Mùa xuân ở nước Việt ta, nhất là vào dịp Tết Nguyên Đán, là lúc muôn hoa
rộ nở, hồng tía khoe tươi. Giống như hoa mai vàng ở miền Trung và miền
Nam, hoa đào mầu hồng thắm ở miền Bắc nổi bật giữa các loài hoa và được
chưng bày khắp mọi nhà, nó tạo cho ngày Tết một màu sắc, một phong vị
đặc biệt, và nghiễm nhiên trở thành loại hoa Tết chính thống của dân tộc.
Tục lệ chơi hoa đào ngày Tết ở xứ Bắc đă có từ lâu đời, v́ chẳng
những hoa đào có màu hồng rực rỡ là mầu “hỉ tín”, rất phù hợp
với không khí vui tươi, tràn trề hy vọng của những ngày đầu năm
mới, mà người xưa c̣n tin là cây đào trị được ma quỉ. Tích xưa
kể rằng, dưới gốc cây đào già nơi núi Độ Sóc có hai vị Thần Trà
và Thần Lũy cư ngụ, họ giữ trọng trách cai quản đàn quỉ, quỉ nào
làm hại dân gian th́ ra tay trừng phạt. Mỗi khi Tết đến, lợi
dụng cơ hội các vị Hành Khiển trông nom việc dưới thế phải lên
chầu trời để tŕnh tấu mọi việc thế gian, bọn quỉ liền ra quấy
phá. Do đó, vào dịp này người ta thường trưng một cành đào trong
nhà, để bọn quỉ tưởng là địa phận hai vị Thần Trà, Thần Lũy trấn
giữ, sợ không dám bén mảng.
Ở ven đô Hà Nội, phía tây bắc Hồ Tây là làng Nhật Tân, nổi tiếng
về nghề trồng bích đào và đào phai.
Trước năm 1954, tám mươi phần trăm dân làng ở đây chuyên nghề
trồng đào, họ khai khẩn đến gần trăm mẫu đất, trồng hàng vạn cây
đào mới đủ cung ứng nhu cầu thị hiếu chơi hoa đào vào dịp Tết
của dân Hà thành.
Loại bích đào hoa to, mỗi cụm chỉ độ dăm bông, mỗi bông có 12
hay 14 cánh nhưng cũng có loại 32 cánh (loại bông kép), loại này
ít trồng v́ không mấy được ưa chuộng. Cánh hoa bích đào dầy, màu
hồng thắm, xếp thành nhiều lớp ; nhị vàng tua tủa; lá có h́nh
mũi mác, mầu xanh biếc, cành th́ vươn thẳng. Bích đào là loại
hoa đẹp nhất, hiếm quí v́ khó trồng và phải có thổ ngơi thích
hợp.
Bích đào và đào phai (đào ăn quả) xưa lấy giống từ Trung Quốc.
Theo các nhà khảo cổ học về cây cỏ, th́ người Trung Hoa biết
trồng đào ít nhất từ bốn ngàn năm. Đào từ Trung Quốc truyền vào
Trung Á (Asie Centrale), vào Ba Tư (Perse tức Iran). Một thế kỷ
trước công nguyên, ông Alexandre Le Grand mang giống đào từ xứ
Perse vào Rome và măi đến thế kỷ XVII, cây đào mới được du nhập
vào Mỹ Châu. Các nhà thực vật học đầu tiên tưởng Perse là quê
hương của đào, nên đặt cho nó cái tên khoa học là Prunus persica.
Sau người ta biết là nhầm nhưng đă quen gọi lâu đời nên vẫn để
nguyên tên đó, thay v́ phải đổi là Prunus sinensis, họ Rosacées.
