
Tôi
ra đời ở làng Điền Hộ, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Khi lên 10 tuổi, tôi
phải xa gia đ́nh để đi học ở một trường ḍng tu Công Giáo tên là Tiểu
Chủng Viện Ba Làng. Trong các môn học th́ như duyên tiền định, tôi yêu mến,
thích thú môn âm nhạc. Khi tôi nghe tiếng nhạc hay tiếng đàn, tim tôi mê
mẫn dạt dào. Điều linh tính đó đưa tôi đến gần âm nhạc hơn khi tôi khôn
lớn.
Nhạc là
một phạm vi bao la, bát ngát trong nếp nhân sinh. Trong bài viết này tôi
chỉ muốn nói về âm nhạc dân gian, mà trong đó nhạc dân gian Bắc phần có ca
trù, hay hát ả đào, và Quan họ Bắc Ninh. Tôi c̣n nhớ những năm khi quê
hương miền Bắc loạn lạc, toàn dân chống thực dân Pháp, tôi tản cư về thành
lánh bom đạn. Tôi có quen hai chị em thiếu nữ người Bắc Ninh, hai cô có
làn hơi phong phú, hát ả đào, ngân giọng ca trù rất hay. Tôi đă gần gủi
với nhạc dân gian, và từ đó t́m hiểu thêm về một góc đẹp văn hóa quê hương.

Huyện Nga
Sơn, cảnh đẹp ven biển.
Việt Nam
là một quốc gia đa sắc tộc với một nền văn minh lâu đời, có một nền âm
nhạc dân gian đa dạng như Việt Nam phải nói là thật phong phú. Những tiết
tấu, âm điệu đặc trưng của dân ca phần lớn phát nguồn từ những câu đồng
dao dù b́nh dị đơn giản, hay những câu ca dao thâm thúy khúc chiết và loại
thơ vần như lục bát, thơ được gạn lọc, bổ sung qua nhiều giai đoạn thời
gian rồi trở nên những thể loại ca hát dân gian khác nhau của từng địa
phương, từng vùng đất nước, từng miền phương ngữ. Ví dụ như hát vi giao
duyên của miền trung du bắc phần. Hát Chầu văn là h́nh thức hát nhạc thờ
cúng, có tính chất tôn giáo linh thiêng, các thầy cúng chuyên nghiệp đánh
đàn nguyệt, có giọng hát điêu luyện phụ họa thuộc nhiều điệu hát, và pha
vào đấy là tiếng trống vỗ. Độc đáo phải kể về lối hát Quan họ Bắc Ninh,
một lối hát rất phong phú về âm nhạc. Rồi lối hát Ả đào, một h́nh thức rất
đặc biệt của nhạc dân gian Bắc phần. Về thành phần cho lối hát Ả đào gồm
có một người hát hay đào nương, hai tay gơ phách, một nhạc công đàn đáy,
một trống chầu dùng để người nghe hay quan viên thưởng ngoạn những âm giai,
những giọng hát hay.
Mới đây
anh bạn Việt Hải ngỏ ư là tôi hăy phổ nhạc một bài dân ca Quan họ, tôi bảo
tôi chỉ phổ theo lối dân ca quê hương mà thôi. V́ dân ca Quan họ cần những
quy tắc về điệu hát và nhạc cụ chuyên môn, nó không phải phạm trù chuyên
môn của tôi. Bài hát Quan họ Việt Hải bàn luận là bài hát nổi tiếng mà
nhiều người biết đến là Người Ở Đừng Về, đây là tên một bài hát dân ca
Quan họ Bắc Ninh do Xuân Tứ căi biên từ bài Quan họ cổ điển Chuông Vàng
Gác Cửa Tam Quan và bài hát được viết xuất xứ từ một bài thơ dân gian. Bài
hát thường được cất lên vào lúc hội tàn, nhất là khi từ giă nhau. Trong ư
thơ chan chứa lời ḥ hẹn, nhằn nhủ khi ta nghe câu ca “Người ơi! Người ở
đừng về”.
