
Lịch
Can Chi cũng như các Bộ-môn Nho Y Lư Số viễn-đông khác, đều dùng 10 Can
(Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quư) và 12 Chi (Tư, Sửu,
Dần, Măo, Th́n, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi), ứng vối 12 con thú
(Chuột, Trâu, Hổ, Thỏ/Mèo, Rồng, Rắn, Ngựa, Dê, Khỉ, Gà/Chim, Chó, Heo),
với điểm khác biệt, con Thỏ cố-hữu, Việt-Nam ta đổi thành con Mèo và con
Gà cố-hữu, Tây-Tạng đổi ra con Chim (A).
Đó chính là 12 Con Giáp.

Quy-thư, Bát-quái Hậu-thiên và 12 con Giáp Tây-Tạng
Bên trong cùng là Lạc-thư tức Thần-phương bậc 3 (Magic square of order 3):
cộng theo hàng, theo cột hay theo đường chéo bao giở cũng được 15. Ṿng kế
là Bát-quái Hậu-thiên biến-thể và ṿng ngoài cùng là ṿng 12 con Giáp Tây
Tạng.
Tổng-thống Tôn Dật Tiên cũng như đại-đa-số các thức-giả
Trung-quốc cổ kim đều lấy năm Giáp-tí (2697 BC) tức thị năm Hoàng-đế
nguyên-niên làm năm gốc cho lịch can-chi. Ông Trương Sùng Tuấn có lập một
biểu liệt-kê các triều-đại Đế-vương Trung-quốc từ năm 2697 BC đến năm
2003, gồm năm DL, tuế-thứ can-chi, biệt-quái Hoàng-cực Kinh-thế tương-ứng,
Đế-hiệu, niên-hiệu và kư-sự (B).
Mỗi chu-kỳ 60 năm can-chi được gọi là hoa-giáp-tí,
nói thúc lại là Hoa-giáp. Theo truyền-thuyết Hoàng-đế trị v́ đúng 100 năm.
Lấy 60 năm đầu của triều-đại Hoàng-đế làm hoa-giáp gốc (F).
Gọi q
³
0 là số thứ tự của hoa-giáp đương-quan, r là số thứ-tự của năm can-chi
trong mỗi hoa-giáp và D là năm dương lịch tương-ứng (D < 0 cho các năm BC,
D > 0 cho các năm AD và D = 0 vô-nghĩa). div là phép chia số nguyên, nghiă
là không có số thừa; mod tức modulo là đẳng-thặng là tức là số thừa khi
chia số nguyên. Ta sẽ có hai cặp công-thức cho tất cả các năm kể từ năm
2697 BC trở đi:
q - 1 = (2698 + D) div 60 ; r = 2698 + D – [(2698 + D) div 60] (Cho các
năm BC)
q - 1 = (D + 2697) div 60 ; r = D + 2697 – [(2698 + D) div 60] (Cho các
năm AD)
Chúng ta có thể tính can
κ
và chi
χ của năm xét như sau:
đặt r = ab (2 chữ số), ta có:
κ
= b và χ
= r mod 12 ().
Vd1: Năm Đế Nghiêu lên ngôi là năm 2357 BC, q = 1 + (341 div 60) = 1 + 5 =
6 và
r = 41 ?
κ
= 1 (giáp) và
χ
= 41 – 3x12 = 5 (th́n) ?
năm giáp-th́n chu-kỳ thứ 6.
Vd2: Năm nay 2009, q = 1 + (4706 div 60) = 1 + 78 = 79 và r = 4706 – 4680
= 26
?
κ
= 6 (kỷ) và
χ
= 26 – 2x12 = 2 (sửu) ?
năm kỷ-sửu chu-kỳ thứ 79.
Kinh Dịch có câu: 'Nhất âm, nhất dương chi vị Đạo’
一陰一陽之謂道
(Hệ-từ Thượng-truyện, Chương V, Tiết 1), có nghiă là : 'Một Âm và một
Dương gọi là Đạo' tức Dịch-Đạo.
Có âm ắt có dương; có cha ắt có mẹ; có vợ ắt có chồng; có can ắt có chi.
