Tôi
đến và đi khỏi Trung Học Ninh-Ḥa vào cuối mùa xuân. Đó là khoảng thời
khắc chuyển tiếp giao mùa khi cây phượng đầu góc trường trổ bông hoa hàm
tiếu dưới nắng ban mai. Khoảng thời gian đến và rời xa cách nhau gần
tṛn năm năm.
Tôi bắt đầu
bước vào nghề từ 1958 trải qua nhiều nhiệm sở dọc theo duyên hải
miền trung và Trung học Ninh-Ḥa là nhiệm sở cuối cùng của tôi.
Giai đoạn in rơ nét nhất của quăng đời gắn bó với giáo dục là
thời gian cùng với các bạn đồng nghiệp sống dưới mái trường bên
ḍng sông Dinh trôi êm ả.
Sự gắn bó với
nơi chốn cũ không nhất thiết bắt nguồn từ sự dang dở sự nghiệp
và phải rời xa đột ngột do cảnh đổi đời hoặc do nỗi nhớ nhung
h́nh ảnh trường cũ mỗi độ xuân về v́ b́nh thường một giáo chức
Trung học trước 1975 có nhiều lần thay đổi nhiệm sở do sự phát
triển số trường cũng như số lớp của ngành trung học. Sự thay đổi
này do nguyện vọng của cá nhân hoặc do nhu cầu công vụ …Cho dù
cuộc sống của nhà giáo không giống như quân nhân đời quân ngũ
nay đây mai đó nhưng vẫn có sự đổi thay và di chuyển nên mỗi một
nhiệm sở như là một ga tạm trên hành tŕnh của một con tàu.
H́nh ảnh ga
tạm Trung học Ninh-Ḥa luôn đậm nét và sống dậy mănh liệt từ
tiềm thức những đồng nghiệp chúng tôi như h́nh ảnh núi non hùng
vĩ của dăy Trường sơn, h́nh ảnh hàng dừa cao, lũy tre xanh, đồng
ruộng vàng mơ mùa lúa chín vào buổi b́nh minh hay hoàng hôn dưới
bầu trời trong xanh trong nắng hạ. Đối với đồng nghiệp chúng tôi
những kỷ niệm về trường cũ tưởng chừng như phai tàn theo thời
gian do phong ba của cuộc sống hay do sự thăng trầm của vận mệnh
dân tộc nhưng không kỷ niệm từ trong tiềm thức đă sống dậy mănh
liệt như thủa ban đầu lưu luyến ấy. Qua cái nh́n mặt hay qua
h́nh ảnh thầy cũ tṛ cũ mà người ta tưởng chừng không bao giờ
c̣n tái ngộ nữa th́ người ta mới thấy mùa xuân đang trở lại.
C̣n cá nhân
tôi, tôi nhận Sự vụ lênh đến nhiệm sở mới Trung học Ninh-Ḥa vào
trung tuần tháng 4 – 1970. Khoảng thời gian nầy là lúc năm học
sắp kết thúc, tôi đang phụ trách lớp 12 nên cần đi cho hết
chương tŕnh của năm thi tú tài phần 2 –năm cuối cùng của bậc
trung hoc - Nếu đến trường mới th́ ngại nhất phải lo tổ chức kỳ
thi tuyển học sinh vào lớp 6. Đây là kỳ thi tuyển phức tạp và dễ
bị tai tiếng nhất v́ thường do số lớp có hạn nhà trường chỉ nhận
30% tổng số học sinh tiểu học dự thi. Sau kỳ thi tuyển học sinh
tiểu học vào lớp sáu, các kỳ thi tú tài phần 1 rồi tú tài phần 2
tập trung ở các thành phố lớn, mỗi tú tài đều có hai kỳ thi cho
mỗi năm học nên đa phần giáo sư trung học dạy lớp thi gần như
không có kỳ nghỉ hè được trọn vẹn. Với lư do đó ông Hiệu trưởng
đồng ư tôi ở lại trường cũ hết năm học khoảng giữa tháng sáu,
hơn nữa tôi đă ở nơi nầy đến bảy năm th́ nán thêm một vài tháng
có sao đâu.