Ở Việt Nam ta từ thời xa xưa đă biết trồng đào phai để ăn quả,
loại này cánh hoa mỏng, thưa, màu hồng nhạt, c̣n lá th́ màu xanh
nơn. Đào phai dễ trồng và sức sống của nó rất mạnh. Thị trấn Sa
Pa thuộc vùng Hoàng Liên Sơn là xứ sở của đào phai. Dân làng
Nhật Tân mua cây đào phai c̣n non về trồng, một năm sau cây đủ
mạnh, họ sử dụng làm gốc ghép. Trước tháng 11, họ cắt một nhánh
bích đào ghép vào gốc cây đào phai, chờ đến Tết là họ có một
cành đào bích tươi tốt đem bán. Mỗi năm mỗi gốc đào phai chỉ
dùng ghép được một cành bích đào, thế nên gốc đào phai có bao
nhiêu mấu là cây đó bấy nhiêu tuổi.
Quê hương của bích đào và đào phai là Trung Quốc, nhưng quê
hương của hoa anh đào lại là nước Nhật Bản. Người Nhật gọi hoa
Anh Đào là “Quốc Hoa”, tức là loài hoa đại diện cho dân tộc của
họ. Nước Nhật c̣n được mệnh danh là “Xứ Hoa Anh Đào”, v́ hoa anh
đào được trồng khắp nơi trên dải đất Phù Tang, nhất là ở những
vùng đồi núi hẻo lánh, nơi có những ngôi chùa cổ kính. Nh́n từ
xa, người ta chỉ thấy mái chùa ẩn hiện thấp thoáng dưới những
lùm đào cổ thụ um tùm. Mỗi độ xuân về, hoa nở hồng ngát cả môt
phương trời, tạo cho chốn thiền môn một vẻ thanh tịnh, nhuốm đầy
đạo vị.
Năm 1912, Nhật Bản gửi tặng Hoa Kỳ 3.000 cây anh đào, gồm nhiều
loại khác nhau,
nhưng hai loại chính là Yoshimo và Kwanzan. Những cây này phần
lớn được đem trồng dọc hai bên bờ sông Potomac, tại thủ đô Hoa
Thịnh Đốn. Kể từ năm 1934, nhà cầm quyền nơi đây cũng bắt chước
dân Nhật mở Hội Hoa Anh Đào. Nhưng thay v́ đi dạo ngắm hoa, ngồi
thiền trà hay ca hát dưới hoa th́ ở Mỹ người ta tổ chức các cuộc
diễn hành, thi xe hoa và có các ban nhạc từ các tiểu bang khắp
nước gửi về tham dự.
Hoa đào mỗi năm nở sớm hay muộn tùy theo thời tiết, người ta
phải đoán trước để định ngày lễ hội cho đúng dịp hoa nở. Năm nào
chẳng may gặp những trận mưa đá hay mưa tuyết bất thường làm hoa
tàn tạ sớm, th́ đám người dự hội chỉ c̣n nước ngắm cảnh cành trơ,
với những cánh hoa tan tác bên đường.
Đầu thế kỷ XX, Nhật Bản cũng đă gửi tặng nước Pháp nhiều cây anh
đào.
Số cây anh đào trồng tại Jardin des Plantes, tuy chỉ vài chục
cây nhưng có đủ loại, từ loại cánh hoa đơn đến cánh hoa kép, có
hương hay không hương, mầu trắng phớt hồng đến hồng đậm rồi tới
đỏ thẫm.
Riêng tại vườn đào trong Parc de Sceaux, hiện đếm được 147 cây,
những cây cổ thụ trồng từ đầu thế kỷ nay c̣n lại độ một phần ba,
những cây chết được thay thế ngay bằng những cây mới nên tới mùa
hoa, vườn hoa anh đào bao giờ cũng xum xuê. Tất cả những cây đào
trồng ở đây đều thuộc loại anh đào, cây cao chừng 4, 5 mét, có
hoa mọc thành chùm, cánh hoa mỏng như lụa , màu phấn hồng ngọt
ngào. Tới mùa, hoa nở chi chít, ngọn lả xuống tận mặt đất, trông
như những lẵng hoa thiên nhiên khổng lồ, đặt trên nền thảm cỏ
non xanh mướt. Ngồi từ dưới gốc cây nh́n lên thấy cả một trời
hoa lồng lộng, nh́n ra tứ phía, một màu hồng bát ngát bao phủ
khắp không gian. Đúng là cảnh Thiên Đàng hạ giới!