Cho nên ta mới có tiếng ghép 'Con Giáp' (con là con thú, Giáp là Giáp, Ất,
Bính, Đinh ...), để biểu đạt chân-lư đó, tuy rằng toàn-thể Con Giáp đều là
Chi. Chẳng hạn, khi một người nào đó nói là ḿnh tuổi Tư, chỉ cần nom mặt
định tuổi, ta cũng biết ngay là tuổi Tư nào trong 6 Tư: Giáp-Tư (1924,
1984), Bính-Tư (1936, 1996), Mậu-Tư (1948, 2008), Canh-Tư (1900, 1960) hay
Nhâm-Tư (1912, 1972).
Theo truyền-thuyết, sau khi Đức Phật-Tổ Thành-đạo,
Ngài có gọi các muông thú lại dưới gốc Bồ-Đề (Bodhidruma), nhưng chỉ có 12
con thú tới đúng theo thứ-tự từ Chuột đến Heo. Thập-nhị thú này được đề
cập trong Đại-tập-kinh tức Đại-phương đẳng Đại-tập-kinh (Mahasamghata
Sutra). Đó là: Di-xa, Tỳ-lị-sa, Di-luân-na, Yết-ca-trá-ca, Tỳ-a, Ca-nhă,
Đâu-la, Tỳ-lị-chi-ca, Đàn-ni-tỳ, Ma-ca-la, Cưu-bàn và Di-na (E).
Ta tự hỏi có thật vậy không? Chỉ cần nhớ rằng Phật-giáo
được truyền sang Trung-Hoa sau thời Đổng Trọng-Thư (179?-104? BC). Thời đó
hẳn là mới chỉ ở giai-đoạn truyền-đạo, chứ chưa đến giai-đoạn truyền luôn
cả các huyền-thoại. Hàng loạt cổ-tịch Trung-quốc viết rải rác từ thời
Chiến-quốc (403-222 BC) cho tới đời Tùy (581-618), đă nói đến 36 con thú
(Tam-thập-lục-thú tức Tam-thập-lục cầm). Mà phiền một nỗi , 12 Con Giáp
xuất-hiện đầy đủ trong danh-sách Tam-thập-lục-Cầm : một con thú cho mỗi
buổi trong ngày (buổi sáng, buổi trưa và buổi tối), vi chi là: 12 x 3 = 22
x 32 = 36 muông thú. Sau đây là Biểu Nhất-lăm 36 con thú theo
sát 'Thức-Kinh式經'
(G):
Cung
|
Ban sáng (Qúy季) |
Ban trưa (Trọng仲) |
Ban chiều (Mạnh孟) |
Tư |
Chim
Én |
Con Chuột |
Con Phục-dực |
Sửu |
Con Trâu |
Con Cua |
Con Ba ba |
Dần |
Con Hồ Ly |
Con Báo |
Con Cọp (Hổ) |
Măo |
Con Rồng |
Con Vị |
Con Lạc (Cày) |
Th́n |
Con Giun |
Con Thỏ |
Con Cá |
Tỵ |
Con Lươn |
Con Thuồng-luồng |
Con Rắn |
Ngọ |
Con Hươu |
Con Ngựa |
Con Mang |
Mùi |
Con Dê |
Chim
Cắt |
Con Ṃng (Nhạn) |
Thân |
Con Mèo |
Con Vượn |
Con Khỉ |
Dậu |
Chim
Trĩ (Dẽ) |
Con Gà |
Con Diều-hâu |
Tuất |
Con Chó |
Con Lang (Con Chó Sói) |
Con Sài (Chó Sói Lông xù) |
Hợi |
Con Heo (Lợn) |
Con Vượn Mẹ |
Con Heo Con |
Lư-thú nhất, là biểu đă dược b́nh-luận rạch ṛi
trong sách 'Ngũ-hành Đại-nghiă' (G
, tr. 362-376) cuả Khai-quốc-công Tiêu-Cát,
bào-huynh cuả Lương-Vũ-Đế Nhà Tùy, một ông Vua rất mộ Đạo Phật, nhưng đă
từng mưu-sát hụt Bồ-đề Đạt-ma (Bhodi Dharma) bằng thuốc độc ngay tại Chuà
Thiếu-lâm, chỉ v́ Ngài đă cắt nghiă phương-thức duy-nhất để thành Thánh
là KHUẾCH-NHIÊN NHI THÁNH
廓然而聖
(Thành Thánh một cách trống rỗng), tương-tự như triết-thuyết 'Vô-tư, Vô-vi'
(không nghĩ bậy, không làm càn) cuả Đạo Khổng hay vô-vi (không hành-động
mà chỉ nương theo tự-nhiên) của Đạo Lăo. Vô h́nh trung, sách này tiềm-tàng
phần nào thuyết 'Ngũ-hành H́nh-thượng-học' cuả Khổng-giáo (Nhân, Nghiă, Lễ,
Trí, Thánh仁義禮智聖,
thay v́ Nhân Nghĩa Lễ Trí Tín
仁義禮智信thông-thường),
thất-truyền từ 24 thế-kỷ nay và chỉ mới được xuất-thổ năm 1973 cho bản
Bạch-thư Ngũ-Hành, tại Trường-sa (Mă Vương Đôi Hán-mộ) và năm 1993 cho bản
Sở-giản (I
) tại Kinh-môn Quách-điếm, cả hai bao gồm cả Kinh, Thuyết lẫn Truyện.