Thế nhưng gần
nửa tháng sau tôi nhận được công điện khẩn của Bộ Giáo dục ở Sài
G̣n : trong nội dung công điện ông Tổng Trưởng Bộ Giáo dục chỉ
thị cho tôi đến nhận nhiệm sở mới gấp không được chậm trễ. Ông
Tổng Trưởng c̣n yêu cầu Hiệu trưởng cũ của tôi báo cáo ngày tôi
rời nhiệm sở. Đường bay Quảng Ngăi – Nha Trang mỗi tuần chỉ có
một chuyến nên tôi phải đi hai chuyến bay Quảng Ngăi – Sài G̣n
rồi từ Sài G̣n đi Nha Trang.
Từ bến xe
Ninh-Ḥa bên kia cầu sông Dinh tôi đi ngược lại vào thị trấn để
t́m đến Trường. Trường học mà tôi t́m đến nằm cạnh sân vận động
là Trường Trung học Bán công Ninh Ḥa. Đó không phải là nhiệm sở
mới của tôi, tôi lại đi tiếp cuối cùng th́ tôi đă đến nơi. Lúc
nầy th́ Trường học vắng tênh v́ giờ tan học đă quá lâu. Những
ngày kế tiếp chưa có công việc ǵ v́ công việc cuối năm đă đi
vào hoàn tất. Khi hoàn tất thủ tục bàn giao th́ kỳ nghỉ hè bắt
đầu, tôi lại tiếp tục công tác coi thi chấm thi, lại di chuyển
từ Sài G̣n ra trung hoặc đến tận miền tây do đó thời gian nghỉ
hè không c̣n bao nhiêu. Song trong khoảng thời gian nghỉ hè
không liên tục đó, trong cái tĩnh mịch của ngôi trường dưới nắng
hạ lung linh, nhạc ve sầu từ xa vọng lại tôi t́m được không khí
thanh b́nh nơi vùng đất bao quanh bởi Trường sơn hùng vĩ và đại
dương bao la. Cái tĩnh mịch nầy khác xa với cái u tịch của ngôi
trường chưa mở cửa lại v́ trận chiến chưa tàn đâu đó mà giao
thông c̣n trở ngại. Tôi tiếp tục tận hưởng những chiều hè nơi
thôn dă xa thị tứ. Đó là thôn Phú Ḥa trong nắng chiều dịu mát
xuyên qua hàng cau thẳng tắp. Gió ŕ rào từ lũy tre xanh, từ
hàng dương đầu ngơ lướt nhẹ trên những cánh đồng mạ non hoặc
tràn đầy lúa chín vàng mơ mênh mông đến tận chân trời, phía trên
những cánh c̣ trắng bay lượn trên bầu trời trong xanh đang
chuyển qua màu xanh sẫm dưới màu nắng nhạt. Hoàng hôn xuống dần,
khói lam chiều từ những mái ngói rêu phong cổ kính tỏa nhẹ rồi
tan dần trong không trung, tiếng ḥ ru con, những khúc hát trữ
t́nh từ xa vọng lại hợp thành ḍng nhạc trầm bổng như phát ra từ
một bức tranh tuyệt mỹ và sống động dưới ánh trăng mát dịu dần
dần tỏa khắp không gian.
