Mục Lục
 

  Trang B́a
     
 Ban Biên Tập
 
Lá T Xuân
     
 Nguyễn Thị Thanh T
      
Đọc Lá TXuân:
      
Lê Thị MChâu
  Táo Quân Chầu Trời
     
 Nguyễn Thị Thanh T
 Câu Đối Tết 
     
 Lê Bá Thiên
 Câu Đối Tết
       Vinh H

 

Chúc Tết
 

 Mừng Xuân Canh Dần
      Vinh H
 
Đôi Lời Tâm S
     
Lư H
 TChúc Tết
     
Trần Đ́nh Thọ


X
uân
Q
N



 
 Mùa Mai Hiếm
      
Nguyễn Quang Lộc
 
 Chuyện Cái Thùng Bánh Tét
       Lương LBích San
  Xuân Này Tôi Nhớ Măi
      
Trần N Phương

 

Xuân
Đ
ất Khách


  Một Cái Tết L K 
      
LThanh Cư
  Xuân Nguyện
       Đinh Thị Lan
 
CCâm
     
 Lâm Thanh Nhàn
 
Trước Thềm Năm Mới
       Đặng Thị Ngọc N
  Hai Không L Chín Nh́n Lại 
     
 Phi Ṛm


 

Sinh Hoạt Tết
Hải Ngoại
 

  Kịch Vui Vơ Thuật 
     
 Nguyễn Dzuy Nam
      
Nguyễn Dzuy An


 

H́nh nh Tết
 

  QN 
     
 SXương Hải
 
 Hải Ngoại 
     
 Đinh Bá H

 

Hoa Xuân
N
gày Tết
 

  Hoa Đào Trong Mắt Ai 
     
 Phạm Thị Nhung

 

Chuyện Vui
 

 Đầu Năm K Chuyện Vui
     
Lư H
 Tiếng Việt
     
Nguyễn Quang Lộc

 


Ca Hát/Nhạc

     Tiếng Hát:

 Mộng Chiều Xuân
     
Lan Đ́nh
 Tiếng Sáo Thiên Thai
     
Lan Đ́nh
 Gái Xuân
     
Lan Hương
 
Ca Vọng C
     
Lư H
 Đọc Truyện:"Trăng Q
      
Nhà" Của Phùng Thị Phượng

     
Lư H
 Nha Trang Ngày V
     
Nguyễn Tính
 

 

TVi


  Người Tuổi Dần
     
ABC Sưu Tầm (NXV)
 

 

Tôn Giáo


  Phật Giáo Đi Vào Đời
     
Mục Đồng
  Chùa Ngọc Lâm

     
TBửu Nguyễn Thừa
 

 

Năm Canh Dần
N
ói Chuyện H  

  Cọp V Làng
      
Vinh H
 
Tản Mạn Về Năm Canh Dần
      
Nguyễn Văn Thành

 

 

d_bb
Đ.H.K.H
 

  Cách Chơi Mạt Chược
      
Tô Đồng
  Liêu Trai C D
       Đàm Quang Hưng
  Thanh Phong Thi Tập 
     
 Vũ Tiến Phái
 
LVu Lan
       Nguyễn Văn P
 
Chính Danh Thủ Phạm
      
V Đổi Lịch Báo Hại

     
 Nguyễn Hữu Quang
 
Cỗi RBậc Hai
       Nguyễn Đc Tường


 

Tranh
N
ghệ Thuật


 Tranh Họa Nghệ Thuật

      
Phi Ṛm
 

 

Kinh Nghiệm Sống

 Xuân Đời Người Theo Chu
     K
Thời Gian

      
Hải Lộc

 


Văn Hóa
m Thực



 Bánh Tét-Hương V Tết
     
Lê Thị MChâu
 GThủ
     
Lê Thị Đào
 Mứt Dẻo
     
Lê Thị Đào
 Nấu Mắm Tôm
     
Lư H
 Khoai Lang
     
Dương Công Thi

 



Sức Khỏe

      
  Đại Dịch Cúm Heo Hay
      
Đại Chủng Ngừa Cúm Gà
 
     
BS Nguyễn Vĩ  Liệt
  Những Căn Bản V
      
Di Truyền Học
 
     
BS Nguyễn Vĩ  Liệt

 

 

Biên Khảo
Kinh Tế
 

Việt Nam

  Tổng Kết T́nh H́nh Kinh Tế
      
Việt Nam Năm 2009

       Nguyễn Văn Thành

Hoa K

  Tổng Kết T́nh H́nh Kinh Tế
      
Hoa K Năm 2009

       Nguyễn Văn Thành


 

Chuyện
Đ
ó Đây
 

  Cảm Ơn ASIMO
      
BS ĐHồng Ngọc
 
Năm Hết Tết Đến

      
BS ĐHồng Ngọc
 
Mười Năm Chân Bước Trên
     
Đường Dài

       Lương LHuyền Chiêu
 
 Ngày Xuân K Chuyện Làm
      
Báo Singapore
 

       Nguyễn Thị Thục


 

Viết v
Ninh Ḥa


 
Ḥn Vọng Phu Q Tôi

     
 Đinh Hữu Ân
 
Ninh Ḥa Tôi Xưa

     
 Lương LHuyền Chiêu
 
Những Bước Đường Đi Qua
      
Của Một Người Con Xóm
      
Rượu

     
  Nguyễn Hưng
  Chùm Me "Phong p"