Tác-giả cuả bộ sách bất-hủ này không ai khác hơn là Thầy Tử-Tư, cháu
đích-tôn Đức Khổng-phu-tử và Thế-tử là một nhân-vật đời Chiến-quốc mà cho
đến hôm nay cũng chưa ai biết được danh-tính và lai-lịch.
Tất cả các Bộ 12 Con Giáp cuả Đông-Á kể cả Mông-cổ, Măn-châu, Tây-tạng,
Hàn-quốc lẫn Nhật-bản, duy chỉ có hệ-thống Việt-Nam là hoàn-chỉnh nhất về
cả ba phương-diện Âm-Dương, Ngũ-hành và khoa-học, tuy rằng mang tiếng
hoàn-toàn mượn cuả Tầu. Cần nhắc lại, số lẻ là dương, số chẵn là âm, cho
nên, vạch lẻ >(liền)
là
dương, vạch đứt ?(chẵn)
là âm; ban ngày (từ giờ Măo đến giờ Thân) là dương, ứng với mầu nhạt; ban
đêm (từ giờ Dậu đến giờ Dần) là âm và ứng với mầu xẫm; hai mùa đầu năm (Xuân,
Hạ) là dương, hai muà cuối năm (Thu, Đông) là âm. Do đó các chi ở vị-trí
lẻ (Tư, Dần, Th́n, Ngọ, Thân, Tuất) là chi dương, c̣n các chi ở vị-trí
chẵn (Sửu, Măo Tỵ, Mùi, Dậu, Hợi) là chi âm.
Trước nhất, chúng ta nên để ư là 12 Con Giáp, phân nửa là gia-súc (dương),
phân nửa là dă-thú (Âm). Riêng Việt-Nam ta có 4000 năm Văn-hiến theo
chế-độ phụ-hệ, nên dương mới thịnh hơn âm một chút và có đến 7 gia-súc,
thay v́ 6. Thật vậy, con Thỏ (thú rừng) cuả Tầu đă biến thành con Mèo (gia-súc)
khi 12 Con Giáp du-nhập Việt-Nam.