Người ơi
người ở đừng về
Người về
em vẫn khóc thầm
Đôi bên
vạt áo ướt đầm như mưa
Người ơi
người ở đừng về
Người về
em vẫn trông theo,
Trông
nước nước chảy, trông bèo bèo trôi
Người ơi
người ở đừng về
Người về
em nhắn tái hồi
Yêu em
xin chớ đứng ngồi với ai
Việt Nam
là quốc gia mà nền kinh tế và xă hội được phát triển từ nông thôn, do đó
nếp dân sinh ở các xóm làng miền quê, t́nh yêu trai gái được ghi nhận qua
nhiều trong vần thơ hay các câu đồng dao. Sự lăng mạn của trai gái bị nếp
lễ giáo nho phong ràng buộc, hăy nghe tiếp đoạn cuối:
Ḿnh về, ta chẳng cho về,
Ta nắm vạt áo ta đề câu thơ
Câu thơ ba chữ rành rành:
Chữ Trung, chữ Hiếu, chữ T́nh là ba.
Chữ Trung
th́ để phần cha,
Chữ Hiếu
phần mẹ, đôi ta chữ T́nh.
Những bài
dân ca Quan họ khác thịnh hành là: Ngồi tựa song đào, Tương phùng tương
ngộ, Bèo dạt mây trôi, Ngồi tựa mạn thuyền, Đêm qua nhớ bạn,...
Sau đây
xin đính kèm bản nhạc mà bài Người Ở Đừng Về mà tôi phổ thành nhạc như sau,
dẫn ư lời tŕch từ bài thơ nêu trên.
Ḿnh Ơi
Em Chẳng Cho Về
Người ơi
người ở đừng về
Người về
em vẫn tỉ tê (mà) khóc thầm
Người về
em đứng em nằm
Đôi bên
vạt áo ướt đầm (mà) như mưa
Người ơi
người ở đừng về
Người về
em vẫn kè kè (mà) trông theo
Người ơi
em vẫn trông theo
Trong
nước nước chảy trông bèo (mà) bèo trôi
Ḿnh ơi!
Ḿnh ơi
đừng ở đừng có về nghe
Ḿnh về
em nhắc lời thề (mà) nhớ thương
Nhớ
thương nhớ thương em vẫn nhớ thương
Yêu em
xin chớ chung giường (mà) với ai
Ḿnh ơi
em chẳng cho về
Em níu
vạt áo em đề (mà) bài thơ
Chữ Trung
xin để phần cha
Chữ Hiếu
phần mẹ, đôi ta (là) chữ T́nh
T́nh t́nh
t́nh ơi hỡi t́nh ơi
T́nh t́nh
t́nh ơi hỡi là t́nh
T́nh t́nh
t́nh ơi hỡi t́nh ơi
T́nh t́nh
t́nh ơi hỡi là t́nh
(Anh Bằng).

Nhạc sĩ Lê Dinh và nhạc sĩ Anh Bằng
Như lời
giao kết viết chung với nhạc sĩ Anh Bằng, tôi (Hoàng Nam) sẽ nối tiếp bài
viết này.
Qua phần
tŕnh bày trên của nhạc sĩ Anh Bằng đi sơ qua một số bài thơ mà lời dùng
cho các bài hát dân ca Quan họ thịnh hành mà quần chúng quen biết, ông
cũng rất vui khi bàn bạc với nhạc sĩ Lê Dinh và tôi về chủ đề này, ông rất
thích bài thơ lăng mạn "Người ở đừng về". Tôi vốn biết ông có tài phổ nhạc
từ thơ rất nhanh, một khi nguồn cảm hứng đến ông ghi nhận ư nhạc trong
nhấp nhấy. Ông cho biết khi làm bài hát Chuyện Hoa Sim, khi viết xong được
mấy câu bỗng ông lăn đùng ra ngủ, sáng sớm hôm sau thức dậy ông hư hoáy
vội tiếp ra giấy khi ư nhạc tuôn ra như suối. Tôi đồng ư khi nguồn cảm tác
đến hay có hứng khởi sẽ rất quan trọng cho giới văn nghệ sĩ trong lănh vực
chuyên môn của họ.