Kiếp hoa đào thật mỏng manh, từ lúc hoa nở đến lúc hoa tàn chỉ
trong khoảng năm sáu ngày ngắn ngủi, cả mùa hoa cũng chỉ kéo dài
được ba tuần. Từ đầu tháng tư dương lịch, những đoá hoa khai mùa
bắt đầu nở đến hết tuần thứ ba là những cánh hoa cuối mùa rụng
hết. Nhưng dù ở thời điểm nào, vườn đào vẫn có một vẻ hấp dẫn
riêng. Tươi mát, mơn mởn khi những nụ hoa đầu tiên vừa chúm chím
môi cười, sau bao ngày im ĺm trong băng giá. Tưng bừng, rực rỡ
khi cả ngàn hoa rộ nở. Man mác, nên thơ khi những cánh hoa rơi
bay tơi tả khắp không gian, rồi trải thảm trên nền cỏ biếc.
Hoa đào quả là một ân sủng của Thượng Đế ban cho loài người…
Vườn đào quả là một Thiên Đường mà chúng ta có thể tới được dễ
dàng ngay trong cuộc sống hiện tại. Ít nhất cảnh đẹp tinh khiết,
tươi thắm của vườn đào cũng làm cho ta mát mắt, tâm trí thư giăn;
ngoài ra nó c̣n nuôi dưỡng tâm hồn trong sáng, tươi trẻ của
chúng ta, và biết đâu c̣n gợi cho chúng ta nhiều cảm hứng thi tứ,
trên văn đàn , nhờ đó mà nảy sinh thêm biết bao kỳ hoa dị thảo ?
Nhắc đến mùa hoa đào, tôi không thể quên được một giai thoại kỳ
thú liên quan tới Vườn đào Parc de Sceaux thuở nào.
Trong một buổi họp mặt đầu xuân năm Canh Ngọ của Hội Gia Long
Paris. Ngọc Dung đến bên tôi thủ thỉ :
- Cô ơi, Cô có biết vườn hoa đào Parc de Sceaux không ?
Thấy tôi lắc đầu, Dung nói tiếp :
- Vườn đào ở Parc de Sceaux đẹp lắm. Em chắc chắn Cô sẽ thích.
Một cảnh thần tiên Cô ạ. Để ít ngày nữa, vườn đào trổ bông em sẽ
báo cho Cô hay. Cô nhớ đi nhé.
- Nhất định rồi. Dung đă nói "Một cảnh thần tiên" th́ thế nào Cô
cũng phải đi !
Hai thầy tṛ tôi rất tâm đắc và đoán được những sở thích của
nhau. Biết cô giáo ḿnh là dân rất yêu hoa đào, và chỉ ưa những
ǵ thơ mộng. Dung vừa được biết vườn đào Parc de Sceaux năm
ngoái ; nay mùa hoa đào lại sắp tới mới vội thông báo cho tôi.
Từ đó tôi có ư đợi chờ. Rồi một ngày cuối tháng ba, Ngọc Dung
gọi giây nói, hớn hở báo tin vườn đào đă bắt đầu đơm bông và
không quên nhắc lại :
- Đẹp lắm, một cảnh thần tiên cô ạ.