     
 Lê Thị Hoài Niệm

 



Viết v
ninh-hoa.com



  Viết Cho Ninh-Hoa.com
     
 Lê Thị MChâu
 
Gái Tuổi Dần

     
 Lương LBích San



 

 KNiệm V
Trường:

Trần B́nh Trọng
Ninh Ḥa

  Những Mùa Xuân Đi Qua
     
 Thầy Trần Hà Thanh


Vạn Ninh

  Xuân Nhớ
      
N Thị Kim Anh
 
Thương V Vạn Ninh

      
Thầy NK
  Nha Trang Ngày V

      
Nguyễn Thị Kính
  Nhớ V Nha Trang

      
Nguyễn Thị Kính
  Phôi Pha Tháng Ngày

      
Thầy Trương Văn Nghi
  Một Chuyện Mùa Xuân

      
 Cô Đặng Thị Tuyết N
  Chúc Mừng X Vạn

      
Nguyễn Thị T
 

Các Trường Khác

 Thảo Trang
     
  Nguyễn Đồng Danh
 
Trường Hưng Đạo NhaTrang

     
  Phạm Thanh Phong


 

Thi Nhạc
Giao Duyên
 

 Hồn Tôi Theo G Bay V
      
Mùa Xuân

     
 LMST
 Nắng Mai

     
 Mục Đồng
 

 

Văn Học NT
Lịch Sử/Địa Lư
 


 
Cảm Nghĩ VNhạc Dân Gian

      
Anh Bằng - Hoàng Nam
 
"Xuân Dạ"

      
Dương Anh Sơn
  "Xuân Nhật Ngẫu Hứng"

      
Dương Anh Sơn
  Em Là Nốt Nhạc D Thương

      
NxVạn
 
Bài Hát V Tha La Trong
      
Kư c

      
Việt Hải  Los Angeles
  Ai Xuôi V Tây Đô ?

      
Việt Hải & Mindy Hà
  Sống Đ Viết, Viết Đ Sống

      
Trần Minh Hiền
  T Xuân Điều Ngự Giác
      
Hoàng Trần Nhân Tông

      
TBửu Nguyễn Thừa

 



T
 


  Chúc Xuân

      
Nguyễn Thị Bảy
  Mừng Ngày Hội Ngộ 

      
Nguyễn Thị Thanh B́nh
  Ba Mùa Xuân

      
Nguyên Bông
  Hoài Cảm

      
Nguyên Bông
  Gởi Thiệp Xuân Thăm Mẹ

      
Trần Ngọc Chánh
  Nhớ Xuân

      
Hương Đài
  Xuân Của Chị

      
Lan Đinh
  Hương Biển Mặn Mà Xuân

      
Thầy Quách Giao
  Xuân Tàn

     
 Lê Thị Ngọc Hà
  Đôi Mắt Em

      
Việt Hải LA
  Một Nửa Yêu Em

      
Việt Hải Los Angeles
  Khai Bút 2010

      
Trần Minh Hiền
  Con Sông Nào Đă Xa Nguồn
      
Huỳnh Trịnh Tuyết Hoa
  Lạc Lơng
      
Nguyễn Thị Tuyết Hoa
  Xuân Ly Hương

      
Vinh H
 Xuân V Lại Nhớ Q Hương

      
Vinh H
  Ngọt Ngào Xuân  

      
Trần Thị Phong Hương
  Bỗng

      
Nam Kha
  Sắc Xuân

      
Đinh Thị Lan
  Mùa Xuân Trên Đất Lowell

      
CBà Trần Thanh Liễu
  Chuyện Ngày Xưa

      
Nguyễn Duy Long
 Xuân Ơi! Xin Chầm Chậm N

      
Hải Lộc
  Xuân V

      
Lê Thị Lộc
  Người Đi

      
Đàm Thị Ngọc Lư
 Đôi Ta  

      
Đặng Thị Ngọc N
 Canh Dần...Đừng Nên !

      
Đặng Huy Nhẫn
 Thói Đời  

      
Đặng Huy Nhẫn
 Nắng Chiều Xuân  

      
Phan Kiều Oanh  
 T́nh Xuân  

      
Phan Kiều Oanh
 Xuân Chia Ly  

      
Phan Kiều Oanh
 Hạnh Phúc Đâu Xa

      
Nguyễn Hoàng Phi
  Đợi Anh V

     
  Phạm Thanh Phong
  Không Đ          

      
Trần N Phương
  Nhớ Xuân Xưa          

      
Trần N Phương
  Gương Mặt Trái Xoan

      
NQ
  Ngỡ Ngàng NXuân

      
Lâm Minh Tài
  Xuân Tri K          

      
Lâm Minh Tài
 Mùa Xuân Đó Phút T́nh C  

     
Cô Kim Thành
 Trăng Ngủ Quên

      
Cô Kim Thành
  Nỗi Nhớ Chiều Cuối Năm

      
Vơ Ngọc Thành
  Phác Họa

      
Vơ Ngọc Thành
  Dấu n T́nh Q

      
Anh Thy
  Quả Dưa Ngày Tết

      
Nguyễn Thị T
  Tưởng Nhớ

      
Thi Thi
  Xuân Tha Hương

      
Nguyễn Thị T
  Mùa Xuân Và Nỗi Nhớ

      
Trần Đ́nh Thọ
  Chúc Mừng Năm Mới

      
N Trưởng Tiến
  Q Hương Tôi Nỗi
      
Chờ Mong

      
Nguyễn Tính
  Xuân Viễn X

      
Nguyễn Tính
  Tháng Giêng Ơi

      
Lương MTrang
  Em Có Biết

      
Nguyễn Thục
  NCọp Lên Ngôi
     
Tú Trinh
  Xuân - Vẫn m Ḷng

      
Thượng Tọa Thích Ngộ T
  Thương Nhớ Ơi !
      