Với bài
Người Ở Đừng Về khi chúng tôi bàn bạc về nhạc dân ca, và dùng nó như một
mẫu mực khi nh́n vào kho tàng nhạc Quan họ, nó mang nét t́nh yêu trai gái
trao ước lời lăng mạn, dễ thương trong nỗi dịu dàng nào đó. Bài Ḿnh Ơi Em
Chẳng Cho Về của Anh Bằng theo ḍng suối chảy mượt mà trong ư thơ và duyên
dáng theo tiếng nhạc quê hương. Đây là mộ kỷ niệm vui giữa hai nhạc sĩ Anh
Bằng và Lê Dinh, và tôi được may mắn đóng góp nét tổng quát về nét thơ dân
ca qua bài viết này.
Được biết
trước năm 75, khi nhạc sĩ Anh Bằng phục vụ tại hai Đài Phát Thanh Sài G̣n
hoặc Đài Phái Thanh Quân Đội, ông nhận lănh viết gấp, mà trong từ ngữ
chúng tôi dùng là viết marathon với thời gian, những ca khúc đáp ứng cho
nhu cầu của những chiến dịch đặc biệt, như Phượng Hoàng, ông ngồi trong xe
và nắn nót vỗ về ư nghĩ trong ba mươi phút phù du có xong bài hát cho nhu
cầu thời chiến, nhạc phải hay để ca sĩ vui mà hát. Đó là cái tài năng của
nhạc sĩ Anh Bằng.
Nhạc phổ
từ thơ là một phạm vi Anh Bằng có sở trường từ thiên khiếu. Bài Ḿnh Ơi Em
Chẳng Cho Về dùng lời lục bát, ông khéo léo đưa vào âm điệu đặc thù của
quê hương Việt Nam, chắc hẵn trong trái tim của ông theo ư tôi, xuất từ
vùng Thanh Hóa, cái nôi của văn hóa thi ca âm nhạc, và quê hương của ông
đă tạo ra người nhạc sĩ thủy chung với ḍng nhạc đậm đà với thi vị quê
hương đất nước, trong cái chất t́nh tự bàng bạc với dân tộc không kém.
Đó là
phần Anh Bằng trích thơ dân gian dể phổ nhạc. Bây giờ tôi xin tiếp tục đề
tài Quan họ mà Anh Bằng đă đề xướng trong phần ông viết.
Theo Bách
khoa Tự điển Wikipedia thí nguồn gốc "Quan họ" được diễn nghĩa đen về mặt
từ nguyên ngữ của "quan" và của "họ". Điều này dẫn đến những ư kiến giải
thích về Quan họ xuất phát từ "âm nhạc cung đ́nh" (nhạc của tầng lớp quan
lại trong triều đ́nh), hay gắn liền với sự tích một ông quan khi đi qua
vùng Kinh Bắc đă ngây ngất bởi tiếng hát của liền anh liền chị ở đó và đă
dừng bước để thưởng thức "họ" vui ca. Tuy nhiên, cách giải thích này đă vô
t́nh bỏ qua những yếu tố của không gian sinh hoạt văn hóa Quan họ như h́nh
thức sinh hoạt xă hội, những nghi thức các phường kết họ khiến anh hai,
chị hai để rồi suốt đời chỉ là bạn, không thể kết duyên vợ chồng, cách
diễn xướng, hay lối sử dụng từ ngữ đối đáp với nhau về ư nghĩa và thanh
điệu trong sinh hoạt văn hóa đối đáp dân gian.
Lại có
một số quan điểm cho rằng Quan họ bắt nguồn từ những nghi lễ tôn giáo dân
gian, chứ không phải Quan họ có nguồn gốc từ âm nhạc cung đ́nh, hoặc có
quan điểm nhận định diễn tiến của h́nh thức sinh hoạt văn hóa "chơi Quan
họ" bắt nguồn từ nghi lễ tôn giáo dân gian qua cung đ́nh rồi trở lại với
dân gian.
Một nhận
định khác dựa trên phân tích theo nghĩa từ ngữ, trong các làn điệu và
không gian diễn xướng lại cho rằng Quan họ là "sự liên quan" đến một nhóm
những người yêu quan họ ở vùng Kinh Bắc.