Từ khung cảnh
hữu t́nh từ đó mới h́nh thành vũ khúc Trăng Mường Luông do Ông
Hiệu Trưởng Trần Chu Đức làm đạo diễn. Nghe nói một nữ sinh vũ
công trong đoàn vũ về sau trở thành phu nhân của người “ chiến
binh xa gia đ́nh “ Người nữ sinh đó lấy chồng đời chiến chinh mà
phải hai lần ca bài:
Con c̣ lặn lội bờ sông,
Gánh gạo đưa
chồng tiếng khóc nỉ non,
Nàng về nuôi
cái cùng con
Cho anh đi
trẩy nước non Cao bằng
( Nguyễn công Trứ )
Lần thứ nhất
Nàng cầu xin chồng b́nh an trong “tràng
tên đạn xin chàng bảo trọng “
C̣n lần thứ
hai th́ chàng cũng trẩy nước non Cao Bằng (miền Bắc Việt Nam)
nhưng khác hẳn người chiến binh thế kỷ 19 theo tướng quân Nguyễn
công Trứ đi đánh Nông văn Vân mà lần nầy chàng mang thân tù tội
của kẻ thua trận như hai cha con Nguyễn phi Khanh - Nguyễn Trăi
nơi biên ải Nam quan 600 năm trước đây, nàng chỉ cầu xin trong
vô vọng như bao thiếu phụ có chồng đang tù tội nơi miền bắc xa
xăm biền biệt mà ngày về th́ vô định. Song như Thi sĩ Nguyễn
công Trứ đă nói “ ḿnh trong sạch có quỷ thần a hộ “. nên người
chiến binh năm xưa và gia đ́nh đă đoàn tụ nơi phương trời tây
trong quăng đời c̣n lại. Từ đồng nội chúng tôi c̣n có dịp theo
tàu của duyên đoàn ra du ngoạn hay cắm trại ngoài đảo xa hoặc
dưới hàng dừa xanh mướt bên dọc theo bờ biển cát trắng tinh như
dải lụa khổng lồ trải dài đến tận chân trời. Nơi đây tôi đă t́m
lại h́nh ảnh đẹp lư tưởng của tuổi học tṛ thủa hoa niên trong
tiểu thuyêt thời tiền chiến hoặc thời gian thanh b́nh ngắn ngủi
từ 1954-1963.
Thời gian
nghỉ hè chóng qua ngôi trường như trong giấc mơ hoa bừng tỉnh
khi ánh b́nh minh hay tiếng sơn ca vọng qua khung cửa tiễn đưa
con cuốc gọi hè. Đó là năm học bắt đầu, thời gian dần trôi mùa
xuân của Đất Trời, của tuổi đời lại đến Cảnh trí bên ngoài như
dần đổi thay trong ḥa nhịp vào mùa xuân của vũ trụ theo chu kỳ
của thời tiết. Riêng trường chúng tôi th́ mùa xuân đă bắt đầu
khi mùa mưa chấm dứt, khi thi lục cá nguyệt vừa xong, những sinh
hoạt văn nghệ thể thao diễn ra bên ngoài bốn bức tường của lớp
học. Trong không khí an b́nh nơi học đường, t́nh thân ái giữa
chúng tôi giữa đồng nghiệp, giữa thầy tṛ bền chặc, nhờ những
sinh hoạt dă ngoại như thế đó. Trong không gian bên ngoài bốn
bức tường bao quanh không khí trang nghiêm của lớp học, thầy tṛ
chúng tôi có những sinh hoạt lành mạnh, phần nào thực hiện sự đa
dạng và khai phóng của nền giáo dục trong đó có hướng tới “ Một
Linh Hồn Trong Sạch Trong một Thân Thể Tráng Kiện “. Từ những ân
t́nh gắn bó, những kỷ vật sống ; những cành mai vàng xuất hiện
đầu ngỏ, mái ngói rêu phong khuất sau hàng dương liểu ŕ rào như
cất tiếng ca :
Mai Sau Dù Có Bao Giờ hăy giữ cho t́nh
bền vững, cho mái trường thắm đậm yêu thương.
Trung Học Ninh Ḥa ngàn đời mến yêu.