Nguyễn Thị Thanh T
 T́nh Xuân Đất Khách

      
Du Sơn Lăng T
  Xuân Gợi CHương

      
Du Sơn Lăng T
  Ca Khúc Mùa Xuân

      
Lê Duy Vũ
 


Văn

 

  Bóng Nắng Xuân
       Nguyên Bông
 
 Những Vần TVụn Gẫy
       Nguyễn Tấn Ca
 
 Nỗi Nhớ Cuối Năm
       Trần Thị Chất
 
 Những Ngày Giáp Tết
       Lê Thị MChâu
 
 Hạt Giống Đang Nảy Mầm
       Phan Phụng Dung
 
 Mái NXưa
       Tâm Đoan
 
Tôi Ơi Đừng Tuyệt Vọng
     
 Lê Thị Ngọc Hà
 
Bông Cải
     
 Huỳnh Trịnh Tuyết Hoa
  Hơi Thở Mùa Xuân
      
 Nguyễn Thị Tuyết Hoa
  Mưa Cuối Mùa
      
 Nguyễn Thị Tuyết Hoa
 
Tiếng Vọng Trên Ngàn
     
 Tường Hoài
 
Giây Phút Giao Thừa
     
 Lư H
  Nơi Trái Tim
       Nguyễn Quang Lộc
 
 Tạm Biệt...
       Thanh Mai
  Trên Nỗi Nhớ Thương Đau   

      
Nguyễn Hữu Nghĩa
  KNiệm...Vui
     
 Phan Kiều Oanh
  Mai Hương Xuân   

     
 Topa  Panning
  Chào Bảy Mươi   

      
Trương Thanh Sơn
  Phần Thưởng
     
 Lâm Minh Tài
  Nơi Đàn Chim Bay V T́m
       
Hơi

      
Nguyễn Hữu Tài
  Đám Ma Người Ngoại Đạo
     
 Hoàng - Thanh
  Xúc Tép 

      
Dương Công Thi
  Em Tôi Đă Ra Đ

      
Hà Thị Thu Thủy
  Buồn Vui Đời Lính TT

      
Nguyễn Tính
  Những Con Đường Dưới
     
Chân Tôi
       Nguyễn Đôn Huế Trang
 


 

 

 

Thư từ, bài vở, h́nh ảnh hoặc
ư kiến xây dựng, xin liên lạc:

 
diem27thuy@yahoo.com

 



 

 

 

 

 

 

 


 


 

 

     Tôi ra đời ở làng Điền Hộ, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Khi lên 10 tuổi, tôi phải xa gia đ́nh để đi học ở một trường ḍng tu Công Giáo tên là Tiểu Chủng Viện Ba Làng. Trong các môn học th́ như duyên tiền định, tôi yêu mến, thích thú môn âm nhạc. Khi tôi nghe tiếng nhạc hay tiếng đàn, tim tôi mê mẫn dạt dào. Điều linh tính đó đưa tôi đến gần âm nhạc hơn khi tôi khôn lớn.

Nhạc là một phạm vi bao la, bát ngát trong nếp nhân sinh. Trong bài viết này tôi chỉ muốn nói về âm nhạc dân gian, mà trong đó nhạc dân gian Bắc phần có ca trù, hay hát ả đào, và Quan họ Bắc Ninh. Tôi c̣n nhớ những năm khi quê hương miền Bắc loạn lạc, toàn dân chống thực dân Pháp, tôi tản cư về thành lánh bom đạn. Tôi có quen hai chị em thiếu nữ người Bắc Ninh, hai cô có làn hơi phong phú, hát ả đào, ngân giọng ca trù rất hay. Tôi đă gần gủi với nhạc dân gian, và từ đó t́m hiểu thêm về một góc đẹp văn hóa quê hương.

 

 

Huyện Nga Sơn, cảnh đẹp ven biển.

 

Việt Nam là một quốc gia đa sắc tộc với một nền văn minh lâu đời, có một nền âm nhạc dân gian đa dạng như Việt Nam phải nói là thật phong phú. Những tiết tấu, âm điệu đặc trưng của dân ca phần lớn phát nguồn từ những câu đồng dao dù b́nh dị đơn giản, hay những câu ca dao thâm thúy khúc chiết và loại thơ vần như lục bát, thơ được gạn lọc, bổ sung qua nhiều giai đoạn thời gian rồi trở nên những thể loại ca hát dân gian khác nhau của từng địa phương, từng vùng đất nước, từng miền phương ngữ. Ví dụ như hát vi giao duyên của miền trung du bắc phần. Hát Chầu văn là h́nh thức hát nhạc thờ cúng, có tính chất tôn giáo linh thiêng, các thầy cúng chuyên nghiệp đánh đàn nguyệt, có giọng hát điêu luyện phụ họa thuộc nhiều điệu hát, và pha vào đấy là tiếng trống vỗ. Độc đáo phải kể về lối hát Quan họ Bắc Ninh, một lối hát rất phong phú về âm nhạc. Rồi lối hát Ả đào, một h́nh thức rất đặc biệt của nhạc dân gian Bắc phần. Về thành phần cho lối hát Ả đào gồm có một người hát hay đào nương, hai tay gơ phách, một nhạc công đàn đáy, một trống chầu dùng để người nghe hay quan viên thưởng ngoạn những âm giai, những giọng hát hay.

