Để tưởng nhớ đến một thời đă qua…
Đó là ngôi nhà cũ, xây từ thời Pháp vùng Chợ Lớn, nằm đằng sau nhà thương
Chợ Rẩy, ở ngả tư đường. Con đường với những cây dầu cao thẳng tắp, buổi
chiều cành lá xào xạc với gió, hoa dầu rơi rụng, trái dầu cánh nâu đỏ xoay
vần trong không trung trước khi vươn văi trên mặt đường tráng nhựa. Chính
ở đây tôi đă sống hầu như trọn thời niên thiếu đi học, đi làm cho tới ngày
vượt biên.
Mái ấm của tuổi thơ
Cổng chính vào nhà có cây cổ thụ Vàng Bạc cành lá xum xuê, xanh mởn như
màu mạ non làm mát rượi và sáng cả một góc sân. Sát bên là cổng nhà của
một viên chức cao cấp, có người canh gát hằng ngày. Anh gát cổng quen lệ
ngồi trực ở phía cổng bên kia từ sáng sớm cho đến khi xe ông lớn đi ra,
sau đó hầu như trọn ngày kéo ghế sang ngồi “gát cổng” nhà tôi chỉ v́ bóng
mát cây Vàng Bạc quyến rủ. Đến khi xe ông lớn gần về, anh mới quay lại chỗ
cũ.
Vườn nhỏ bọc quanh nhà có những vồn cây ác ó cắt tỉa thẳng tắp, bên trong
là những cây hoa nhành, thủy tiên, hoa sứ, trước đào. Ngay ở góc đường,
dựa vào bờ tường , nơi có mấy cây thủy tiên hoa vàng mát rượi, là một sạp
báo nhỏ. Lúc bé, thỉnh thoảng tôi ra đó để “coi báo cọp”. Tôi mê nhất là
tờ Điện Ảnh của ông Nguyễn Ngọc Linh, chuyện phim được viết lại dưới dạng
chuyện ngắn rất hay. Ngoài những tin tức, bài viết về tài tử phim ảnh, c̣n
có nhiều chuyện dài, chuyện ngắn, phóng tác của các văn sĩ có tiếng thời
đó như Thanh Nam, Văn Quang, Hoàng Hải Thủy vv... Khi mua đủ số, tôi đem
đến tiệm đóng sách gần nhà nhờ làm thành một quyển dày có b́a cứng, rồi
thỉnh thoảng đọc lại không biết chán.
Ba tôi làm việc ở xa, có lần mang về cây Dạ Lư Hương rồi trồng ở khoảng
đất trước cửa sổ pḥng ngủ. Cây lớn nhanh với những hoa trắng nhỏ hương
thơm ngào ngạt. Ba thích lắm, giao tôi phận sự tưới cây hằng ngày. Thuở ấy
cỏn nhỏ, nghe nói trồng cây này có cơ ma tu tập quanh nhà, tôi bị ám ảnh,
nhất là những tối sáng trăng, mùi hương ngát toả vào pḥng. Nh́n ra cửa sổ,
cành lá hoa Dạ Lư la đà với gió, tôi tưởng tượng đủ mọi h́nh bóng, sợ gần
chết, không sao ngủ được. Sáng lại tôi âm thầm làm theo ư của ḿnh là từ
đó không tưới cây nữa, để nó chết khô dần. Giờ nghĩ lại, thấy ḿnh thiệt
ác.
Nhà to rộng nhưng bất tiện v́ nhà cầu ở phía ngoài, sát bên cửa phụ đi
xuống bếp; nhà tắm, nhà kho nằm cách biệt bởi môt sân nhỏ nuôi gà vịt và
trồng cây ăn trái như xoài, ổi và mấy bụi sả, lá lốt, rau thơm...thay đổi
tùy thời. Lối đi từ nhà chính tới bếp được tráng xi măng, có mái tồn che
mưa nắng, phủ đầy hoa Bông Giấy đỏ thắm. Có khi, dàn mướp được dựng lên,
sai trái. Những trái mướp dài ḷng tḥng, vặn vẹo. Buổi tối dưới ánh trăng,
trông giống như những con rắn đang thả ḿnh yên lặng chờ mồi.
