Làng tôi cách xa thị trấn Ninh Ḥa khoảng một cây số đường chim bay, nhưng
nếu chèo ghe từ Họng Ngă Ba (ở cuối làng) xuôi ḍng sông Dinh chừng 700
mét là cập bến cầu Dinh. Dân làng thường đi đường thủy vào mùa nước lũ để
đưa gạo, bắp, bầu bí, rau đậu… lên chợ Dinh bán và mua về cá thịt, mắm
muối, nhang đèn…
Cách nay trên 350 năm, tỉnh Khánh Ḥa là đất của Chiêm Thành phần nhiều
c̣n hoang dă, đă được quan Cai cơ Hùng Lộc (một vị dũng tướng văn vơ song
toàn của Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần) đem quân vượt Đèo Cả đánh chiếm đặt
tên là dinh Thái Khang, tên đầu tiên của tỉnh Khánh Ḥa. Ngài là vị tiền
hiền đầu tiên, được tiếp nối bởi nhiều vị hậu hiền từng đổ mồ hôi (kể cả
xương máu) để khai sơn phá thạch, lập làng khẩn ấp, góp phần điểm tô vùng
đất này đẹp như một dăi lụa xanh ngát một màu biển núi sông rừng, mà từ
Khánh Ḥa vô đến mũi Cà Mau, có lẽ ít có vùng đất nào hội đủ bốn yếu tố và
xinh đẹp như vậy. Là người xứ Ninh, là dân Khánh Ḥa, đi đâu tôi cũng hănh
diện về quê hương xinh đẹp của ḿnh.
Xứ Ninh quê tôi có hàng trăm ngôi đ́nh để thờ những vị Thần đă được Vua
ban sắc, và hàng trăm ngôi miếu để thờ Tiền hiền khai khẩn, Hậu hiền khai
khẩn, được xây cạnh đ́nh làng. Mỗi năm có hai lần Xuân Kỳ, Thu Tế được tổ
chức long trọng để cúng Thần và tưởng nhớ công ơn của những người đă khai
sinh ra vùng đất thiêng này. Quả là một vùng đất thiêng, một “địa linh
nhân kiệt”, một “xứ trầm hương”, nơi có khói hương bay tỏa, có long chầu
lân phục, có hàng tá địa danh mang tên kỳ bí: Ḥn Bà, Tháp Bà, Miếu Bà,
Lăng Bà, Ḥn Ông, Ḥn Vọng Phu…
Nếu khách du đến thành phố Nha Trang đi thêm 10 km nữa sẽ nh́n thấy bên
kia đèo Rù Ŕ chạy dài đến đèo Cả là non nước xứ Ninh (phủ Ninh Ḥa xưa):
người hiền ḥa, cảnh thơ mộng. Từ thị trấn Ninh Ḥa nh́n lên hướng Tây,
núi Vọng Phu hiện ra sừng sững, ẩn chứa một thiên t́nh sử từng làm say mê
biết bao tâm hồn. Đi về hướng Đông 12 km, Dốc Lết một vùng biển xanh lơ
như ngọc bích, chính biển Nha Trang lừng danh cũng phải giở nón chào thua
băi cát mịn màng trắng tinh như đường cát số một này. Và nếu đi thêm chừng
40 cây số nữa về hướng Bắc th́ du khách sẽ đồng ư với vua Minh Mạng về
việc đă chọn danh lam biển Đại Lănh để khắc vào một trong chín đỉnh trưng
bày tại Đại Nội Huế, một băi biển nằm dưới chân đèo Cả, dựa lưng vào bức
trường thành vĩ đại xuất phát từ núi Ba Non hùng vĩ chạy dài ra tận biển.
Làng tôi tên Điềm Tịnh, hậu thân của Điềm An, nằm kế bên những ngôi
làng có tên xinh đẹp như: Mỹ Hiệp, Vĩnh Phú, Phú Nghĩa, Phú Lễ, B́nh Thái,
B́nh Thành, Xuân Ḥa, Đại Cát, Vĩnh Phước… tất cả đều nằm dọc theo hai bên
bờ sông Dinh, và 3 nhánh: sông Cái, sông Lốt, sông Đục, góp phần tạo nên
phong cảnh Ninh Hoà hữu t́nh:
Ba ḥn bao bọc giữ quê Ninh
Ba nhánh xuôi về một sông Dinh
Ḍng Lốt ngợi ca bao chiến tích
Vọng Phu ghi tạc một thiên t́nh
Đá Bàn, Đập Đúc hồ xanh biếc
Động Cát, Ninh Diêm muối trắng tinh
Thiên Bửu, Ba Hồ bày mọi vẻ
Sáng ngời dung hạnh gái quê Ninh.