 

Mới đây anh bạn Việt Hải ngỏ ư là tôi hăy phổ nhạc một bài dân ca Quan họ, tôi bảo tôi chỉ phổ theo lối dân ca quê hương mà thôi. V́ dân ca Quan họ cần những quy tắc về điệu hát và nhạc cụ chuyên môn, nó không phải phạm trù chuyên môn của tôi. Bài hát Quan họ Việt Hải bàn luận là bài hát nổi tiếng mà nhiều người biết đến là Người Ở Đừng Về, đây là tên một bài hát dân ca Quan họ Bắc Ninh do Xuân Tứ căi biên từ bài Quan họ cổ điển Chuông Vàng Gác Cửa Tam Quan và bài hát được viết xuất xứ từ một bài thơ dân gian. Bài hát thường được cất lên vào lúc hội tàn, nhất là khi từ giă nhau. Trong ư thơ chan chứa lời ḥ hẹn, nhằn nhủ khi ta nghe câu ca “Người ơi! Người ở đừng về”.

 

Người ơi người ở đừng về

Người về em vẫn khóc thầm

Đôi bên vạt áo ướt đầm như mưa

Người ơi người ở đừng về

Người về em vẫn trông theo,

Trông nước nước chảy, trông bèo bèo trôi

Người ơi người ở đừng về

Người về em nhắn tái hồi

Yêu em xin chớ đứng ngồi với ai

 

Việt Nam là quốc gia mà nền kinh tế và xă hội được phát triển từ nông thôn, do đó nếp dân sinh ở các xóm làng miền quê, t́nh yêu trai gái được ghi nhận qua nhiều trong vần thơ hay các câu đồng dao. Sự lăng mạn của trai gái bị nếp lễ giáo nho phong ràng buộc, hăy nghe tiếp đoạn cuối: 

 

Ḿnh về, ta chẳng cho về,

Ta nắm vạt áo ta đề câu thơ

Câu thơ ba chữ rành rành:

Chữ Trung, chữ Hiếu, chữ T́nh là ba.

Chữ Trung th́ để phần cha,

Chữ Hiếu phần mẹ, đôi ta chữ T́nh.

 

Những bài dân ca Quan họ khác thịnh hành là: Ngồi tựa song đào, Tương phùng tương ngộ, Bèo dạt mây trôi, Ngồi tựa mạn thuyền, Đêm qua nhớ bạn,...

Sau đây xin đính kèm bản nhạc mà bài Người Ở Đừng Về mà tôi phổ thành nhạc như sau, dẫn ư lời tŕch từ bài thơ nêu trên.

 

Ḿnh Ơi Em Chẳng Cho Về

 

Người ơi người ở đừng về

Người về em vẫn tỉ tê (mà) khóc thầm

Người về em đứng em nằm

Đôi bên vạt áo ướt đầm (mà) như mưa

 

Người ơi người ở đừng về

Người về em vẫn kè kè (mà) trông theo

Người ơi em vẫn trông theo

Trong nước nước chảy trông bèo (mà) bèo trôi

 

Ḿnh ơi!

Ḿnh ơi đừng ở đừng có về nghe

Ḿnh về em nhắc lời thề (mà) nhớ thương

Nhớ thương nhớ thương em vẫn nhớ thương

Yêu em xin chớ chung giường (mà) với ai

 

Ḿnh ơi em chẳng cho về

Em níu vạt áo em đề (mà) bài thơ

Chữ Trung xin để phần cha

Chữ Hiếu phần mẹ, đôi ta (là) chữ T́nh

 

T́nh t́nh t́nh ơi hỡi t́nh ơi

T́nh t́nh t́nh ơi hỡi là t́nh

T́nh t́nh t́nh ơi hỡi t́nh ơi

T́nh t́nh t́nh ơi hỡi là t́nh

 

(Anh Bằng).

 

 

 

Nhạc sĩ Lê Dinh và nhạc sĩ Anh Bằng

 

Như lời giao kết viết chung với nhạc sĩ Anh Bằng, tôi (Hoàng Nam) sẽ nối tiếp bài viết này.

Qua phần tŕnh bày trên của nhạc sĩ Anh Bằng đi sơ qua một số bài thơ mà lời dùng cho các bài hát dân ca Quan họ thịnh hành mà quần chúng quen biết, ông cũng rất vui khi bàn bạc với nhạc sĩ Lê Dinh và tôi về chủ đề này, ông rất thích bài thơ lăng mạn "Người ở đừng về". Tôi vốn biết ông có tài phổ nhạc từ thơ rất nhanh, một khi nguồn cảm hứng đến ông ghi nhận ư nhạc trong nhấp nhấy. Ông cho biết khi làm bài hát Chuyện Hoa Sim, khi viết xong được mấy câu bỗng ông lăn đùng ra ngủ, sáng sớm hôm sau thức dậy ông hư hoáy vội tiếp ra giấy khi ư nhạc tuôn ra như suối. Tôi đồng ư khi nguồn cảm tác đến hay có hứng khởi sẽ rất quan trọng cho giới văn nghệ sĩ trong lănh vực chuyên môn của họ.