Hát Quan họ
Xét về
yếu tố nhân văn, "hát Quan họ" là một lănh vực văn hóa truyền thống có giá
trị cao quư của người Việt. Quan họ truyền thống đă phát triển và được lưu
truyền tại ở 49 làng Quan họ gốc ở xứ Kinh Bắc. Vùng b́nh nguyên rộng lớn
của hai tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang, mà gồm nhiều làng quan họ quy tụ trên
phạm vi đất Bắc Ninh, và chỉ có vài làng nằm trên đất Bắc Giang. Do đó,
người ta vẫn thường ví đó là vùng Kinh Bắc, hoặc giả cho là Bắc Ninh là
quê hương của các làng Quan họ truyền thống, là chiếc nôi sinh ra và nuôi
dưỡng các làng Quan họ. Người dân Kinh Bắc hănh diện về nguồn gốc văn hóa
Quan họ truyền thống, như là h́nh thức tổ chức sinh hoạt văn hóa âm nhạc
dân gian tiêu biểu của Bắc phần nói chung, với những quy luật nghiêm khắt
khi đ̣i hỏi liền anh liền chị phải am tường tiêu chuẩn, tuân theo luật lệ
âm nhạc Quan họ. V́ vậy cho nên người dân Kinh Bắc thích thú khi thưởng
lăm thú vui về luật Quan họ.
Trong
luật Quan họ gồm lối người tŕnh diễn nam hay nữ mặc trang phục Quan họ
đúng cách như nét đẹp của văn hóa Kinh Bắc. Trang phục Quan họ c̣n gọi là
trang phục liền anh liền chị. Trang phục nam dành cho các liền anh Quan họ
thường mặc áo dài vải màu tươi sáng, may năm thân, cổ đứng, viền tà, gấu
to, dài quá đầu gối, và bên trong mặc áo cánh. C̣n áo dài bên ngoài được
may bằng lương, the, đoạn, màu đen. Theo lối cũ trước đây, người nam
thường vấn tóc búi tó bằng khăn nhiễu. Sau này họ căi biến đi khi cắt tóc
ngắn, rẽ ngôi nên dùng loại khăn xếp may sẵn bán ở các cửa tiệm cho thuận
tiện.
Về trang
phục nữ Quan họ c̣n gọi là trang phục liền chị chung quy gồm các thành
phần như trong cùng là một chiếc yếm có màu "mạnh" dễ bắt mắt, xậm như đỏ
(xưa gọi là yếm thắm),vàng thư (hoa hiên), xanh da trời (thiên thanh),
hồng nhạt (cánh sen),... Có hai loại yếm như yếm cổ xẻ (dùng cho trung
niên) và yếm cổ viền (dùng cho thiếu nữ). Bên ngoài yếm là một chiếc áo
cánh màu trắng, vàng, ngà,... là những màu nhẹ, hay nhạt. Bên ngoài cùng
là những lượt áo dài năm thân, cách phối trí màu cũng tương tự như ở bộ
trang phục nam nhưng màu sắc tươi hơn.
Quan họ
truyền thống không có nhạc đệm và chủ yếu là hát đôi giữa liền anh và liền
chị vào dịp lễ hội xuân thu nhị kỳ ở các làng quê. Trong quan họ truyền
thống, đôi liền anh đối đáp với đôi liền chị được gọi là hát hội, hát canh,
hay hát nhóm, hay hát rủ bọn. Cả nhóm liền anh đối đáp cùng cả nhóm liền
chị được gọi là Hát đối đáp. Có nhiều lối hát như: Hát đối đáp, Hát canh,
Hát hội, Hát thờ, Hát cầu đảo, Hát chúc mừng,...

Hát ả đào
Bây giờ
chúng ta xét qua một loại hát khác là Hát ả đào, hay c̣n gọi là Ca trù.
Nếu như
Kinh Bắc là đất của văn hóa Quan họ, th́ xứ Đoài là một trong những cái
nôi của văn hóa Ả đào, hay Ca trù cửa đ́nh. Nơi có nhiều nhà hát cô đầu
nhất là ở Xứ Đoài, và Xứ Đoài gồm có Phú Thọ, Vĩnh Phúc ở phía bắc, Hà Tây
ở phía nam, tiếp giáp Thăng Long (Hà Nội). Phú Thọ - Vĩnh Phúc là vùng
trung du, nơi quy tụ của ba ḍng sông lớn tại Bắc phần là sông Hồng, sông
Lô và sông Đà chụm về đây, nơi có kinh đô Phong Châu của vua thủy tổ Hùng
Vương, nơi có nguồn gốc tổ tiên của Việt tộc. Do đó nền văn hóa xứ Đoài
trải dài từ vùng trung du đến đồng bằng Bắc bộ.