Chiều hôm đó, nhằm thứ hai đầu tuần, không có giờ dạy, nhà tôi
đă vui vẻ lái xe đưa tôi đi ngay. Xe rời Paris, trực chỉ Porte
d’Orléans, tiến vào quốc lộ Nationale 20, rồi hướng về tỉnh
Antony. Tới Croix de Bercy th́ rẽ tay mặt, thẳng hướng Châtenay
Malabry mà chạy, chẳng bao lâu đă tới Parc De Sceaux. Xe chúng
tôi chạy bám sát bên hông hàng rào. Vừa qua khu Piscine đă thấy
cổng vào công viên. Mừng quá , chúng tôi t́m chỗ đậu xe rồi vui
vẻ bước tới. Nhưng lạ chưa, đi loanh quanh măi, hết rẽ tay phải
lại quẹo tay trái, vườn đào vẫn biệt mù tăm, có chăng, giữa
những khu vườn xanh, thỉnh thoảng thấy dăm bẩy cây đào cổ thụ,
bắt đầu nở hoa. Đẹp th́ cũng đẹp, nhưng :
- Không lẽ chỉ có thế ?
- Th́ c̣n ǵ nữa. Tại các bà cứ hay tưởng tượng. Dăm bẩy cây đào
đă cho là cảnh thần tiên !
Nhà tôi nói thế, nhưng tôi vẫn chưa chịu, c̣n cố ḍ hỏi thêm mấy
người khách đang nhàn du trong khu vườn này. Thấy ai cũng ngơ
ngác lắc đầu, tôi đành tiu nghỉu theo nhà tôi ra về.
Mấy hôm sau, tôi lại rủ rê được vợ chồng cô em đưa đi. Mặc dầu
chúng tôi đă vào cổng phía đối diện với khu vườn lần trước,
nhưng rồi cũng lại thất vọng không thấy vườn đào đâu cả.
Tới chiều thứ bẩy, các con tôi được nghỉ học. Tôi bèn thuyềt
phục ba cô con gái :
- Chị Dung đă bảo vườn đào Parc de Sceaux đẹp như cảnh thần tiên,
th́ mẹ tin chắc phải đẹp thế nào chị mới nói vậy ? Thôi bốn mẹ
con ḿnh chiều nay đi t́m một lần nữa xem sao.
Các cô con gái muốn chiều mẹ nên ḥ nhau lấy máy ảnh, sửa soạn
lên đường.
Trước khi ra xe, tôi không quên gọi phone hỏi Dung đường đi,
nước bước. Dung xin lỗi rối rít là đă quên không chỉ lối vào
vườn đào cho tôi. Hai lần trước không tới được, chỉ v́ các ông ỷ
y tin rằng, cứ đến Parc de Sceaux là sẽ t́m thấy vườn đào dễ
dàng. Hay đâu, đây là một công viên lớn bậc nhất vùng Paris,
chiếm lĩnh một khoảng đất rộng mênh mông tới cả trăm ngàn mét
vuông, bao quanh bởi các đại lộ. - Mặt tiền Parc de Sceaux nằm
trên đại lộ Coysevox và đại lộ Puget ( song song với quốc lộ
Nationale 20), có cổng vào danh dự vĩ đại, ngày xưa dành riêng
cho các ông hoàng, bà chúa và những bậc thượng lưu quí tộc trong
xă hội; họ đi xe song mă, tứ mă tới vào những ngày Đại lễ, được
tổ chức trong lâu đài, hay vào những ngày Hội Thưởng Hoa, tại
các khu vườn thượng uyển nơi đây. Mặt phía trái là đại lộ
Président Franklin Roosevelt ; mặt phía phải là quốc lộ
Nationale 186, mặt sau là đại lộ Sully Prud' Homme.- Những ông
già, bà cả hay những bà mẹ trẻ dẫn con nhỏ vào chơi, người ở
vùng nào thường chỉ biết khu vườn vùng đó; bởi thế, hỏi thăm
vườn đào, chẳng mấy ai hay biết. Lần này th́ chắc lắm rồi. Đúng
như Dung chỉ, khi xe đi từ Paris tới quốc lộ Nationale186 th́
bắt vào đại lộ Général De Gaulle, rồi cứ thế tiến thẳng tới đầu
đường mới rẽ tay mặt vào đại lộ Sully Prud’Homme. Đi chừng 300
thước nữa tới bên hông trường kỹ sư Ecole Centrale, từ đó nh́n
sang sẽ thấy cái cổng sắt rất lớn dẫn vào parc, và cũng là lối
dẫn vào vườn đào.