Nhà tôi là trạm dừng chân cho bà con, bạn bè từ miền Trung muốn về lục
tỉnh hay ngược lại, ghé thăm Sài g̣n đôi ba bữa rồi tiếp tục đi. Khách từ
cổng muốn vào nhà bằng cừa chính th́ phải rẽ sang phía trái ngang vườn hoa.
C̣n người quen biết th́ cứ đi thẳng qua vườn sau là gặp cửa phụ lên nhà
trên hay tới chiếc bàn kê gần bếp, ngồi tṛ chuyện với người nhà vừa ngắm
cây, ngắm cảnh nhất là vào những buổi chiều tắt nắng. Nhớ biết bao cái
thuở thơ ngây tuổi dậy th́, c̣n thích nhảy dây, chơi c̣ c̣ nơi vườn sau
với các em, nhưng hể thấy mấy cậu trai hàng xóm ngấp nghé đi ngang th́ mắc
cỡ, vội vàng chạy núp sau mấy bụi cây. Cũng chính nơi đây, tôi đă có lần
làm bộ như người lớn, đốt lá thư làm quen của một cậu nhỏ từ Đà Lạt, đă
biết tôi khi về Sài G̣n thăm bà con trong vùng.
Góc ngă tư phía bên kia đường là một nhà hàng Tàu khá khang trang. Mới
sáng tờ mờ là đă nghe tiếng hát “léo nhéo” của mấy cô ca sĩ Trung Hoa từ
máy phát thanh của tiệm vọng qua. Hồi nḥ, tôi thường hay xách tô qua mua
hủ tiếu về ăn. Cứ nh́n chú Tàu hớn hở xóc xóc luộc bánh bỏ vào tô, bốc một
nhúm thịt chỗ này, một muổng tóp mỡ chỗ kia, một nhúm giá, nhúm hành chỗ
nọ… để tô điểm cho tô hủ tiếu đầy hương vị, rồi tưới nước lèo nghi ngút
khói, chưa ăn mà đă thấy ngon rồi.
Đi xa hơn một chút, gần hảng bia la ve, là một tiệm phở mà chủ nhân gia
đ́nh người Tàu nói tiếng Bắc. Chị em tôi đều thích ăn phở ở đây. Ngày xưa
ăn ǵ ḿnh cũng thích nước “béo” chứ không như bây giờ. Tôi hay dặn bà chủ
“ cho tui nhiều nhiều nước béo nghen bà”. Thế rồi một hôm , xách tô đi mua,
về nhà ăn mới té ngữa, không có “nước lèo” mà toàn là “nước béo”. Có lẽ
tôi dặn quá kỹ nên khi múc bà đă vô t́nh hớt đầy nước mỡ. Từ đó về sau ,
hết c̣n dặn ḍ nước béo nữa.
Biến đổi theo thời cuộc
Ngôi nhà cũ ghi dấu biết bao biến cố. Tết Mậu Thân 1968, đêm giao thừa
pháo nổ vang rền. Sáng dậy, cảm giác có điều ǵ khác lạ. Nh́n ra vườn,
bỗng thấy mấy ông lính Mỹ, núp sau bờ tường, chỗ sạp báo, chỉa súng về
hướng bên kia. Khi tiếng súng đă tắt, có tiếng nói, tiếng la bên ngoài,
chúng tôi mới dám ló mặt ra. Lính tráng đầy đường, phía bên kia, mấy cán
bộ Cộng sản ăn mặc thường phục hai ba lớp trong người từ trong ngỏ hẻm ra
đầu hàng. Lúc đó mới biết Việt Cộng đă tấn công Sài G̣n từ đêm qua, tiếng
súng ḥa trong tiếng pháo mừng xuân không ai ngờ được.
Thế rồi sân trước, sân sau nhà tôi trở thành nơi lính đóng quân một dạo.
