ của anh ấp ủ
những t́nh tự về Tha La, những nỗi ḷng của Tha La và những ḍng văn
chương do chính người Tha La ghi tạc vào bia đá vă n học Việt Nam. Nào, ta
hăy lắng nghe tâm t́nh của Vũ Anh Khanh:
"- Đây Tha La xóm đạo,
Có trái ngọt, cây lành.
Tôi về thăm một dạo,
Giữa mùa nắng vàng hanh,
Ngậm ngùi, Tha La bảo:
- Đây rừng xanh, rừng xanh,
Bụi đùn quanh ngơ vắng,
Khói đùn quanh nóc tranh,
Gió đùn quanh mây trắng,
Và lửa loạn xây thành.
Viễn khách ơi! Hăy dừng chân cho hỏi
Nắng hạ vàng ngàn hoa gạo rưng rưng
Đây Tha La, một xóm đạo ven rừng.
Có trái ngọt, cây lành im bóng lá,
Con đường đỏ bụi phủ mờ gót lạ
Ngày êm êm ḷng viễn khách bơ vơ!
Về chi đây! Khách hỡi! Có ai chờ?
Ai đưa đón?
- Xin thưa, tôi lạc bước!
Không là duyên, không là bèo kiếp trước,
Không có ai chờ, đưa đón tôi đâu!
Rồi quạnh hiu, khách lặng lẽ cúi đầu,
T́m hoa rụng lạc loài trên vệ cỏ.
Ngh́n cánh hoa bay ngẩn ngơ trong gió
Gạo rưng rưng, ngh́n hoa máu rưng rưng.
Nh́n hoa rơi, ḷng khách bỗng bâng khuâng
Tha La hỏi: - Khách buồn nơi đây vắng?
- Không, tôi buồn v́ mây trời đây trắng!
- Và khách buồn v́ tiếng gió đang hờn?
Khách nhẹ cười, nghe gió nổi từng cơn.
Gió vun vút, gió rợn rùng, gió rít,
Bỗng đâu đây vẳng véo von tiếng địch:
- Thôi hết rồi! C̣n chi nữa Tha La!
Bao người đi thề chẳng trở lại nhà
Nay đă chết giữa chiến trường ly loạn!
Tiếng địch càng cao, năo nùng ai oán
Buồn trưa trưa, lây lất buồn trưa trưa
Buồn xưa xưa, ngây ngất buồn xưa xưa
Ḷng viễn khách bỗng dưng tê tái lạnh
Khách rùng ḿnh, ngẩn ngơ người hiu quạnh
- Thôi hết rồi! C̣n chi nữa Tha La!
Đây mênh mông xóm đạo với rừng già
Nắng lổ đổ rụng trên đầu viễn khách.
Khách bước nhẹ theo con đường đỏ quạch.
Gặp cụ già đang ngắm gió bâng khuâng
Đang đón mây xa... Khách bỗng ngại ngần:
- Kính thưa cụ, v́ sao Tha La vắng?
Cụ ngạo nghễ cười rung rung râu trắng,
Nhẹ bảo chàng: "Em chẳng biết ǵ ư?
Bao năm qua khói loạn phủ mịt mù!
Người nước Việt ra đi v́ nước Việt
Tha La vắng v́ Tha La đă biết,
Thương giống ṇi, đau đất nước lầm than".
Trời xa xanh, mây trắng nghẹn ngàn hàng
Ngày hiu quạnh. ờ...Ơ...Hơ... Tiếng hát,
Buồn như gió lượn, lạnh dài đôi khúc nhạc.
Tiếng hát rằng: Tha La hận quốc thù,
Tha La buồn tiếng kiếm.
Năo nùng chưa! Tha La nguyện hy sinh
ờ... Ơ... Hơ... Có một đám Chiên lành
Quỳ cạnh Chúa một chiều xưa lửa dậy
Quỳ cạnh Chúa, đám Chiên lành run rẩy:
- Lạy đức Thánh Cha! Lạy đức Thánh Mẹ!
Lạy đức Thánh Thần
Chúng con xin về cơi tục để làm dân...
Rồi... cởi trả áo tu, rồi... xếp kinh cầu nguyện
Rồi... nhẹ bước trở về trần...
Viễn khách ơi! Viễn khách ơi!
Người hăy ngừng chân,
Nghe Tha La kể, nhưng mà thôi khách nhé!
Đất đă chuyển rung ḷng bao thế hệ
Trời Tha La vần vũ đám mây tang,
Vui ǵ đâu mà tâm sự? Buồn làm chi cho bẽ bàng!
ờ... Ơ... Hơ...ờ... ơ Hơ... Tiếng hát;
Rung lành lạnh, ngân trầm đôi khúc nhạc,
Buồn tênh tênh, năo ḷng lắm khách ơi!