Cổng sắt lớn nằm trên một con lộ thẳng tắp, rộng thênh thang, có
ba hàng cây cao vút, cành lá xanh mướt, xum xuê, che rợp cả khu
phố. Suốt hai dọc lề đường, xe đậu kín mít. Chúng tôi phải cho
xe chạy mấy ṿng mới t́m được chỗ đậu. Nơi cổng ra vào, người
đâu mà đông thế ! Sau mới vỡ lẽ, bấy ǵờ người ta đang túa ra
cổng, v́ sắp hết giờ vào vườn. Bởi không biết nên bốn mẹ con tôi
cứ ung dung tiến bước. Qua khỏi lâu đài kiến trúc h́nh tṛn, có
tên Pavillon de Hanovre, chúng tôi đi theo hướng Grand Canal tới
khu cỏ rộng Plaine De Chatenay; vừa rẽ trái độ mươi thước, tim
tôi bỗng nhảy lên, đập th́nh thịch trong lồng ngực, khi mắt chợt
nh́n thấy những lùm hoa đào mầu hồng thấp thoáng sau các hàng
cây trước mặt. Tiến sâu vào vườn , tôi ngợp đi v́ xúc động, bởi
trước mắt hiển hiện cả một vùng trời hoa đào đang từng bừng khoe
sắc thắm.
Giây phút bàng hoàng ngây ngất qua đi, tôi định thần ngắm cảnh
vật xung quanh. Nền trời thật trong xanh, nắng chiều lướt thướt
trên những tàn cây trĩu hoa, hay ngả bóng trên nền cỏ non xanh
biếc. Tôi vội bỏ giầy, dúi vào một gốc cây, đi chân trần, cùng
lũ con, chạy ôm hết thân cây đào này đến cây đào khác; có lúc
lại nằm lăn trên thảm cỏ, êm như nhung, mát như lụa, ngắm nh́n
từng từng lớp lớp những tàn đào hồng thắm đang rung rinh trước
gió. Xa xa đây đó vẫn thấp thoáng bóng đôi ba người đang ngồi
dưới gốc đào đọc sách. Mẹ con tôi yên trí tiếp tục vui chơi.
Trong khi tôi ngồi say sưa ngắm cảnh th́ các con tôi lăng xăng
chạy tới chạy lui chụp h́nh. Chẳng mấy chốc nắng đă tàn, nh́n
quanh chẳng c̣n một ai, mẹ con ơi ới gọi nhau về.
Cũng hơi lạ khi thấy đường ra sao vắng thế, chúng tôi mới hốt
hoảng chạy mau ra cổng, th́ hỡi ơi , hai cánh cổng sắt vĩ đại đă
khóa kín từ bao giờ !
C̣n may là gần cổng ra vào cũng thấy có mươi mười lăm người
khách nhàn du ra muộn, đang rơi vào hoàn cảnh nhớn nhác như
chúng tôi. Kịp nh́n lên bảng yết thị, mới hay, giờ đóng cổng
công viên mùa đông, từ 15 tháng 10 tới 31 tháng 3 là 19 giờ. Giờ
đóng cổng mùa hè, từ 01 tháng 4 đến 15 tháng 10 là 21 giờ. Xui
thế, hôm nay đúng ngày 31 tháng 3, phải chi trễ lại một ngày,
sang mồng 1 tháng tư, cổng vườn đóng muộn th́ đâu nên nỗi !