Mấy anh lính xa nhà tử tế, gạo sấy, đồ hộp Mỹ th́ không thèm, đem ra chợ
đổi lấy gạo ta ăn với trứng vịt luột, nước mắm, x́ dầu. Sau thời gian đó,
đài Truyền h́nh VN thỉnh thoảng ch́ếu lại những đoạn phim thời sự cảnh
tượng đau ḷng đă xảy ra trong những ngày Cộng Sản tấn công quy mô vào
miền Nam nhất là cố đô Huế, nơi bị chiếm đóng lâu nhất. Tôi vẫn c̣n nhớ dư
âm của bản nhạc đệm trong thiên phóng sự. Ḍng nhạc buồn dào dạt cuộn dâng
như chia xẻ nỗi khổ đau với những người sống sót trước đống xương tàn của
thân nhân, được t́m thấy trong mồ chôn tập thể.
Những năm tiếp theo, phong trào phản chiến ở Mỹ đă trở nên mạnh mẽ, làm áp
lực mạnh, nhất là vào dịp bầu cử. Họ đ̣i rút quân Mỹ ra khỏi Việt Nam, làm
t́nh h́nh càng thêm bất lợi qua chương tŕnh Việt Nam Hóa Chiến Tranh gấp
rút. Thật căng thẳng cho quân dân miền Nam trong trận chiến chống xâm lăng
cùa Cộng Sản từ phương Bắc. Có lẽ không ai quên được Mùa hè Đỏ lửa năm
1972.
Kinh tế trong nước kiệt quệ. Khi chính phủ ông Thiệu ra đạo luật “ Người
cày có ruộng” năm 1973 th́ Thương Phế binh cũng biểu t́nh đ̣i có nhà. Lợi
dụng cơ hội này, nhiều người t́m đất cắm dùi, ngang nhiên dựng lều ngay
trước mặt nhà người ta. Ba tôi sợ điều này nên cho trồng thêm hàng cây
Hoàng Hậu ngoài bờ tường phía có cổng. Những cây này lớn nhanh, lá to xanh
bàng bạc với hoa tím rợp mát cả một vùng. Sau này một quán cà phê cắm dùi
bên lề đường và dựa vào hàng cây này mà đắt khách.
Đó là thời “Kiệm ước song hành”, phải thắt lưng buộc bụng. Muốn có thêm
chút tiền, gia đ́nh tôi cho thuê một nửa vườn trước để ông Tàu làm hăng
sửa xe hơi. Cả ngày tiếng thử máy, tiếng đập gơ inh ỏi, mùi hàn, mùi sơn,
mùi khói xe tràn ngập vào nhà. Thế là sân sau, nhà bếp, bộ bàn ghế kê sát
đó trở thành trung tâm sinh hoạt ban ngày của gia đ́nh.
Năm 1974, Ông Ford lên thay Tổng thống Nixon sau vụ Water Gate, tuyên bố
rút hoàn toàn quân Mỹ ra khỏi Việt Nam trong ṿng 60 ngày. Đến năm 1975,
viện trợ quân sự, kinh tế cắt giảm, t́nh h́nh miền Nam càng thêm bi đát.
Nhờ phong trào phản chiến nơi xứ Mỹ, Cộng sản đă thắng lớn trên mặt trận
chính trị, gia tăng các hoạt động phá hoại, thảy bom, khủng bố, đặt ḿn. Ở
nơi nhà tôi mà đêm đêm vẫn nghe tiếng bom rầm ŕ vọng lại, hỏa châu thắp
sáng bầu trời.
Thế rồi Cộng sản thật sự tấn công mạnh vào Nam Việt Nam. Tháng 3 năm 1975,
các tỉnh miền Trung mất dần, dân quân mạnh ai nấy chạy, t́m đường thoát
thân về miền Nam, tạo nên một cảnh tượng hỗn loạn. Lúc đó nhà tôi trở
thành nơi dung thân, tị nạn cho một số gia đ́nh bà con từ miền Trung. Buổi
tối, mùng chiếu giăng đầy từ trong nhà ra sân sau. Tôi được nghe kể lại
biết bao cảnh khủng khiếp, thương tâm trên đường chạy giặc.
Tháng 4 năm 1975, Cộng sản tiến sâu vào miền Nam, gặp sự kháng cự mạnh mẽ
cùa dân quân miền Nam tại Xuân Lộc. Nhưng sau hai tuần, Xuân Lộc cũng tan
ră, mở đường cho một trăm ngàn quân Cộng sản tiến vào Sài G̣n đầy người tị
nạn. Sau ngày 27 tháng 4, Sài G̣n càng hỗn loạn. Cộng sản bắn hỏa tiễn vào
khu đông dân gây chết chóc, cuồng loạn, cướp bóc.