Với bài Người Ở Đừng Về khi chúng tôi bàn bạc về nhạc dân ca, và dùng nó như một mẫu mực khi nh́n vào kho tàng nhạc Quan họ, nó mang nét t́nh yêu trai gái trao ước lời lăng mạn, dễ thương trong nỗi dịu dàng nào đó. Bài Ḿnh Ơi Em Chẳng Cho Về của Anh Bằng theo ḍng suối chảy mượt mà trong ư thơ và duyên dáng theo tiếng nhạc quê hương. Đây là mộ kỷ niệm vui giữa hai nhạc sĩ Anh Bằng và Lê Dinh, và tôi được may mắn đóng góp nét tổng quát về nét thơ dân ca qua bài viết này.

 

Được biết trước năm 75, khi nhạc sĩ Anh Bằng phục vụ tại hai Đài Phát Thanh Sài G̣n hoặc Đài Phái Thanh Quân Đội, ông nhận lănh viết gấp, mà trong từ ngữ chúng tôi dùng là viết marathon với thời gian, những ca khúc đáp ứng cho nhu cầu của những chiến dịch đặc biệt, như Phượng Hoàng, ông ngồi trong xe và nắn nót vỗ về ư nghĩ trong ba mươi phút phù du có xong bài hát cho nhu cầu thời chiến, nhạc phải hay để ca sĩ vui mà hát. Đó là cái tài năng của nhạc sĩ Anh Bằng.

Nhạc phổ từ thơ là một phạm vi Anh Bằng có sở trường từ thiên khiếu. Bài Ḿnh Ơi Em Chẳng Cho Về dùng lời lục bát, ông khéo léo đưa vào âm điệu đặc thù của quê hương Việt Nam, chắc hẵn  trong trái tim của ông theo ư tôi, xuất từ vùng Thanh Hóa, cái nôi của văn hóa thi ca âm nhạc, và quê hương của ông đă tạo ra người nhạc sĩ thủy chung với ḍng nhạc đậm đà với thi vị quê hương đất nước, trong cái chất t́nh tự bàng bạc với dân tộc không kém.

 

Đó là phần Anh Bằng trích thơ dân gian dể phổ nhạc. Bây giờ tôi xin tiếp tục đề tài Quan họ mà Anh Bằng đă đề xướng trong phần ông viết.

 

Theo Bách khoa Tự điển Wikipedia thí nguồn gốc "Quan họ" được diễn nghĩa đen về mặt từ nguyên ngữ của "quan" và của "họ". Điều này dẫn đến những ư kiến giải thích về Quan họ xuất phát từ "âm nhạc cung đ́nh" (nhạc của tầng lớp quan lại trong triều đ́nh), hay gắn liền với sự tích một ông quan khi đi qua vùng Kinh Bắc đă ngây ngất bởi tiếng hát của liền anh liền chị ở đó và đă dừng bước để thưởng thức "họ" vui ca. Tuy nhiên, cách giải thích này đă vô t́nh bỏ qua những yếu tố của không gian sinh hoạt văn hóa Quan họ như h́nh thức sinh hoạt xă hội, những nghi thức các phường kết họ khiến anh hai, chị hai để rồi suốt đời chỉ là bạn, không thể kết duyên vợ chồng, cách diễn xướng, hay lối sử dụng từ ngữ đối đáp với nhau về ư nghĩa và thanh điệu trong sinh hoạt văn hóa đối đáp dân gian.

Lại có một số quan điểm cho rằng Quan họ bắt nguồn từ những nghi lễ tôn giáo dân gian, chứ không phải Quan họ có nguồn gốc từ âm nhạc cung đ́nh, hoặc có quan điểm nhận định diễn tiến của h́nh thức sinh hoạt văn hóa "chơi Quan họ" bắt nguồn từ nghi lễ tôn giáo dân gian qua cung đ́nh rồi trở lại với dân gian.

Một nhận định khác dựa trên phân tích theo nghĩa từ ngữ, trong các làn điệu và không gian diễn xướng lại cho rằng Quan họ là "sự liên quan" đến một nhóm những người yêu quan họ ở vùng Kinh Bắc.

 

 

Hát Quan họ

 

Xét về yếu tố nhân văn, "hát Quan họ" là một lănh vực văn hóa truyền thống có giá trị cao quư của người Việt. Quan họ truyền thống đă phát triển và được lưu truyền tại ở 49 làng Quan họ gốc ở xứ Kinh Bắc. Vùng b́nh nguyên rộng lớn của hai tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang, mà gồm nhiều làng quan họ quy tụ trên phạm vi đất Bắc Ninh, và chỉ có vài làng nằm trên đất Bắc Giang. Do đó, người ta vẫn thường ví đó là vùng Kinh Bắc, hoặc giả cho là Bắc Ninh là quê hương của các làng Quan họ truyền thống, là chiếc nôi sinh ra và nuôi dưỡng các làng Quan họ. Người dân Kinh Bắc hănh diện về nguồn gốc văn hóa Quan họ truyền thống, như là h́nh thức tổ chức sinh hoạt văn hóa âm nhạc dân gian tiêu biểu của Bắc phần nói chung, với những quy luật nghiêm khắt khi đ̣i hỏi liền anh liền chị phải am tường tiêu chuẩn, tuân theo luật lệ âm nhạc Quan họ. V́ vậy cho nên người dân Kinh Bắc thích thú khi thưởng lăm thú vui về luật Quan họ.