Sau nữa, những Con Giáp dương (Chuột, Hổ, Rồng, Ngựa, Khỉ, Chó) đều có số
móng chân lẻ là một số dương (1, 3 hay 5); c̣n những Con Giáp âm (Trâu,
Mèo, Rắn, Dê, Gà, Heo) đều có số móng chân chẵn là một số âm (0, 2, hay
4). Về mặt thuần-toán, con số không (0) hiển-nhiên là một số chẵn v́ con
số 1 tiếp liền sau nó là một số lẻ. Con Rắn không chân nghiă là có 0 móng
nên Tiếng Ta mới có thành-ngữ 'Vẽ rắn thêm chân'. Lại thêm, con Rắn
thường có lưỡi chẻ hai. Hai con thú trong mỗi cặp âm-dương đều có đặc-tính
tương-tự: Chuột/Trâu đều sắc đen và cùng thích lội hoặc dầm nước; Hổ/Mèo
đều có vằn và đều biết cào; Rồng/Rắn đều thuộc thủy-tộc và có thân ḿnh
uốn khúc; Ngựa/Dê đều có móng lớn, đều là gia-súc, đều biết cười và có
tiếng kêu khá đặc-biệt; Khỉ/Gà đều khác các con thú kia là chỉ có hai chân;
Chó/Heo thượng-hảo-hạng đều sắc đen mun (Chó th́ Nhất mực, nh́ vàng, tam
khoang, tứ đốm, c̣n Nem Huế thời tiền-chiến phải làm bằng thịt heo đen sữa,
nuôi bằng rong ṃ từ đáy sông Hương!) và đều là gia-súc . Riêng con Chuột,
dẫn đầu 12 Con Giáp, có một đặc-điểm khác thường: chân truớc 4 móng, c̣n
chân sau 3 móng. Sao lại lạ vậy? Số là mỗi giờ Can Chi là 2 tiếng đồng-hồ:
từ 11 đến 12 giờ đêm được gọi là Dạ-tư, thuộc về đêm hôm trước, c̣n 12 giờ
khuya đến 1 giờ đêm thuộc về sáng hôm sau. Cho nên trời sinh ra con chuột
chân truớc có 4 móng (số chẵn nghiă là âm), c̣n chân sau 3 móng! (Dạ-Tư
thuộc đêm hôm trước nên là âm và mang số chẵn; Chính-Tư thuộc sáng hôm sau,
thuộc dương nên mang số lẻ). Không tin, quư-độc-giả thử bẫy chuột hay vào
pḥng thí-nghiệm nào có chuột bạch, giở chân trước, chân sau con chuột ra
xem th́ biết liền. Kỳ t́nh, chân trước chuột cần nhiều móng để cầm hay
nhón đồ ăn. Khảo-cứu Sinh-học Di-truyền mới đây cho biết rằng, 75 triệu
năm trước đây, Kho Cơ-nhân (genes) Nhiễm-sắc-thể (chromosomes) cuả loài
người (Genome) tương-tự như Kho Cơ-nhân Nhiễm-sắc-thể cuả loài chuột.
Trước đây, ta chỉ mới biết là loài người tiến-hoá từ loài khỉ (Cung Thân),
bây giờ ta mới biết chuyện cung Tư là Cung mà tiền nhân nói đến trong câu:
'Thiên khai ư Tư
天開於子'
(Trời mở tại Hội Tư).
Sau đây là Biểu Nhất-lăm vài tín-kiện căn-bản liên-quan đến 12 Con Giáp:
Cung |
Ṿng
Hoàng đạo |
Con
Giáp |
Tháng
Ta |
Tên
Phạn |
Ngũ-
Hành |
Mộc-tinh-thứ |
Tư
子 |
Bảo-B́nh寶瓶
Aquarius |
Chuột |
Một |
Di-xa |
Thủy |
Huyền-hiêu玄枵
|
Sửu
丑 |
Ma-yết魔羯
Capricorn |
Trâu |
Chạp |
Tỳ-
lị-sa |
Thổ |
Tinh-kỷ星紀 |
Dần
寅 |
Nhân-mă人馬
Sagittarius |
Hổ/
Cọp |
Giêng |
Di- luân-na
|
Mộc |
Tích-mộc析木 |
Măo
卯 |
Thiên-hiết天蝎
Scorpio |
Mèo |
Hai |
Yết-ca-
trá-ca |
Mộc |
Đại-hoả大火
|
Th́n
辰 |
Thiên-xứng天秤
Libra |
Rồng |
Ba |
Tỳ-a |
Thổ |
Thọ-tinh壽星 |
Tỵ
巳 |
Song-Nữ雙女
Virgo |
Rắn |
Tư |
Ca-nhă |
Hoả |
Thuần-vỹ鶉尾 |
Ngọ
午 |
Sư-tử獅子
Leo |
Ngựa |
Năm |
Đâu-la |
Hoả |
Thuần-hoả鶉火 |
Mùi
未 |
Cự-giải巨蟹
Cancer |
Dê |
Sáu |
Tỳ-lị-
chi-ca |
Thổ |
Thuần-thủ鶉首 |
Thân
申 |
Vân-dương雲陽
Gemini |
Khỉ |
Bảy |
Đàn-ni-tỳ |
Kim |
Thực-trầm實沈 |
Dậu
酉 |
Kim-ngưu金牛
Taurus |
Gà |
Tám |
Ma-
ca-la |
Kim |
Đại-lương大梁 |
Tuất
戌 |
BạchDương白羊
Aries |
Chó |
Chín |
Cưu-bàn |
Thổ |
Giáng-lâu降婁 |
Hợi
亥 |
Song-ngư雙魚
Pisces |
Heo |
Mười |
Di-na |
Thủy |
Tưu-tí諏訾 |
Cột 7 ghi mộc-tinh-thứ (Jupiter stations) tức là cung nhật-nguyệt hội với
mộc-tinh mỗi tháng: nói khác đi, khi tụ-hội ba thiên-thể này có cùng
hoàng-kinh (celestial longitudes) hay, nếu độc-giả ưng, lúc đó chúng có
cùng xích-kinh (right ascension). Chữ Nho ghi trong cột 2 là lấy từ tr. 25
sách Nôm Tử-vi Đẩu-số của Tạ Tiên-sinh, đời Vua Tự-Đức.