(Thềm Văn – Trung Học Ninh-Ḥa 1973 - Lời
mở đầu)
Được như thế
do ngôi trường có cái may mắn nằm nơi thị trấn hiền ḥa thanh
b́nh của Miền Nam trong cơn binh lửa thời đó. Ngay những lúc
cuộc chiến đến hồi khốc liệt như mùa hè đỏ lửa năm 1972 sinh
hoạt của Trường vẫn diễn tiến đều đặn như thể :
“ Bầu trời vẫn xanh và cao vời vợi
Hoa phượng vẫn nở rực mùa hè “
Nắng hạ rồi
gió xuân đi rồi đến trong không khí thanh b́nh…Rồi một mùa xuân
lại đến cách nay tṛn 35 năm-hơn một phần ba thế kỷ - Đó là mùa
xuân mở đầu cho khúc quanh lịch sử của dân tộc –phân ly, xa cách
giữa người với người – Năm học đó cũng như những năm học đă qua
trôi qua trong suôn sẻ và đều đặn nghĩa là khi mùa mưa vừa dứt,
khí trời mát hoặc se lạnh vào buổi tinh sương th́ những buổi
tranh tài văn nghệ thể thao diễn ra sôi nổi giữa các trường
trung học phía bắc tỉnh Khánh Ḥa, tiếp đến các cấp lớp tổ chức
kỳ thi bán niên lần thứ nhất vừa hoàn tất, th́ không khí mùa
xuân bắt đầu trở về : mặt trước cổng trường rộn rịp hẳn lên
những tà áo trắng ra vào, những chuỗi cười hồn nhiên ṛn rả từ
trái tim của những khuôn mặt rạng rỡ mà mộng đời chưa hề tan vỡ.
Trong sân trường trước các lớp học nhiều màu sắc rực rỡ của bích
báo xuất hiện khắp nơi, đó đây có những buổi thực tập những màn
ca vũ nhạc kịch chuẩn bị cho ngày tất niên trước khi tạm xa
trường khoảng mười hôm.
Trong không
khí rộn rịp đón xuân như thế mà trong ḷng các đồng nghiệp chúng
tôi dường như cùng mang một nỗi u buồn vô cớ. Những nét mặt đăm
chiêu như báo trước đây là cuộc vui xuân cuối cùng nơi ngôi
trường nầy khi nghe ca sĩ Doris Day ca bài …” Que sera, sera …”
Rồi mấy tháng sau tết âm lịch chuyện phân ly, phân tán đă trở
thành sự thật. Một buổi chiều tan học cuối tháng 3 -1975, tôi
dạo quanh thị trấn xem t́nh h́nh th́ thấy không khí chiến tranh
bao trùm, đoàn thiết giáp cũng như tiểu đoàn dù chia nhau trấn
đóng các địa điểm trọng yếu, người dân thị trấn tất tả ngược
xuôi nhanh chân về nhà như trốn chạy. Tuy cùng tâm trạng như họ
nhưng sự hiện diện của người chiến binh VNCH làm tôi vững tâm
hơn, tôi vẫn chậm rải ghé lại những nơi quen biết hỏi thăm tin
tức t́nh h́nh rồi mơi trở về nhà.
Tối hôm đó là
một đêm không trăng lại không đèn, đêm mà chúng tôi được báo tin
qua đài phát thanh : Đà Nẳng đă mất ( thật ra th́ xe tăng của
cộng quân đă tràn ngập thành phố Đà Nẳng từ 1 giờ trưa ). Thế là
vùng lănh thổ từ vĩ tuyến 17 đến Đèo Cả ( ranh giới giữa hai
tỉnh Phú Yên-Khánh Ḥa ) thuộc về cộng sản Bắc Việt.
Một sáng thứ
hai 31-3-1975, trường chưa mở cửa trở lại v́ học sinh c̣n nghỉ
lễ Phục sinh th́ ngoài đường cảnh hỗn loạn xẩy ra từng đoàn
người lủ lượt chen chúc chạy về phía nam. Trong sân trường một
số giáo chức và nhân viên văn pḥng hỏi về chuyện ngày mai
1-4-1975 khi học sinh trở lại, tôi phải tuyên bố trong bước
đường cùng là năm học chấm dứt hôm nay và tôi chịu hoàn toàn
trách nhiệm với cấp trên ( Bộ Giáo Dục của thể chế VNCH ) về
việc làm của tôi ngày hôm ấy. Xin mọi người hăy về nhà lo công
việc gia đ́nh. Tất cả chúng tôi đều rơi lệ trong buổi chia tay
nầy. Sau nhiều gian lao vất vả nhiều lần gặp nguy khốn gia đ́nh
chúng tôi mới đến được Vũng Tàu ngày 6-4 -1975. Rồi ngày
30-4-1975 đến – ngày buồn thảm nhất của thế kỷ đối với quân dân
Miền Nam. Trong cơn lốc đổi đời, tù tội - cuộc sống cơ cực của
gia đ́nh, tôi đều nếm mùi tận khổ kinh qua mà thân tâm th́ bị
lưu đày trên chính quê hương của ḿnh. Không chịu nỗi cuộc sống
hiện tại và tương lai vô vọng tôi phải học đ̣i thiên hạ làm thân
“ cột đèn biết đi. “Đi măi rồi đi măi mà không thấy tới nơi chỉ
thấy hao tốn, mất mát, tú tài thành tái tù. Sự hiện diện của
thân xác “ cột đèn biết đi “ nơi bán đảo tạm cư ngoài Thái B́nh
dương chỉ là giấc mơ. May nhờ vợ con tảo tần
“ Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi cả bầy con lẫn mụn chồng “
( Trần Tế Xương )
Nên cuộc sống
khoai, ngô, bo bo cũng tạm qua ngày.