Trong tiếng súng đạn, bom nổ, bầu trời mù mịt khói từ các đám cháy. Ngoài
đường, lũ lượt đoàn người ôm đầy bao bị, xe cộ tải đầy đồ, người th́ bôn
ba t́m đường thoát ra khỏi nước, người th́ nhân cơ hội mấy kho hàng bị phá,
tha hồ vơ vét. Tôi không bao giờ quên được những ngày nối tiếp, lo sợ,
kinh hoàng. Trong nhà, bà con tán loạn xoay xở kiếm đường. Ngày 30 tháng
4, miền Nam hoàn toàn lọt vào tay Cộng Sản, chính phủ lâm thời Dương văn
Minh đầu hàng vô điều kiện.
Tàn theo vận nước
Ba tôi không đi. Cái dây nhợ t́nh cảm, hệ lụy đă giữ chúng tôi lại với quê
hương tan nát. Ba tôi đi học tập cải tạo tưởng chỉ vài tháng rồi trở về.
Không ngờ đó là lần cuối cùng tôi nh́n thấy ông, tuổi chưa tới 50 mà đă
già trước tuổi. Đó là hậu quả của lần ba tôi bị phục kích và trọng thương
đă lâu, lúc tôi mới vào trung học. Nhờ tính lạc quan và vô tư, nên dù bị
thương tật, ông vẫn tiếp tục đi làm nuôi chúng tôi khôn lớn.
Những tháng ngày đầu dưới chế độ Cộng sản thật là căng thẳng, tuyệt vọng.
Sợ nhất khi cán bộ, công an đến xét nhà giữa đêm khuya vắng, quát tháo,
dộng cửa ầm ầm. Bên trong toàn đàn bà, run rẫy v́ sợ hăi. Nếu có bất trắc
xảy ra, người ngoài không ai hay biết. Tôi vẫn nhớ cái cảm giác vừa lo sợ
vừa tức giận tràn ngập trong ḷng khi đứng nép ḿnh sau cánh cửa pḥng ngủ,
nh́n lén ra nhà khách nơi mẹ tôi đang bị hạch hỏi và chờ đợi họ gọi tên ra
tŕnh diện từng người.
Tôi đă thấy những h́nh thức tướt đoạt trắng trợn của chính quyền mới để
làm nghèo dân miền Nam như lục soát nhà “ tư sản mại bản hay ”t́nh nghi”
quanh vùng. Cảnh một góc phố Đồng Khánh, sau ngày Cộng Sản ra lệnh đổi
tiền bất ngờ, vươn vải những tở giấy bạc bị cắt vụn phủ đầy hè phố, mặt
đường. Chiến dịch đả phá” văn hóa Mỹ Ngụy đồi trụy” làm mọi nhà lo sợ,
mau mau đốt sách, đốt vở, h́nh ảnh, đốt hết tất cả những ǵ có thể bị coi
là bằng chứng phản động.
Rồi phong trào khuyến khích hoặc xua đuổi người dân đi vùng” kinh tế mới”.
Gia đ́nh tôi may mắn không bị họ hỏi han nhiều có lẽ nhờ tôi, sau một thời
gian bị mất việc, đă được thâu nhận cho đi dạy lại v́ t́nh trạng thiếu
thầy cô lúc bấy giờ. Tôi biết nhiều người đă tự tử, điên cuồng, đă bương
chải, dấn thân trong nguy hiểm đề cứu vớt đồng tiền, mạng sống, hay được
lưu lại trong thành phố.