(Ninh Ḥa, thơ Vinh Hồ)
Các địa danh mang những chữ “tịnh, an, ḥa, b́nh, nghĩa, phú” nói lên
niềm mơ ước của tiền nhân muốn mưu cầu một cuộc sống an b́nh, no đủ, giàu
có. Nhưng đó chỉ là ước mơ chưa một lần hiện thực của làng tôi.
Làng tôi nghèo nhất trong vùng, bởi nằm ở cuối nước. Nước đập muốn về
làng phải băng qua nhiều làng xă mà “Thượng điền tắt thủy hạ điền khan”.
Hạn th́ làng tôi hạn trước, lụt th́ làng tôi cũng lụt trước. Nằm giữa ba
con sông, mùa mưa nước lũ thoát không kịp, chảy tràn ngập nhà ngập cửa,
cuốn đi bao nhiêu tài sản của dân làng đă cực khổ chắt chiu dành dụm bao
ngày mới có được. Cho nên khi cúng tế, dân làng rất cẩn trọng khi chọn
những vị Chánh tế, Phó tế, Bồi tế, phải là những vị lăo ông đạo cao đức
trọng, đủ vợ đủ chồng, gia đạo thuận ḥa, con cháu phát đạt… để thay mặt
dân làng đứng cúng tế, dâng lên Thánh Thần những lời cầu xin cho xóm làng
được b́nh an no đủ… Nhưng rồi khổ vẫn hoàn khổ, đói vẫn hoàn đói. Nếu
không trộm cấp hoành hành th́ cũng khói lửa triền miên, thiên tai, dịch
họa. Đă vậy lại c̣n thêm cái nạn “mang lạc nát làng” hay “hổ lạc nát làng”
sẵn sàng mang đến cho dân làng những chuyện không may.

Đồn rằng cọp có tai rất thính, nên dân làng chẳng ai dám đụng đến dù
chỉ một lời chửi trộm chửi lén, hay nói tỏi nói hành. Ngay cả cái tên cọp
cũng phải kiêng cử. Cọp là hổ, là hùm, loài động vật họ nhà mèo ăn thịt
sống, lông màu vàng có vằn đen, đuôi dài trông giống như con rắn mái gầm,
móng vuốt sắc tựa dao, một con vật đi bằng bốn chân, nhưng người ta sợ hăi
đến nỗi đă tôn cọp ngang với thần linh, gọi cọp bằng những cái tên đầy tôn
kính như: “Ông Năm, Ông Ba Mươi, Ông Bị, Ông Chằn, Ông Kẹ, Ông Thầy, Sơn
Quân, Chúa Sơn Lâm…”. Trong 12 con giáp, người ta gọi con chuột, con trâu,
con mèo, con rồng… nhưng không dám gọi con cọp, con hổ. Nếu phải gọi đích
danh th́ người ta thêm chữ ông ở phía trước: “ông Cọp, ông Hổ” để tỏ ḷng
tôn kính. Cọp được thần thánh hóa, được thờ cúng, đuợc thể hiện bằng những
h́nh tượng nghệ thuật đầy yếu tố tâm linh. Qua các tranh vẽ, cọp hiện thân
như một vị thần, như một biểu tượng văn hóa tâm linh.
Dân làng có tục lệ cúng “Sơn Lâm Chúa Tướng Lư Nhỉ Tôn Thần” vào chiều
ba mươi Tết và mùng bốn Tết. Chiều ba mươi Tết nhà nào cũng bày lễ vật ra
sân để cúng ông Hổ chung với lễ cúng Tất Niên. Lễ vật gồm chè, xôi, que,
hột, tợ, thêm một con gà trống luộc nguyên con hai chân tréo ngược ra sau
lưng, có cả một xấp giấy hồng đơn in h́nh ông Cọp trông dữ dằn… Chủ gia
thành tâm cầu xin Sơn Lâm Chúa Tướng thương t́nh đi nơi khác làm ăn, đừng
lén phén về làng gây tai họa. C̣n ngày Mồng Bốn Tết (Nguyên Đán) sau khi
cúng đốt giấy tiễn đưa ông bà, cúng Ông Hổ xong, thường dán trước cửa nhà
tờ giấy hồng điều in h́nh cọp màu đen với ḷng tin là Ông Ba Mươi sẽ trấn
giữ nơi cửa, không cho tà ma đột nhập vào nhà hại người. Tranh thờ Ngũ Hổ
gồm: Hắc hổ, Bạch hổ, Xích hổ, Hoàng hổ, Thanh hổ, tượng trưng cho năm vị
Thần Tướng ngự trị tại năm phương. Người ta lập miểu thờ cọp ở những
nơi cọp ưa ra bắt người, gọi là “Miểu Ông Cọp”, cọp được tôn là “Sơn Quân
Chi Thần”.