Tha La thương người viễn khách quá đi thôi!
Khách ngoảnh mặt nghẹn ngào trông nắng đổ
Nghe gió thổi như trùng dương sóng vỗ.
Lá rừng cao vàng rụng lá rừng bay...
Giờ khách đi. Tha La nhắn câu này:
- Khi hết giặc, khách hăy về thăm nhé!
Hăy về thăm xóm đao. Có trái ngọt cây lành
Tha La dâng ngàn hoa gao. Và suối mát rừng xanh
Xem đám Chiên hiền thương áo trắng
Nghe trời đổi gió nhớ quanh quanh..."
Nếu bài thơ trên của Vũ Anh Khanh cho tôi một t́nh cảm xúc động t́nh hoài
hương của đất Tây Ninh nói chung, th́ một bài thơ khác về Tha La do anh
Lâm Thanh sáng tác
khi anh trở lại thăm Tha La cũng làm tôi xao xuyến nỗi ḷng với Tha La
không kém, hăy nghe tâm sự của Lâm Thanh trong bài "Tha La ngày trở lại"
như sau:
"Đây Tha La xóm đạo
Có trái ngọt cây lành
Tôi về thăm một dạo
T́m lại bóng trời xanh
Hăm lăm năm không gặp,
Từ thuở em chưa chồng,
Anh xứ người mê măi
T́nh xa hơn biển Đông.
Năm xưa ḿnh ngây dại
Hẹn nhau bóng giáo đường.
Thiên đàng vừa mở cửa
Tim đỗ những hồi chuông.
Anh tay dài cánh hạc
Run run vuốt vai tṛn
Em thẩn thờ... khẻ nói:
"Tay anh! cánh thiên thần"
Em tóc mềm lụa rũ
Phủ dịu nắng chiều hanh,
Mắt rưng buồn khép lững
Nhốt trọn bóng trời xanh.
Anh khờ hơn đà điểu
Chúi đầu trong tóc em
Mong trốn đời dông băo,
Nhưng đời vẫn tối đen.
Ngày quê hương súng nổ
Ta vật vă yêu thương,
Rẽ đôi đườụng sông núi
Nước vận trở về nguồn.
Ngày quê hương nhuộm đỏ
Anh tức tưởi ra đi,
Em ở cùng giặc dữ,
Nghe tim vỡ biệt ly.
Anh chim trời gẩy cánh
Hằn bao vết thương ḷng
Vẫn miệt mài viễn xứ
Mộ phần biết có không!
Hăm lăm năm trở lại
Em đă hai đời chồng
Tóc dài pha mây xám
Vai ṃn gánh đau thương
Bên em bầy trẻ đói
Đứa gọi mẹ, gọi bà.
Anh sửng sờ, khách lạ!
Trẻ dáo dác ngờ... cha!
Tha La ngày trở lại,
Cở tươi... xanh giáo đường
Mộ t́nh chưa lấp kín
Đáy ḷng vẵng tiếng chuông
Chia tay hồn tê tái
Em ấp úng... nỗi niềm:
"Tay thiên thần anh nhé
Nhớ về vuốt mắt em!"
Quay đi, t́nh câm lặng,
Nghe lệ nhỏ sau lưng,
Giáo đường, sân nhạt nắng,
Lặng lẽ bóng chuông nghiêng!!!"
(Tặng Điền thị Gia B́nh, Lâm Thanh)
Tha La qua âm nhạc:
Tôi c̣n nhớ những năm đầu thập niên 60 khi nghe những bài t́nh ca thật là
tuyệt tác đối với tâm hồn và ư thích âm nhạc của tôi như các bài: Những
Đồi Hoa Sim, Màu Tím Hoa Sim, Đồi Thông Hai Mộ, Hàn Mặc Tử,... và hai bản
nhạc về đất Tha La của Tây Ninh Quê Tôi là Tha La Xóm Đạo và Hận Tha La,
nói lên nỗi buồn khi Tha La nhuốm màu chiến tranh có nỗi biệt ly hay sự
quyết tâm bảo vệ xóm làng của người Tha La. Chính v́ sự ra đời hai bài hát
này, mà một của nhạc sĩ Dzũng Chinh và bài kia của thi nhạc sĩ Sơn Thảo,
đă khiến cho quần chúng biết đến Tha La và nhiều người biết tới Tha La với
một ấn tượng đẹp đẽ trong ḷng kể từ ngày bài thơ của Vũ Anh Khanh được
xuất bản vào thập niên 50, để sau này nhạc sĩ Dzũng Chinh đưa vào khung
nhạc và làm nỗi hứng khởi cho Sơn Thảo hay Lâm Thanh.