Chẳng bao lâu, vùng ngă tư trước nhà tôi bỗng nhiên biến thành trung tâm
buôn bán đồ cũ, phụ tùng ngoài lề đường. H́nh như ai ai cũng biến thành
người đi buôn, đi bán. Thời buổi khó khăn, trong nhà có ǵ th́ đem bán nấy
để có tiền sống qua ngày. Trong thời gian đầu, chưa liên lạc được với thân
nhân ở ngoại quốc, gia đ́nh tôi cũng đặt bàn bán ngoài đường và làm bánh
đi bán vào buổi sáng. Về sau, gian pḥng to nhất trong nhà được trưng dụng
làm tổ hợp đan tre lá một thời gian. Đó là giai đoạn sinh động nhất của
căn nhà, hằng ngày các chị em phụ nữ đến tập việc và sản xuất các rổ tre
lá để xuất khẩu.
Sau khi miền Nam đổi chủ, ngôi nhà càng xuống cấp thấy rơ. Cửa ngơ thỉ hư
hao lơng lẽo, không an toàn tí nào. Mối sợ hăi đó ám ảnh tôi, đi vào giấc
ngủ, lúc nào cũng mơ thấy có kẻ lạ bứng cửa sổ ló mặt nh́n vào. Trần nhà
dột nát, loang lổ, nhất là sau những cơn mưa lớn. Nhà hư hao nhưng vườn
cây lá vẫn xanh tươi, trái xoài trái ổi vẫn ngọt, đó là niềm hạnh phúc c̣n
sót lại trong giai đoạn khổ cực.
Ba tôi qua đời 1978, sau ba năm học tập cải tạo ở miền Bắc. Lúc đó mẹ tôi
buồn khổ và ốm lắm. Năm 1980, nhân chính quyền Cộng Sản đă cho phép thân
nhân tù cải tạo được phép thăm nuôi, tôi và cô em gái ra Bắc, viện cớ đi
thăm mộ cha nhưng đă âm thầm t́m người giúp bốc mộ, xong hỏa thiêu xương
cốt. Nhờ đó mà đă đưa ba tôi về miền Nam yên ổn. Thế rồi năm 1982, bốn chị
em gái vượt biên bằng thuyền qua sự móc nối của các em trai tôi từ ngoại
quốc. Me và D́ tôi đi chính thức sang Mỹ mấy năm sau đó. Tôi đă mừng khi
biết ngôi nhà cũ được tu bổ sửa chữa cho một cán bộ cao cấp ở.
Tan biến trong vô thường
Măi đến năm 2004, tôi mới có dịp về thăm quê hương. Ngày đầu vừa tới Sài
G̣n, đă háo hức mướn taxi chở đi lướt một ṿng thành phố đầy kỷ niệm. Bồi
hồi, lời ca tiếng nhạc “Trở về mái nhà xưa” vang vang trong ḷng tôi.
Về đây khi mái tóc c̣n xanh xanh
Về đây với màu gió ngày lang thang…
Người xa vắng biết đâu nấm nhà buồn…
Tôi bỗng nhớ đến những ngày ở trung học, khoảng đệ tứ, đệ tam với những
t́nh cảm của tuổi mới lớn.Tôi nhớ nhiều lắm những đêm khuya “gạo bài”
trong pḥng, bỗng nghe tiếng huưt gió của cậu bạn hàng xóm nhà cách một
con đường. Quen lệ, mỗi lần đi ngang qua nhà tôi vào buổi tối là nhắn gởi
một bài hát, như thầm nhắc nhở : đừng lo học quá mà quên đi bè bạn. Tiếng
huưt gió tuyệt hảo với những rung động bay cao trong không gian vô tận,
vang lên trong đêm tĩnh mịch, rồi xa dần, xa dần…để lại trong tôi một niềm
vui nho nhỏ... Mỗi người một ước vọng, tôi lớn lên trở thành cô giáo, cậu
bạn vui đời lính Không quân, bốn phương phiêu bạt và đă bỏ ḿnh trong cuộc
chiến bảo vệ miền Nam khi tuổi đời c̣n rất trẻ.
Tôi đă trở về chốn cũ ở ngă tư đường. Nhưng thôi rồi, ngôi nhà xưa đầy kỷ
niệm biến đi đâu mất, không một dấu vết. Không c̣n nữa cây Vàng Bạc bóng
mát, hàng Hoàng Hậu hoa tím mênh mang… C̣n đâu những cây xoài trái mập rủ
ṭn ten trước gió, cây ổi đầy trái chín mùi với tiếng chim ríu rít giành
ăn, cây trứng cá trái thơm ngọt nhưng có nhiều sâu chi chít rụng đầy sân,
giàn Bông Giấy đỏ rực mái tôn che mưa nắng… Tất cả đă là dĩ văng. Trước
mặt tôi là một trạm xăng, sửa chữa xe và cửa hàng buôn bán.