 

Trong luật Quan họ gồm lối người tŕnh diễn nam hay nữ mặc trang phục Quan họ đúng cách như nét đẹp của văn hóa Kinh Bắc. Trang phục Quan họ c̣n gọi là trang phục liền anh liền chị. Trang phục nam dành cho các liền anh Quan họ thường mặc áo dài vải màu tươi sáng, may năm thân, cổ đứng, viền tà, gấu to, dài quá đầu gối, và bên trong mặc áo cánh. C̣n áo dài bên ngoài được may bằng lương, the, đoạn, màu đen. Theo lối cũ trước đây, người nam thường vấn tóc búi tó bằng khăn nhiễu. Sau này họ căi biến đi khi cắt tóc ngắn, rẽ ngôi nên dùng loại khăn xếp may sẵn bán ở các cửa tiệm cho thuận tiện.

Về trang phục nữ Quan họ c̣n gọi là trang phục liền chị chung quy gồm các thành phần như trong cùng là một chiếc yếm có màu "mạnh" dễ bắt mắt, xậm như đỏ (xưa gọi là yếm thắm),vàng thư (hoa hiên), xanh da trời (thiên thanh), hồng nhạt (cánh sen),... Có hai loại yếm như yếm cổ xẻ (dùng cho trung niên) và yếm cổ viền (dùng cho thiếu nữ). Bên ngoài yếm là một chiếc áo cánh màu trắng, vàng, ngà,... là những màu nhẹ, hay nhạt. Bên ngoài cùng là những lượt áo dài năm thân, cách phối trí màu cũng tương tự như ở bộ trang phục nam nhưng màu sắc tươi hơn.

 

Quan họ truyền thống không có nhạc đệm và chủ yếu là hát đôi giữa liền anh và liền chị vào dịp lễ hội xuân thu nhị kỳ ở các làng quê. Trong quan họ truyền thống, đôi liền anh đối đáp với đôi liền chị được gọi là hát hội, hát canh, hay hát nhóm, hay hát rủ bọn. Cả nhóm liền anh đối đáp cùng cả nhóm liền chị được gọi là Hát đối đáp. Có nhiều lối hát như: Hát đối đáp, Hát canh, Hát hội, Hát thờ, Hát cầu đảo, Hát chúc mừng,...

 

 

Hát ả đào

 

Bây giờ chúng ta xét qua một loại hát khác là Hát ả đào, hay c̣n gọi là Ca trù.

Nếu như Kinh Bắc là đất của văn hóa Quan họ, th́ xứ Đoài là một trong những cái nôi của văn hóa Ả đào, hay Ca trù cửa đ́nh. Nơi có nhiều nhà hát cô đầu nhất là ở Xứ Đoài, và Xứ Đoài gồm có Phú Thọ, Vĩnh Phúc ở phía bắc, Hà Tây ở phía nam, tiếp giáp Thăng Long (Hà Nội). Phú Thọ - Vĩnh Phúc là vùng trung du, nơi quy tụ của ba ḍng sông lớn tại Bắc phần là sông Hồng, sông Lô và sông Đà chụm về đây, nơi có kinh đô Phong Châu của vua thủy tổ Hùng Vương, nơi có nguồn gốc tổ tiên của Việt tộc. Do đó nền văn hóa xứ Đoài trải dài từ vùng trung du đến đồng bằng Bắc bộ.

 

Lịch sử phát triển của nghệ thuật ca trù đă trải qua các thời kỳ rất phức tạp, thuở ban sơ của buổi khai mở ngành này, nó là ban nữ nhạc trong cung đ́nh của nhà vua với tính cách giúp vui cho hoàng gia thưởng lăm, nên được xem như một loại nghệ thuật "cung đ́nh". Với lối hát tiêu khiển, vui chơi để phục vụ cho nhu cầu thưởng ngoạn của một số quan lại, cùng nho sĩ th́ nó là một h́nh thức nhạc thính pḥng. Với lối hát cửa đ́nh hay hát trước hương án của các vị thành hoàng ở bên trong nhà và hát bên ngoài sân hội với đông đảo quần chúng tham dự, do dó nghệ thuật ca trù được xem như vừa mang tính chất thính pḥng, lại vừa mang tính chất đại chúng. Ca trù được ghi nhận ra đời vào thề kỷ 15, trải qua nhiều giai đoạn đổi thay và căi tiến, đến giai đoạn phát triển hưng thịnh nhất lên hàng nghệ thuật của nó là vào thế kỷ 19. Các quan lại trí thức, các nho sĩ thường mời ả đào về tư dinh của ḿnh để hát những bài thơ của các thi sĩ nổi tiếng hoặc thơ của chính ḿnh sáng tác. Nghệ thuật ca trù cần 3 người: một ả đào vừa hát vừa gơ phách, một kép đánh đàn đáy và chính chủ nhân vừa làm khán giả, vừa là người cầm chầu tức đánh trống. Người cầm chầu vừa điểm trống theo câu hát vừa là người thưởng, phạt, khen, chê, thông qua hiệu lệnh của tiếng trống. Chỉ cần 3 người cũng đă tạo nên một buổi tŕnh diễn ca trù tiêu biểu.