Nhân tiện nói chuyện Nhà Phật xin ghi vào đây
công-thức của Cụ Hoàng Xuân Hăn đặt ra để đổi Công-lịch C ra Phật-lịch P
(H):
P = C + 544 (cho các năm AD)
P = C + 545 (cho các năm BC ở sau kỷ-nguyên Phật-lịch)
P = C – 544 (cho các năm BC ở trước kỷ-nguyên Phật-lịch)
Khi xem số, dù là Tử-Vi, Tử-B́nh, Quả-lăo Tiên-tông (K),
Tinh-b́nh Hội-hải (L),
hay Hà-Lạc Lư-số (M)v.v.
ta thường hỏi giờ sinh tháng đẻ cuả đương-sự, v́ hai yếu-tố này thay đổi
nhanh hơn hai yếu-tố Năm và Ngày. Nên khi xét đặc-tính 12 Con Giáp, ta nên
chú-trọng đến giờ là yếu-tố thời-gian thay đổi nhanh nhất trong 4 yếu-tố
Năm, Tháng, Ngày, Giờ.
Trên nguyên-tắc, ngày Mùng Một sẽ là ngày trong đó
thời-điểm tu-hội gần nửa đêm nhất. Thời-điểm ấy đựợc gọi là Thiểu
朓 nếu
nhằm buổi sáng và Nục
朒
nếu nhằm buổi chiều, đúng theo định-nghĩa của câu lục-bát trong Tự-Đức
Thánh-chế Tự-học Giải-nghĩa -ca của Vua Dực-tông (J):

Nục là bữa sóc trăng non,
Thiểu là bữa hối trăng c̣n mái tây.
Theo Thiết-vận-khảo, Đường-vận,
Quảng-vận v.v. chữ
朓 đọc là
Thiểu (Thổ + Liễu). Các chữ Nục, Thiểu được dùng nhan-nhản trong các sách
Tiền-, Hậu-Hán-Thư, Tùy-thư hay Hoàng-cực Kinh-thế Thư-truyện.
Xin nhắc lại, theo đúng định-nghiă, Mùng Một Tết là
ngày trăng mới, dù là Thiểu hay Nục, gần sơ-khí Lập-xuân nhất (F).
Điều này rất quan-trọng khi xem số Tử-vi Khí-tiết (sinh trong thời-khoảng
giáp Giao-Thừa) .
Một người sinh giờ Dạ-tư ngay trước Giao-thừa, phải kể là ngày niên-tận
năm trước (30 tháng Chạp nếu là tháng đủ, hoặc 29 tháng Chạp nếu là tháng
thiếu); c̣n sinh giờ Chính-Tư ngay sau Giao-thừa phải kể là giờ Tư Mùng
Một Tết năm sau.