Chỉ bao nhiêu ấy thôi, cũng đủ thấy đời sống của ông cha ta thời trước
đă khổ sở như thế nào? Khổ vật chất, khổ tinh thần, khổ thể xác, khổ tâm
linh. Dù cọp có bắt trâu, bắt ḅ, hay bắt cả người, th́ người ta cũng chỉ
biết cắn răng chịu đựng. Không dám phản kháng, bày tỏ, không dám nói ra
những nỗi bất b́nh, uất ức của ḿnh. Thế nhưng cọp có thương người bao giờ!
Đêm đêm cọp vẫn ṃ về làng. Cọp về từ những dăy núi xa: núi Ổ Gà, núi Đeo,
núi Hoà Sơn, giồng Cốc… Cọp về để ẩm trâu ḅ và cả người nữa… Ban đêm cửa
đóng then cài kín mít, người nhà có muốn đi tiểu cũng không dám mở cửa
bước ra ngoài. Nghe nói cọp kiên nhẫn ngồi ŕnh dưới mái hiên hay sau xó
bếp cả tiếng đồng hồ, nước miếng đổ xuống đất cả vũng mới chịu bỏ đi. Tại
chuồng trâu, chủ nhà bố trí một hai con trâu đực dũng cảm nằm tại cổng sẵn
sang ứng chiến, thế nhưng sáng ra vẫn thấy mất trâu. Họ đồn cọp có món vơ
phi thân đại tài. Chuồng trâu rào kiên cố bằng những gốc tre chôn sâu, vót
nhọn đầu, cao tới 3 mét, nhưng từ ngoài chuồng, cọp có thể phóng bay vào
bên trong dễ dàng, làm cho bầy trâu kinh hoảng phá chuồng chạy tán loạn ra
ngoài. Cọp nạp theo bắt một con tha đi.
Chiều 30 Tết năm 1946, cả làng đang thành tâm bày lễ vật ra sân cúng
Tất Niên để rước ông bà về ăn Tết với con cháu, th́ ông kẹ không biết xâm
nhập, về làng từ lúc nào, ẩn ḿnh trong đám tranh kế bên cây mít nghệ có
cả trăm tuổi thọ ở phía sau vườn nhà ông nội tôi. Giữa sân, ông nội tôi kê
một cái bàn dài chưng đầy lễ vật, dưới đất một chiếc chiếu hoa cũng chưng
đầy lễ vật. Ông nội tôi áo dài đen, khăn đóng đen, đứng thế nghiêm, hai
tay cầm ba cây nhang đưa lên ngang trán, lâm râm khấn vái… Bà nội tôi và
những người thân trong nhà, cũng khăn áo chỉnh tề quỳ hai bên. Tất cả mọi
người đang tỏ ḷng thành kính th́ có ba tiếng kêu lớn (như phèng la) ngân
dài vang dậy cả một vùng, nghe rùng rợn như tiếng sư tử rống trong sa mạc:
-
À uôm… - À uôm… - À uôm…
Chỉ có ông nội tôi là c̣n b́nh tỉnh để cất lên lời báo động:
-
Chúa Sơn Lâm, Chúa Sơn Lâm về làng. Tất cả hăy mau mau vào nhà nhà đóng
đóng cửa lại!
C̣n
lại, ai cũng ḅ lê ḅ càng. Cái tăng cấp ba bậc, lúc b́nh thường chỉ cần
ba bước là bước lên thềm, nhưng bây giờ cứ bước lên bước xuống cả chục lần
mà không lên được. Mặt ai cũng tái lét như gà cắt tiết không c̣n một chút
máu. Miệng cà lăm cà lắp trông thật tội nghiệp…
Sau khi đóng cửa đâu
đó xong xuôi, Ông nội tôi chạy xuống đồn (địa điểm tại nhà Ông Năm Tương
bây giờ) báo cho lính đồn biết. Trưởng đồn cho một tiểu đội súng ống đàng
hoàng, chia làm hai mủi tiến lên bao vây đám tranh và bắn hạ Ông Ba Mươi,
kéo xác ra để nằm dài bên đường cho dân làng xem. Thân ḿnh cọp dài 2m50,
không kể cái đuôi dài gần 1 mét, nặng trên 200kg.

Có lẽ cọp bị giết vào chiều ba mươi Tết, nên cọp có tên là Ông Ba Mươi
chăng?
Tuy cọp đă chết, nhưng người ta vẫn cứ xầm x́ với nhau ḷng đầy hoang
mang lo lắng: “Hổ lạc nát làng, c̣n hơn cả mang lạc nát làng”. Mang là con
hoẳng, thú rừng thuộc nhóm nhai lại, lông màu vàng đỏ như lông ḅ, nhỏ hơn
con nai rất nhiều, mặt luôn dớn dác.