 

Thể thức ca trù là một nghệ thuật phối hợp giữa âm nhạc và thi ca, mỗi buổi hát ca trù là một cuộc tŕnh diễn nghệ thuật mà trong đó cả diễn viên và khán giả đều là nghệ sĩ thưởng ngoạn cái nghệ thuật do chính ḿnh đóng góp. Khi cả hai bên diễn viên và khán giả đều tích cực tham gia vào cuộc tŕnh diễn, th́ họ t́m được một sự đồng điệu trong nghệ thuật. Ca trù đă trở thành thú chơi tao nhă của các bậc phong lưu, nho sĩ vào thời hưng thịnh xưa và chính nó tiêu biểu cho h́nh thức âm nhạc thính pḥng độc đáo của người thưởng ngoạn Việt Nam. Một khi ca trù thoát ra khỏi những vương cung hoàng phủ th́ nó nghiễm nhiên trở nên một nghệ thuật tiêu khiển cho đa số quần chúng, để nó phục vụ khối lượng lớn của đám đông rồi trở thành loại âm nhạc dân gian của dân tộc. Chính sự phổ biến sâu rộng ra ngoài môi trường quảng đại quần chúng, nên ca trù được các danh sĩ tài hoa rành âm luật thi ca đa dạng hóa, căi tiến để bổ sung nhiều lối hát, làm cho ca trù ngày càng thêm phong phú.

 

Luận bàn về tên gọi th́ “Ca trù” bắt nguồn từ cái “trù”, tức là cái thỏi bằng tre ghi chữ nho. Mỗi trù tương ứng với một số tiền nhất định nào đó. Mỗi khi ca đoạn nào hay, đào hát lại được khán giả tưởng thưởng cho một vài cái trù.

C̣n với tên “Ả đào”, được hiểu chữ "ả" có nghĩa là một cô nương, và chữ "đào" có nghĩa là một cành đào biểu tượng cho nét đẹp của người nữ, danh từ "Hát ả đào" cũng có thể hiểu là ngành ca hát của cô gái sống bằng nghề này. Sau nữa, nói về danh từ "Cô đầu" th́ có người cho rằng nguyên thủy là "Cô đào", dần dà người ta quen nói trại đi thành "Cô đầu". Theo sách biên khảo về ca trù của các tác giả Đỗ Trọng Đoàn và Đỗ Trọng Huề th́ hai ông cho là chữ "đầu" ám chỉ tiền hoa hồng hay tiền đầu mà đào nương phải trả cho người thầy dạy. "Cô đầu" lại cũng được dùng để ám chỉ những người hát chuyên nghiệp thâm niên dẫn đầu có nhiều học viên.

 

Do vậy, dù là "Ca trù" hay "Hát ả đào", hoặc "Hát Cô đầu" vẫn chỉ là một ư tưởng mà thôi. Nó là lối hát nói, là một lối hát quan trọng của thú vui chơi, thưởng ngoạn âm nhạc ngày trước, v́ nó đánh dấu giai đoạn đưa thi ca vào âm nhạc, nó khuyến khích sự ra đời một thể thơ mới, đặc biệt trong văn học Việt Nam. Nhiều bài hát nói nổi tiếng của các thi nhân danh tiếng như Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến, Dương Khuê, Tản Đà,... những tác giả cho nhiều bài thơ mẫu mực cho thế hệ sau lấy làm tài liệu học tập. Thơ của họ là những tác phẩm có giá trị cao quư đóng góp cho nghệ thuật ca trù và cho văn học Việt Nam vào thế kỷ 19, cũng là mầm mống cho thể loại thơ mới, hay thơ tự do về sau này.

 Những bài tuyệt tác của ca trù được biết như: Hồng hồng tuyết tuyết (thơ Dương Khuê), Tự t́nh (thơ Cao Bá Quát), Bắc phản (thơ Nguyễn Du), Tỳ bà hành (thơ Bạch Cư Dị), Kể chuyện (thơ Bà Huyện Thanh Quan), Hương Sơn phong cảnh (thơ Chu Mạnh Trinh), Hỏi gió, Gặp xuân (thơ Tản Đà), Hồ Tây (thơ Nguyễn Khuyến),...

 

Khi tôi nghe nữ sĩ Bạch Hạc bên Houston tŕnh bày bài ca trù nổi tiếng của nhà thơ Dương Khuê qua tác phẩm “Hồng Hồng Tuyết Tuyết”, tôi cảm nhận một sự say mê thích thú. GS Doăn Quốc Sỹ và nhà thơ Vũ Hối đều chia sẻ một quan điểm tương đồng về thú thưởng ngoạn ca trù.