Ngôi nhà xưa giờ đây chỉ c̣n trong kỷ niệm. Kỷ niệm này chồng chất lên kỷ
niệm kia. Cũng như tên hai con đường của ngă tư kỷ niệm đă bao lần thay
đổi từ khi gia đ́nh tôi đến ở. Con đường Nhân Vị thời ông Diệm đổi thành
Trần Hoàng Quân thời Đệ Nhị Cộng Hoà rồi Nguyễn Chí Thanh thời Cộng Sản.
Con đường Nguyễn Văn Thoại đă trở thành Lư Thường Kiệt. Đời vô thường, đâu
có ǵ là vĩnh viễn.
Chuyến về thăm quê hương năm 2004 đă cho tôi thấy một Sài G̣n thay đổi so
với những năm tháng đầu sau 30 tháng tư năm 1975 dưới chế độ Cộng Sản, một
Sài G̣n bị tước đoạt tài sản, cơm độn, rách nát, vất vưỡng, lang thang
trên hè phố v́ thất bại của chính sách Kinh Tế Mới sai lầm. Nay cuộc sống
có vẻ khá giả hơn, buôn bán trông giống trước, như đang trên đường trở lại
với cái cũ từng bị người Cộng sàn coi là của Mỹ Ngụy suy đồi. Có điều đáng
buồn là trong một thể chế đề cao vô sản mà thành phần đảng viên cao cấp,
cán bộ lại tham nhũng trắng trợn, làm giàu trên sự đau khồ của nhân dân
nghèo khó.
Ngỡ ngàng trước sự biến mất của ngôi nhà xưa yêu dấu, tôi chợt hiểu quá
khứ khắn khít với căn nhà đó đă qua rồi, vướng mắc chi cho thêm đau khổ.
Có thể tôi không quên quá khứ, v́ những vui buồn xa xưa đều có ư nghĩa
trong cuộc đời ḿnh. Nhưng tôi sẽ không để nó lấn áp tâm hồn mà quên đi
hiện tại. Những kỷ niệm điêu linh trong quá khứ giúp tôi hiểu và trân
trọng những ǵ ḿnh đang có. Những kỷ niệm vui để tôi cảm được t́nh người,
t́nh quê hương yêu dấu.
Thế rồi năm 2007, nhân dự ngày Hội Ngộ của một trường tôi đă dạy ngày xưa
tại Houston, tôi có dịp đi thăm bà con và gặp lại nhiều người đă từng tạm
trú nơi ngôi nhà cũ trong những ngày gần mất nước. Tay bắt mặt mừng, nhắc
lại những kỷ niệm xưa. Một anh cựu phi công nói với tôi: “Chị biết không,
trước khi rời nhà chị để t́m đường trốn, tôi đă đào đất vườn trước chôn
mấy vật liệu tùy thân có cả khẩu súng”. Tôi nào có hay! Anh ấy đă không
thoát được, c̣n ở lại Việt Nam, đi học tập cải tạo khá lâu và may mắn qua
Mỹ theo diện HO.
Tất cả đều có thể thay đổi!
Tôi tin ở tính cách vô thường và nhân quả trong cuộc đời. Những phong trào
tranh đấu đ̣i quyền sống, đ̣i tự do trong nước là những hạt nhân tốt để
gieo mầm dân chủ. Nhân nào th́ quả ấy. Hăy hy vọng một ngày mai, tất cả
người dân nước Việt Nam sẽ được sống trong tự do, công bằng và no ấm thật
sự. Khi lớp cũ ra đi, thế hệ mới thức thời, tiến bộ thay thế, sẽ lănh đạo
con thuyền VN đến một tương lai và thể chế tốt đẹp. Tôi mong ngày đó sẽ
không c̣n xa lắm.
Tâm
Đoan
Minnesota, 11/ 2009
Trang XUÂN 2010- Văn Học Nghệ Thuật
Và Quê Hương