Lịch sử
phát triển của nghệ thuật ca trù đă trải qua các thời kỳ rất phức tạp,
thuở ban sơ của buổi khai mở ngành này, nó là ban nữ nhạc trong cung đ́nh
của nhà vua với tính cách giúp vui cho hoàng gia thưởng lăm, nên được xem
như một loại nghệ thuật "cung đ́nh". Với lối hát tiêu khiển, vui chơi để
phục vụ cho nhu cầu thưởng ngoạn của một số quan lại, cùng nho sĩ th́ nó
là một h́nh thức nhạc thính pḥng. Với lối hát cửa đ́nh hay hát trước
hương án của các vị thành hoàng ở bên trong nhà và hát bên ngoài sân hội
với đông đảo quần chúng tham dự, do dó nghệ thuật ca trù được xem như vừa
mang tính chất thính pḥng, lại vừa mang tính chất đại chúng. Ca trù được
ghi nhận ra đời vào thề kỷ 15, trải qua nhiều giai đoạn đổi thay và căi
tiến, đến giai đoạn phát triển hưng thịnh nhất lên hàng nghệ thuật của nó
là vào thế kỷ 19. Các quan lại trí thức, các nho sĩ thường mời ả đào về tư
dinh của ḿnh để hát những bài thơ của các thi sĩ nổi tiếng hoặc thơ của
chính ḿnh sáng tác. Nghệ thuật ca trù cần 3 người: một ả đào vừa hát vừa
gơ phách, một kép đánh đàn đáy và chính chủ nhân vừa làm khán giả, vừa là
người cầm chầu tức đánh trống. Người cầm chầu vừa điểm trống theo câu hát
vừa là người thưởng, phạt, khen, chê, thông qua hiệu lệnh của tiếng trống.
Chỉ cần 3 người cũng đă tạo nên một buổi tŕnh diễn ca trù tiêu biểu.
Thể thức
ca trù là một nghệ thuật phối hợp giữa âm nhạc và thi ca, mỗi buổi hát ca
trù là một cuộc tŕnh diễn nghệ thuật mà trong đó cả diễn viên và khán giả
đều là nghệ sĩ thưởng ngoạn cái nghệ thuật do chính ḿnh đóng góp. Khi cả
hai bên diễn viên và khán giả đều tích cực tham gia vào cuộc tŕnh diễn,
th́ họ t́m được một sự đồng điệu trong nghệ thuật. Ca trù đă trở thành thú
chơi tao nhă của các bậc phong lưu, nho sĩ vào thời hưng thịnh xưa và
chính nó tiêu biểu cho h́nh thức âm nhạc thính pḥng độc đáo của người
thưởng ngoạn Việt Nam. Một khi ca trù thoát ra khỏi những vương cung hoàng
phủ th́ nó nghiễm nhiên trở nên một nghệ thuật tiêu khiển cho đa số quần
chúng, để nó phục vụ khối lượng lớn của đám đông rồi trở thành loại âm
nhạc dân gian của dân tộc. Chính sự phổ biến sâu rộng ra ngoài môi trường
quảng đại quần chúng, nên ca trù được các danh sĩ tài hoa rành âm luật thi
ca đa dạng hóa, căi tiến để bổ sung nhiều lối hát, làm cho ca trù ngày
càng thêm phong phú.
Luận bàn
về tên gọi th́ “Ca trù” bắt nguồn từ cái “trù”, tức là cái thỏi bằng tre
ghi chữ nho. Mỗi trù tương ứng với một số tiền nhất định nào đó. Mỗi khi
ca đoạn nào hay, đào hát lại được khán giả tưởng thưởng cho một vài cái
trù.