Tha La Xóm Đạo
Nhạc: Dzũng Chinh
Lời/thơ: Vũ Anh Khanh
"Đây suối rừng xanh đồn quanh
Đây mây trắng ngh́n hoa với cây lành
C̣n ǵ viễn khách về đây chi hỡi người
Đất Việt giặc tràn lan. Biết Tha La hận căm
Nhẹ bước gặp cụ già, ngạo nghễ đang ngóng gió
Em chẳng biết ǵ ư. Cười run run dấu trắng
Đă từ bao năm qua khói loạn khu mịt mù
Khách về chi đây, nghe tiếng hát khách hận do đây buồn
Tiếng hờn ai oán, cời ra áo một chiều thu lửa dậy
Nghe năo nùng chưa,
Tha La buồn tiên kiếp, Tha La giận mùa thu
Ôi khi hết giặc xong
Hăy về thăm Tha La có trái ngọt cây lành
Cây lá ngẩn ngơ nằm trên ngh́n hoa máu làm hoen cả ven rừng
Ḷng người viễn khách bỗng dưng tê tái lạnh với rừng già mong manh
Đám mây tan phủ quanh, trời tối về bàng hoàng
Lạnh dài đôi khúc hát
Vang giữa chiến trường xa, giặc đang gieo tan tóc
Từng đoàn trai ra đi đă thề chẳng về nhà"
Hận Tha La
Nhạc/Lời: Sơn Thảo
"Đây Tha La, đây xóm đạo tiêu điều
Cây buồn quanh hận thù dâng ai oán
Đây mênh mông, Tha La buồn quạnh quẽ
Ḱa rừng cây trái ngọt khách một dạo về thăm xóm
Hồn ngây ngất và buồn xưa lây lất
Nh́n hoa máu rưng sầu.
Đây Tha La, đây xóm đạo hoang tàn
Mây trời vây quanh màu tang khói lửa
Bao năm qua, Tha La c̣n chờ đó
Đoàn người đi giết thù đă hẹn về từ dạo ấy
Ḷng viễn khách, bồi hồi như thương tiếc
Mùa thu nắng hanh vàng.
Tha La ơi, xóm đạo ơi
C̣n đâu nữa chiếc áo ngày xưa
Đành khép kín, khoác vào bộ chiến y
Ḷng hờn căm, một chiều xưa lửa dậy
Nghe năo nùng chưa, Tha La sầu khuất biếc
Xóm đạo chắc hận thù.
Đây Tha La, đây xóm đạo yên lành
Nay c̣n Đây một rừng xanh suối mát
Tha La ơi, khi nao giặc tan hết
Ngày vui xưa trở lại, khách sẽ hẹn về thăm xóm
Hồn lây lất, và buồn xưa chất ngất
Hận kia đến bao giờ."
Phần lớn những khúc nhạc nhập tâm đại đa số quần chúng là nhạc về quê
hương, lời đơn giản và ư mộc mạc dể hiểu. Hai nhạc sĩ Dzũng Chinh và Sơn
Thảo sáng tác nhạc theo cung cách này với tiết tấu Bolero nhịp nhàng. Nên
cả miền Nam tự do ngày xưa đă tán thưởng hai khúc ca này nhiệt t́nh. Tha
La là một phần đất của quận Trảng Bàng như đă bàn, mà Trảng Bàng lại là
một phần đất của Tây Ninh. Do đó người Tây Ninh phải có một niềm hănh diện
đặc biệt, với những ai đă từng ghé qua Tha La để hiểu t́nh người Tha La
vốn chân chất và hiếu khách. Phải chăng đó là nét đẹp của dân tộc Việt
Nam?
Hơn nữa,
khi nghe thơ hay nhạc về Tha La mà người ta không khỏi dâng lên nỗi cảm
thông và những niềm bâng khuâng trong ḷng v́ có thể họ tự hỏi: Tha La là
huyền thoại hay thực tế? Nếu có thực th́ nó tọa lạc tại đâu, nó có từ hồi
nào, bây giờ ra sao? Chính v́ những ẩn ư như vậy mà Việt Hải xin tham khảo
bài viết của thi sĩ Lâm Thanh có được bài viết này trong loạt bài vè Tây
Ninh Quê Tôi, có trái ngọt cây lành, có Tha La Xóm Đạo, có kỷ niệm Tha La
khi ghé Trảng Bàng ăn món bánh canh nhớ hoài v́ nam thực như hổ, có những
cô nữ sinh Tha La cười khúc khích với ánh mắt duyên dáng, của nét vừa ngây
thơ, vừa bẽn lẽn khi ngắm nh́n tôi uống nước mưa có lăng quăng tung tăng
trong nước của ngày xưa; Ôi, kỷ niệm quê hương sao lắm ngọt ngào, lắm nhớ
nhung hôm nay khung trời Tha La bỗng trở về từ kư ức cũ, mà tưởng rằng đă
quên.

Việt
Hải
Los Angeles