Có mấy cậu thanh niên tính đường trèo rào, nhẩy ra. Nhưng trèo
được lên bờ tường th́ dễ, c̣n làm sao vượt qua được bức hàng rào
ngất ngưởng, với những cây song sắt vừa cao, vừa nhọn hoắt hướng
thẳng lên trời, mới là khó, chẳng may trượt chân ngă xuống, th́
không vỡ sọ cũng gẫy gị, nên cuối cùng, các cậu đành nhảy xuống
thôi. Sau họ đề nghị, quí bà quí cô cứ đứng chờ ở đây, họ sẽ đi
t́m người gác vườn, năn nỉ họ mở cổng cho ra. Vừa thoáng chốc đă
thấy họ trở lại báo tin vui, phía hàng rào nơi kia đang sửa,
được che bằng mấy tấm tôn, có thể phá mà ra. Cả đám mừng quưnh,
líu ríu chạy theo họ. Ra được bên ngoài th́ trời đă tối đen như
mực, chúng tôi vội vă t́m xe ra về.
Trời khuya, đường vắng, xe chạy bon bon, vậy mà về đến nhà đă
mười giờ đêm.Vừa bấm chuông, nhà tôi và đứa con trai lớn chạy bổ
ra, mừng quưnh :
- May quá, chỉ mươi phút nữa mà không thấy mẹ con về là ở nhà sẽ
gọi tới bóp cảnh sát, để xem có bị tai nạn ǵ không ?
Và ổng không quên tḥng một câu trách móc :
- Đàn bà con gái đi đâu th́ phải lo mà về sớm, ai lại đi thăm
vườn đào, đẹp đến thế nào mà quên cả giờ giấc, khuya khoắt thế
này mới ṃ về, làm ở nhà lo sốt vó !
Bốn mẹ con tôi đưa mắt nh́n nhau rồi rũ ra cười. Các cô được dịp
tranh nhau kể chuyện vui vừa qua cho bố và anh nghe. Cũng đêm
hôm ấy, bài thơ Về Động Đào Hoa đă được h́nh thành, để ghi lại
một kỷ niệm đẹp trong cuộc đời chúng tôi.
Về Động Đào Hoa
Chiều xuân, nắng trải vàng tơ
Thẩn thơ bướm lạc bên bờ suối hoa
Hương rừng quện gió bay xa
D́u em… về Động Đào Hoa ngút ngàn !
Hồng tươi… lồng lộng không gian
Ngất ngây Lưu Nguyễn... bàng hoàng hồn thơ !
Thiên Thai… sáo lả cung chờ...
Em về… thả suối vần thơ tạ từ…
Nhân gian xa tít...xa mù…
Nhân gian…xa tít…xa mù…
Parc de Sceaux
Mùa Hoa Đào xuân Canh Ngọ
Từ đó tới nay đă bao nhiêu năm trôi qua, cứ tới mùa hoa đào
chúng tôi lại rủ nhau đi thăm vườn cũ , không phải một lần mà
nhiều lần; từ khi những búp đào đầu tiên hé nở tới khi cả vườn
hoa măn khai. Ngay lúc hoa tàn, chúng tôi vẫn thích trở lại, để
được ngắm cảnh những cánh hoa rơi trước mỗi cơn gió thổi, như
muôn ngh́n đàn bướm bay lượn khắp không gian, đẹp quá chừng
chừng !
Những cánh hoa rơi đậu cả trên xống áo chúng tôi, trước khi trải
thảm hồng trên khắp lối đi hay trên nền cỏ non xanh biếc.
Tôi đă không ngừng cổ động các bạn thân sơ, cũng như quí vị đồng
hương tới thăm vườn đào Parc de Sceaux, qua hai buổi thuyết
tŕnh về Hoa Đào, một do Câu Lạc Bộ Văn Hóa VN Paris tổ chức, và
một do hội Dược Sĩ Người Việt Hải Ngoại đảm trách, nhân Ngày Đại
Hội Thế giới Y-Nha-Dược họp tại Thủ Đô Ánh Sáng Pháp quốc.
Những bạn từ xa đến chơi đúng vào mùa đào nở, chúng tôi đều mời
đi thăm vườn. Đă lâu lắm, không c̣n nhớ từ bao giờ, các bạn tôi,
mỗi khi nhắc tới vườn đào Parc de Sceaux, đă có thói quen, gọi
một cách thân mật là ‘‘Vườn đào của Nhung’’ !

Phạm
Thị
Nhung