Nhân tiện nói chuyện lịch-pháp và lư-số, tôi xin giải đáp một thắc-mắc
chung cho Người Việt ḿnh hiện nay đă sinh và sống trên toàn-cầu kể cả
Nam-bán-cầu, tại các nước như Tân-Tây-Lan (New Zealand) hay Úc-châu (Australia),
có bốn muà trái ngược với Bắc-bán-cầu. Trong « Tử-Vi Lịch-số Toàn -sinh »
vẫn lấy lá số như thường-lệ, nhưng khi xem hạn (Đại-hạn, Tiểu-hạn, Lưu-niên
Tiểu-hạn, Nguyệt-hạn và Thời-hạn), mỗi cung của Địa-bàn hay Tuế-bàn lại
mang tên của cung xuyên-tâm-đối cho hợp với mùa của nam-bán-cầu.
Lịch Tàu Đời Nhà Thanh (Lịch Th́-Hiến) cũng như lịch đời nay tại Đài-Loan,
Hương-Cảng và Trung-Hoa Lục-điạ và Lịch Ta suốt thời Chính-phủ Quốc-gia
Việt-Nam cuả Quốc-trưởng Bảo-Đại, tại Miền Nam từ 1955 trở đi, cũng như
tại Miền Bắc cho đến ngày 8.8.1967 (Đinh-mùi), đều dùng Lịch tương-tự như
Lịch Th́-Hiến/Hiệp-kỷ và đều lấy Kinh Đông 1200 làm chuẩn v́
kinh-độ này gần Lạc-Dương (Lo Yang) nhất, mà ta biết thị-trấn này hay được
các Vua Tàu chọn làm Kinh-đô: Đông-Chu (Lạc-Ấp), Tiền-Hán, Tân (Vương-Măng),
Hậu-Hán, Tào Ngụy, Tấn (ḍng cuả Tư-mă Ư), Nguyên Ngụy, Tùy, Đường, Lương,
Hậu Đường và Tống. Như ta đă biết, các Lịch-pháp này đều dựa vào ba quy-tắc
căn-bản :
Quy-tắc 1 :
Mùng một Tết nhằm ngày Trăng mới (New Moon) thứ hai sau trung-khí (major
solar term) Đông-chí (khoảng ngày 22-12 dương-lịch). Điều này sai mỗi khi
nhuận Tháng Một hay Tháng Chạp và sẽ sai lần đầu tiên năm 2033 (Quư-Sửu),
sau cuộc cải-biến Lịch Thụ-th́/Đại-thống thành Lịch Th́-Hiến năm Long-Vũ
nguyên-niên (Ất-Dậu, 1645).
Quy-tắc 2 :
Mùng một Tết nhằm ngày Trăng Mới gần sơ-khí (minor solar term) Lập-xuân
nhất (khoảng mùng 4 tháng 2 dương-lịch). Quy-tắc này đă sai năm 1985 (Ất-Sửu)
và sẽ sai năm 2015 (Ất-Mùi).
Quy-tắc 3 :
Mùng một Tết nhằm ngày Trăng mới (New Moon) đầu tiên sau trung-khí Đại-Hàn
(khoảng 20 tháng Giêng dương-lịch). Quy-tắc này đă sai năm 1985 (Ất-Sửu)
và sẽ sai năm 2053 (Quư-Dậu).
Hiện nay, tất cả các nhà làm Âm-Dương Hợp-lịch trên
toàn-cầu, kể cả Trung-hoa Đại-lục, Đài-loan và Hongkong đều nghiêm-chỉnh
tuân theo bốn quy-tắc sau (F):
Quy-tắc 1 :
Phép tính lịch lấy Kinh Đông 1200 làm chuẩn ;
Quy-tắc 2 :
Ngày Trăng Non (Nục hay Thiểu) được chọn làm ngày đầu tháng;
Quy-tắc 3 :
Tiết Đông-chí (Winster Solstice) luôn luôn ở vào tháng Một (11) tức tháng
Tư. Một Tuế tức năm Tiết-khí (Tropic year) sẽ nhuận mỗi khi có trọn 12
tháng giữa hai tháng Một (11) liên-tiếp, ở đầu và cuối Tuế; nói khác đi,
thời-đoạn này phải chứa đúng 13 ngày sóc ;
Quy-tắc 4 :
Trong một Tuế nhuận, tháng nhuận sẽ là tháng chỉ có một tiết-khí, thông
thường là sơ-tiết, nhưng đôi khi lại chỉ có Trung-khí. Vd : năm Bính-thân
(1956) có trung-khí Đại-thử vào tháng 6 nhuận; năm Đinh-mùi (1967) có
trung-khí Hạ chí vào tháng 5 nhuận ;Tháng nhuận này mang tên cuả tháng
trước. Chẳng hạn như năm nay, Kỷ-sửu (2009) sẽ nhuận bởi v́ trong Tuế sở-quan
(corresponding Sú), giữa hai Đông-chí đầu (21-12-2008) và cuối Tuế
(22-12-2009) có trọn 12 tháng. Tháng Năm Nhuận tại v́ chỉ có sơ-khí Tiểu-thử
(bắt đầu từ giờ Th́n ngày rằm tức 8 giờ 24 phút múi giờ 8, ngày
07-07-2009).