C̣n với
tên “Ả đào”, được hiểu chữ "ả" có nghĩa là một cô nương, và chữ "đào" có
nghĩa là một cành đào biểu tượng cho nét đẹp của người nữ, danh từ "Hát ả
đào" cũng có thể hiểu là ngành ca hát của cô gái sống bằng nghề này. Sau
nữa, nói về danh từ "Cô đầu" th́ có người cho rằng nguyên thủy là "Cô đào",
dần dà người ta quen nói trại đi thành "Cô đầu". Theo sách biên khảo về ca
trù của các tác giả Đỗ Trọng Đoàn và Đỗ Trọng Huề th́ hai ông cho là chữ "đầu"
ám chỉ tiền hoa hồng hay tiền đầu mà đào nương phải trả cho người thầy dạy.
"Cô đầu" lại cũng được dùng để ám chỉ những người hát chuyên nghiệp thâm
niên dẫn đầu có nhiều học viên.
Do vậy,
dù là "Ca trù" hay "Hát ả đào", hoặc "Hát Cô đầu" vẫn chỉ là một ư tưởng
mà thôi. Nó là lối hát nói, là một lối hát quan trọng của thú vui chơi,
thưởng ngoạn âm nhạc ngày trước, v́ nó đánh dấu giai đoạn đưa thi ca vào
âm nhạc, nó khuyến khích sự ra đời một thể thơ mới, đặc biệt trong văn học
Việt Nam. Nhiều bài hát nói nổi tiếng của các thi nhân danh tiếng như
Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến, Dương Khuê, Tản Đà,... những
tác giả cho nhiều bài thơ mẫu mực cho thế hệ sau lấy làm tài liệu học tập.
Thơ của họ là những tác phẩm có giá trị cao quư đóng góp cho nghệ thuật ca
trù và cho văn học Việt Nam vào thế kỷ 19, cũng là mầm mống cho thể loại
thơ mới, hay thơ tự do về sau này.
Những
bài tuyệt tác của ca trù được biết như: Hồng hồng tuyết tuyết (thơ Dương
Khuê), Tự t́nh (thơ Cao Bá Quát), Bắc phản (thơ Nguyễn Du), Tỳ bà hành (thơ
Bạch Cư Dị), Kể chuyện (thơ Bà Huyện Thanh Quan), Hương Sơn phong cảnh (thơ
Chu Mạnh Trinh), Hỏi gió, Gặp xuân (thơ Tản Đà), Hồ Tây (thơ Nguyễn Khuyến),...
Khi tôi
nghe nữ sĩ Bạch Hạc bên Houston tŕnh bày bài ca trù nổi tiếng của nhà thơ
Dương Khuê qua tác phẩm “Hồng Hồng Tuyết Tuyết”, tôi cảm nhận một sự say
mê thích thú. GS Doăn Quốc Sỹ và nhà thơ Vũ Hối đều chia sẻ một quan điểm
tương đồng về thú thưởng ngoạn ca trù.
Sau đây
chúng ta hăy xét về bài ca trù “Hồng Hồng Tuyết Tuyết”,
(Phần
mưỡu)
"Ngày xưa
Tuyết muốn lấy ông
Ông chê
Tuyết bé, Tuyết không biết ǵ
Bây giờ
Tuyết đă đến th́
Ông muốn
lấy Tuyết, Tuyết chê ông già.
Nước nước biếc, non non xanh
Sớm t́nh t́nh sớm, trưa t́nh t́nh trưa
Nhớ ai tháng đợi năm chờ
Nhớ người độ ấy bây giờ là đây.
(Phần Nói)
Hồng Hồng, Tuyết Tuyết
Mới ngày nào c̣n chưa biết chi chi
Mười lăm năm thấm thoát có xa ǵ
Ngoảnh mặt lại đă đến kỳ tơ liễu.
Ngă lăng du thời quân thượng thiếu
Quân kim hứa giá ngă thành ông.
Cười cười nói nói sượng sùng
Mà bạch phát với hồng nhan chừng ái ngại
Riêng một thú Thanh sơn đi lại
Khéo ngây ngây dại dại với t́nh
Đàn ai một tiếng Dương tranh".