Cuối cùng th́
được phép nộp văn bằng “ CỬ NHÂN CẢI TẠO “ (!)( Giấy Ra Trại )
loại ba năm để ra đi. Rồi một đêm cuối mùa thu trên chuyến bay
rời Tân sơn nhất đi Seoul tôi như người survivor nh́n ánh đèn
của phố phường mờ dần bên dưới mà tủi thân.
Giờ đây, ngồi
hồi tưởng những năm tháng qua kể từ cuối tháng tư đen, ḷng tôi
không khỏi xao xuyến bùi ngùi, theo ḍng thời gian giáo dục cuốn
theo khúc quanh lịch sử của Đất Nước và Dân Tộc, thầy tṛ chúng
tôi phải xa cách trôi giạt khắp mọi miền Đất Nước hoặc theo sóng
gió ngoài biển cả lưu lạc bên kia bờ đại dương, nếu có cơ hội
gặp nhau hay có cơ hội hồi tưởng, nên trân quí những giây phút
ngược ḍng thời gian như thế. Đó là những mùa xuân không mang
tên của mười hai con giáp mà sống dậy từ những con tim và chúng
ta trẻ lại như tuổi hoa niên cho dù trong lẽ vô thường của cuộc
sống mà chúng ta không khỏi ngậm ngùi v́ tuổi trẻ trưởng thành
trong chiến tranh theo chiều dài của lịch sử Dân tộc gần bảy
thập niên từ 1945 đến nay có nhiều chuyện buồn hơn vui.
Ba mươi lăm mùa xuân kể từ tháng tư đen,
nhớ lại những h́nh ảnh đă qua ḷng không khỏi bùi ngùi xao xuyến
cho dù cuộc sống vẫn tiếp tục và trôi chảy như ḍng sông trôi về
biển cả và một người không thể tắm hai lần trên một ḍng sông.
Như trường hợp một đồng nghiệp của chúng tôi, Anh Cao đ́nh Đăi
cựu Giám Học sống ở Cam Ranh xa nơi hội ngộ non 100 km, thế mà
suốt 15 lần hội ngộ, 15 lần Anh Đăi hứa về tham dự, vẫn chỉ là
lời hứa và cuối cùng lời hứa không bao giờ thực hiện được v́ Anh
đă vĩnh viển ra đi. Giờ đây nhờ có không gian ảo làm ngôi nhà
chung hội ngộ vượt thời gian và cả ngàn trùng xa cách. Chúng tôi
có những mùa xuân mỗi lần hội ngộ dưới mái nhà chung đó, nơi đây
thời gian như ngừng trôi do chúng tôi không c̣n:
…” phải để thật lâu những tờ ghi kỷ niệm,
Và vội lật những tờ sầu …”
( Tấm Lịch )
Từ
nơi nầy h́nh ảnh h́nh ảnh trường cũ hiện ra với những bóng dáng
lời nói tiếng cười trong sáng. Những h́nh ảnh đó như giọt sương
mai óng ánh đọng trên cành chỉ cần lay động nhẹ, no sẽ tan biến
đi. Trong cái bất động đó chúng tôi đă t́m lại những mùa xuân./.
Mùa
xuân thứ 35 kể từ tháng tư đen.
2/02/2010
Trần
Hà
Thanh