Luận-Giả Án về Tiết-khí duy-nhất tháng Nhuần:
Nhật-kinh
日經
s là kinh-độ mặt trời trên thiên-cầu. Ngày phân-chí (xuân-phân, thu-phân,
hạ-chí, đông-chí), tri-số nhật-kinh là một bội-số cuả 900 như
trong bảng:
Tên |
Tên
Anh-ngữ |
Nhật-
Kinh |
Ngày
DL
phỏng
chừng |
Số
ngày
Trong
mùa |
Xuân-phân |
Spring Equinox |
00 |
20.03 |
72.76
ngày |
Hạ-chí |
Summer Solstice |
900 |
21.06 |
93.65
ngày |
Thu-phân |
Fall
Equinox |
1800 |
22-23.09 |
89.84
ngày |
Đông-chí |
Winter Solstice |
2700 |
21-22.12 |
88.99
ngày |
Tháng tiết-khí
節氣gồm
nửa trước, sơ-tiết
初節
(minor solar term), và nửa sau, trung-khí
中氣
(major solar term). Vậy một năm có 2x12 = 24 tiết-khí như bảng sau:
Tháng
Tiết-khí |
Tiết-khí |
Hán
ngữ |
Tên
Anh-ngữ |
Nhật
kinh |
Ngày
DL
phỏng
chừng |
Giêng |
Lập-xuân |
立春 |
Spring begins |
3150 |
04.02 |
|
Vũ-thuỷ |
雨水 |
Rain
Water |
3300 |
19.02 |
Hai |
Kinh-trập |
驚蟄 |
Excited Insects |
3450 |
06.03 |
|
Xuân-phân |
春分 |
Vernal Equinox |
00 |
21.03 |
Ba |
Thanh-minh |
清明 |
Pure
Brightness |
150 |
05.04 |
|
Cốc-vũ |
穀雨 |
Grain
Rain |
300 |
20.04 |
Tư |
Lập-hạ |
立夏 |
Summer Begins |
450 |
06.05 |
|
Tiểu-măn |
小滿 |
Grain
Fills |
600 |
21.05 |
Năm |
Mang-chủng |
芒種 |
Grain
in Ear |
750 |
06.06 |
|
Hạ-chí |
夏至 |
Summer Solstice |
900 |
21.06 |
Sáu |
Tiểu-thử |
小暑 |
Slight Heat |
1050 |
07.07 |
|
Đại-thử |
大暑 |
Great
Heat |
1200 |
23.07 |
Bẩy |
Lập-thu |
立秋 |
Autumn Begins |
1350 |
08.08 |
|
Xử-thử |
處暑 |
Heat
Retreats |
1500 |
23.08 |
Tám |
Bạch-lộ |
白露 |
White
Dew |
1650 |
08.09 |
|
Thu-phân |
秋分 |
Autumnal Equinox |
1800 |
23.09 |
Chín |
Hàn-lộ |
寒露 |
Cold
Dew |
1950 |
08.10 |
|
Sương-giáng |
霜降 |
Frost
Descends |
2100 |
24.10 |
Mười |
Lập-đông |
立冬 |
Winter Begins |
2250 |
08.11 |
|
Tiểu-tuyết |
小雪 |
Little Snow |
2400 |
22.11 |
Một |
Đại-tuyết |
大雪 |
Heavy
Snow |
2550 |
07.12 |
|
Đông-chí |
冬至 |
Winter Solstice |
2700 |
22.12 |
Chạp |
Tiểu-hàn |
小寒 |
Little Cold |
2950 |
06.01 |
|
Đại-hàn |
大寒 |
Severe Cold |
3000 |
20.01 |
V́ tính phỏng chừng với giả-thiết là
trái đất chuyện-động đều trên Hoàng-đạo (b́nh-nhật), nên ngảy cho trong
cột 6 có thể chệch một ngày. Trên thực-tế, v́ vectơ gia-tốc của trái đất
hướng-tiêu (hướng về tiêu-điểm chuyển-động là mặt trời), nên vận-tốc diện
tích (areolar speed) mới đều theo đúng định-luật Kepler thứ nh́. Ngày
chệch này thường được điều-chỉnh tự-nhiên bằng ngày nhuận năm DL.