 

Sau đây chúng ta hăy xét về bài ca trù “Hồng Hồng Tuyết Tuyết”,

 

(Phần mưỡu)

 

"Ngày xưa Tuyết muốn lấy ông

Ông chê Tuyết bé, Tuyết không biết ǵ

Bây giờ Tuyết đă đến th́

Ông muốn lấy Tuyết, Tuyết chê ông già.

 

Nước nước biếc, non non xanh

Sớm t́nh t́nh sớm, trưa t́nh t́nh trưa

Nhớ ai tháng đợi năm chờ

Nhớ người độ ấy bây giờ là đây.

 

(Phần Nói)

 

Hồng Hồng, Tuyết Tuyết

Mới ngày nào c̣n chưa biết chi chi

Mười lăm năm thấm thoát có xa ǵ

Ngoảnh mặt lại đă đến kỳ tơ liễu.

Ngă lăng du thời quân thượng thiếu

Quân kim hứa giá ngă thành ông.

Cười cười nói nói sượng sùng

Mà bạch phát với hồng nhan chừng ái ngại

Riêng một thú Thanh sơn đi lại

Khéo ngây ngây dại dại với t́nh

Đàn ai một tiếng Dương tranh".

 

Bài hát trên tác giả ngụ ư nói ả đào Hồng Tuyết không ngoài ư nghĩa là mượn tên ám chỉ tên một cô gái trong nghề ca trù, mà c̣n muốn nói lên một đào nương ngay từ khi c̣n bé tí như một bông hoa xinh đẹp, ngây thơ và trong trắng. Đào nương được quư trọng từ thuở tấm bé đó đă được học đánh phách. Đứa bé c̣n vô tư, chưa biết ǵ về ư niệm ái t́nh. Nhưng 15 năm sau bé gái ấy đă đến giai đoạn dậy th́ khách lăng du thuở xưa ngỏ lời tự sự của một ông già ham vui là người vốn ăn chơi ái t́nh lăng mạn từ khi em c̣n bé tí, nay khách đă già nhưng vẫn c̣n tính ăn chơi ong bướm như xưa. Từ ngữ được xử dụng trong bài hát "Bạch phát" mang ư nghĩa là tóc bạc, ám chỉ khách nay đă già nua rồi. Ư thơ cho biết khách ăn chơi nay gặp lại cô bé, nàng đă khôn lớn xinh đẹp, tuổi tác quá chênh lệch nên gặp nhau vẫn cười nói ngượng ngùng. C̣n "Thú Thanh sơn đi lại", ám chỉ nơi hồng lâu tập trung nhiều cô đầu thuộc khu vực Hà Đông - Hà Tây ngày nay. Các câu mưỡu tức câu tóm tắt đại ư trong bài.

 

Như phần trên đă đề cập, nguồn gốc ngành ca trù cho thấy rằng nó có xuất xứ từ nơi cung đ́nh, v́ vậy cái gốc là hát cửa đ́nh thường gồm 3 phần tế tự, thơ ca và múa biểu diễn. Ca trù được biến thiên, phổ cập hóa cho mọi người trong quần chúng thưởng ngoạn. Qua bài hát dẫn dụ tiêu biểu trên của nhà thơ Dương Khuê, bài ca được soạn từ lời thơ thật uyên thâm, trữ t́nh và ư tưởng phong phú. Điều đó đă nói lên nét đẹp của ca trù.

 

 

Nguyên Vũ, Thúy Anh, Anh Bằng, Lệ Hoa và Hoàng Nam.

 

 

Bài viết "Cảm Nghĩ Về Nhạc Dân Gian" của Anh Bằng và Hoàng Nam chỉ lướt phớt qua hai loại nhạc dân gian Bắc phần mà chúng tôi lấy làm thích thú. Qua loại dân ca Quan họ Bắc Ninh được dẫn chứng từ bài hát thịnh hành "Người ở đừng về", rồi nhạc sĩ Anh Bằng lấy ư phổ ra thành bài t́nh ca quê hương, vói tên Ḿnh Ơi Em Chẳng Cho Về. Với loại nhạc dân ca Bắc phần khác là về hát ả đào hay ca trù được tŕnh bày về nguồn gốc và dẫn dụ bài ca tiêu biển “Hồng Hồng Tuyết Tuyết”, cho thấy nét độc đáo của ca trù về sự phối hợp đa dạng, nhịp nhàng giữa thi ca và âm nhạc, và nhiều khi kèm theo hoạt cảnh vũ nữa.

 

Những điệu nhạc dân gian này phản ảnh những t́nh tự văn hoá đáng yêu của dân tộc Việt Nam. Tiếng ca Quan họ hay tiếng hát ả đào đi vào nhạc dân gian, đi vào vào nhạc của quần chúng, có vườn hoa âm nhạc của lịch sử đất nước, bởi v́ một dân tộc có bề dầy về văn hóa không thể thiếu khía cạnh âm nhạc tiêu biểu cho dân tộc đó. Chúng tôi xin chấm dứt ở đây với điều hiển nhiên này.

 

Anh Bằng - Hoàng Nam

 

Tài liệu Tham khảo:

- Tự điển Bách khoa Wikipedia-

- Chim Việt Cành Nam Online

- Trần Quang Hải Website

  

 

Anh Bằng & Hoàng Nam

 

 

 

 

 

       

                   

 

 

 

 

 

Trang XUÂN 2010- Văn Học Nghệ Thuật Và Quê Hương