Bài hát trên tác giả ngụ ư nói ả đào Hồng Tuyết không ngoài ư nghĩa là
mượn tên ám chỉ tên một cô gái trong nghề ca trù, mà c̣n muốn nói lên một
đào nương ngay từ khi c̣n bé tí như một bông hoa xinh đẹp, ngây thơ và
trong trắng. Đào nương được quư trọng từ thuở tấm bé đó đă được học đánh
phách. Đứa bé c̣n vô tư, chưa biết ǵ về ư niệm ái t́nh. Nhưng 15 năm sau
bé gái ấy đă đến giai đoạn dậy th́ khách lăng du thuở xưa ngỏ lời tự sự
của một ông già ham vui là người vốn ăn chơi ái t́nh lăng mạn từ khi em
c̣n bé tí, nay khách đă già nhưng vẫn c̣n tính ăn chơi ong bướm như xưa.
Từ ngữ được xử dụng trong bài hát "Bạch phát" mang ư nghĩa là tóc bạc, ám
chỉ khách nay đă già nua rồi. Ư thơ cho biết khách ăn chơi nay gặp lại cô
bé, nàng đă khôn lớn xinh đẹp, tuổi tác quá chênh lệch nên gặp nhau vẫn
cười nói ngượng ngùng. C̣n "Thú Thanh sơn đi lại", ám chỉ nơi hồng lâu tập
trung nhiều cô đầu thuộc khu vực Hà Đông - Hà Tây ngày nay. Các câu mưỡu
tức câu tóm tắt đại ư trong bài.
Như phần trên đă đề cập, nguồn gốc ngành ca trù cho thấy rằng nó có xuất
xứ từ nơi cung đ́nh, v́ vậy cái gốc là hát cửa đ́nh thường gồm 3 phần tế
tự, thơ ca và múa biểu diễn. Ca trù được biến thiên, phổ cập hóa cho mọi
người trong quần chúng thưởng ngoạn. Qua bài hát dẫn dụ tiêu biểu trên của
nhà thơ Dương Khuê, bài ca được soạn từ lời thơ thật uyên thâm, trữ t́nh
và ư tưởng phong phú. Điều đó đă nói lên nét đẹp của ca trù.

Nguyên
Vũ, Thúy Anh, Anh Bằng, Lệ Hoa và Hoàng Nam.
Bài viết "Cảm Nghĩ Về Nhạc Dân Gian" của Anh Bằng và Hoàng Nam chỉ lướt
phớt qua hai loại nhạc dân gian Bắc phần mà chúng tôi lấy làm thích thú.
Qua loại dân ca Quan họ Bắc Ninh được dẫn chứng từ bài hát thịnh hành "Người
ở đừng về", rồi nhạc sĩ Anh Bằng lấy ư phổ ra thành bài t́nh ca quê hương,
vói tên Ḿnh Ơi Em Chẳng Cho Về. Với loại nhạc dân ca Bắc phần khác là về
hát ả đào hay ca trù được tŕnh bày về nguồn gốc và dẫn dụ bài ca tiêu
biển “Hồng Hồng Tuyết Tuyết”, cho thấy nét độc đáo của ca trù về sự phối
hợp đa dạng, nhịp nhàng giữa thi ca và âm nhạc, và nhiều khi kèm theo hoạt
cảnh vũ nữa.
Những điệu nhạc dân gian này phản ảnh những t́nh tự văn hoá đáng yêu của
dân tộc Việt Nam. Tiếng ca Quan họ hay tiếng hát ả đào đi vào nhạc dân
gian, đi vào vào nhạc của quần chúng, có vườn hoa âm nhạc của lịch sử đất
nước, bởi v́ một dân tộc có bề dầy về văn hóa không thể thiếu khía cạnh âm
nhạc tiêu biểu cho dân tộc đó. Chúng tôi xin chấm dứt ở đây với điều hiển
nhiên này.
Anh Bằng
- Hoàng Nam
Tài liệu
Tham khảo:
- Tự điển
Bách khoa Wikipedia-
- Chim
Việt Cành Nam Online
- Trần
Quang Hải Website

Anh Bằng & Hoàng Nam

Trang XUÂN 2010- Văn Học Nghệ Thuật
Và Quê Hương