Mang lạc rủi ro thế nào th́ tôi không biết. Chứ cọp lạc th́ có xui xẻo như
thế này. Chỉ mấy tháng sau ngày cọp chết, lính lê dương Pháp (lính đánh
thuê người nước ngoài đa số từ châu Phi như Ma -Rốc… trong quân đội viễn
chinh Pháp) từ mặt trận Ban Mê Thuột theo hướng Quốc lộ 21 tràn về Ninh
Ḥa đông như kiến. Chúng mở cuộc hành quân càn quét từ thị trấn Ninh Ḥa
đánh thốc lên vùng mật khu Đá Bàn của Việt Minh. Trên đường tiến quân,
chúng băng qua làng tôi. Hầu hết dân làng gồng gánh bỏ chạy gọi là “đi tản
cư”, khổ cực nhất là đàn bà có con nhỏ hay bụng mang dạ chửa. Má tôi mang
bầu tôi chạy trong đám tản cư đó. Khi lên tới làng Phú Văn th́ bà sanh non
ra tôi. Ai cũng nghĩ là tôi không sống, nhưng nhờ bà con giúp đỡ tận t́nh
nên tôi đă sống và sống đến ngày nay. Má tôi nói khi sanh tôi ra, tôi chỉ
có một chút xíu như con mèo con và đă khóc suốt ngày suốt đêm, nên được
tặng cho một cái tên chẳng tốt đẹp ǵ là thằng Hét. Tiếng khóc dài báo
trước một định mệnh trôi nổi đau thương của đời tôi sau này.
C̣n lại một số ít dân làng, không chạy kịp, nằm tại nhà, phó mặc cho
định mệnh, đa số là đàn bà con gái, chẳng khác ǵ những miếng mồi ngon
treo trước miệng cọp. Bọn lính lê dương rạch mặt, đói khát t́nh dục, tha
hồ hảm hiếp chẳng chút tiếc thương! Thằng Lô to con nhất làng, bạn thời
tiểu học của tôi, đă được má nó thụ thai trong hoàn cảnh bi thương này,
nhưng vẫn được ba nó chăm sóc thương yêu như con ruột. Bọn giặc Tây trước
khi rút ra khỏi làng, c̣n nhẫn tâm phóng lửa đốt mấy chục mái tranh. Ngôi
chánh điện chùa Thiên Bửu cũng cùng chung số phận. Tấm bảng “Sắc Tứ Thiên
Bửu Tự” được Vua ban cho ngôi chùa cổ nhất nh́ trong vùng (có cây me gốc
to bằng năm người ôm không xuể) treo trước chánh điện cũng bị cháy rụi.
Lớn lên, nghe kể chuyện “hổ lạc nát làng”, tôi cảm thấy thương cho làng
tôi quá! Tôi nhớ thuộc ḷng những câu đồng dao mà dân làng ai cũng thuộc
nhưng chẳng biết ai là tác giả:
- Điềm Tịnh, Điềm Tịnh cùi,
Ăn mắm mút gịi đội nón mo cau.
- Trời mưa trời gió đùng đùng
Cha con xách thùng đi lượm cứt trâu
Cứt trâu về đổ lổ bầu
Mong trâu mau lớn, mong bầu ra sai.
Tôi cũng nghe câu:
- “Cọp Khánh Hoà, ma B́nh Thuận”.
Tại Cam Ranh, Diên Khánh, Vĩnh Xương cọp nhiều không? Chứ xứ Ninh quê
tôi th́ cọp nhiều lắm! Cọp bắt người tại Đèo Rọ Tượng, tại Đèo Bánh Ít,
tại Đèo Cạnh, tại Dốc Đá Trắng và nhiều nơi khác. Cọp về thăm làng tôi vào
đêm ba mươi Tết. Cho nên nếu nói đến cọp Khánh Hoà th́ phải nói đến cọp Xứ
Ninh quê tôi, vùng đất từ Đèo Rù Ŕ ra đến Đèo Cả mà ngày xưa Quan Cai cơ
Hùng Lộc đặt tên là phủ Ninh Ḥa, một vùng núi non trùng điệp, cũng là cái
mái nhà của xứ Trầm Hương. Mà nói đến xứ Ninh th́ phải nói đến núi Ổ Gà,
nơi nhiều cọp nhất nên mới có câu tục ngữ:
-“Cọp Ổ Gà, ma Đồng Cháy”.

Vinh
Hồ
14/1/10


Trang XUÂN 2010- Văn Học Nghệ Thuật
Và Quê Hương