Tương-tự vectơ gia-tốc của mặt trăng
cũng hướng-tiêu về phía trọng-tâm trái đất nên vận-tốc diện-tích của mặt
trăng mới đều. Giao-tuyến của măt phẳng hoàng-đạo với mặt phẳng bạch-đạo
được gọi là đường nút. Giao-điểm đường này với bạch-đạo được gọi là nút
lên L (ascending node), tại đó vỹ-độ mặt trăng chuyển từ âm sang dương, và
nút xuống K (descending node), tại đó vỹ-độ mặt trăng chuyển từ dương về
âm. Ngoài ra, điểm bạch-đạo gần trái đất nhất mang tên điểm cận-địa
(perigee). Nếu ta đọc kỹ sách thiên-văn Ấn-độ Indian Atronomy,
Quả-Lăo Tinh Tông của Trương Quả Lăo, một trong Bát Tiên, và sách
Tinh B́nh Hội Hải Toàn-thư
của Hà Dương Thủy Trung Long,
ta sẽ
thấy nút lên chính là La-hầu
羅侯 (Phạn ngữ: Rahu =
Dragon’s head) và nút xuống chính là Kế-đô
計都(Phạn
ngữ: Ketu = Dragon’s tail). Mặt trăng chuyển-động theo chiều lượng-giác
với chu-kỳ cân-địa-giác bằng 27.212220817 nghĩa là sẽ trở lại cùng một nút
lên hoặc xuống sau chu-kỳ này.
Trong bảng 24 tiết-khí, ta có thể
tính ngày khởi đầu sơ-tiết S và trung-khí T bằng cách dùng trị-số
nhật-kinh s trong các công-thức sau:
S = [3 +
((s -15) div 300)] amod 12 (1) và T = [2 + (s div 300)]
amod 12 (2)
Cho nên,
muốn cho tháng nhuần chỉ có một tiết-khí, bó buộc ngày khởi đầu tiết-khí
nhuận phải là một trong ba ngày 14, 15 hoặc 16: nếu tháng nhuần đủ th́ là
15 hoặc 16; nếu tháng nhuần thiếu th́ lại là 14 hoặc 15. Ta có định-lư:
Tiết-khí duy-nhất tháng ta nhuận luôn luôn là một ngày rằm hay chệch một
ngày (14 hoặc 16).
Hệ-luận Tử-vi:
Người nào sinh tháng nhuận nhưng ở trước khoảng tiết-khí duy nhất được coi
là sinh tháng trước cùng tên với tháng nhuận; ngược lại, nếu sinh bên
trong khoảng này, th́ lại được coi như sinh tháng sau.
Ta có: chương-tuế = 19 năm tiết-khí
= 19 x 365.2421875 = 6939.601563 ngày và
chương-nguyệt
@
235 sóc-thực = 235 x 29.530588853 = 6939.68838 ngày. Do đó cứ mỗi
chương-tuế, hai chu-kỳ này lai sai nhau 0.086817 ngày, sau mỗi bộ bốn
chương-tuế chúng sai nhau 4 x 0.086817 = 0.347268 và sau mỗi thế-kỷ chúng
sai nhau 0.3617375 ngày. Trung b́nh cộng cuả chương-tuế và chương-nguyệt
vào khoảng
|
2 |
|
6339 |
|
ngày |
_____________________________________ |
|
3 |
|
nên trong mỗi bộ 4 chương-tuế, hai ngày cùng tên (Vd Mùng 8
tháng 2) trong hai chương-tuế đầu sẽ có ngày can-chi lệch
nhau 40 vị; trong hai chương-tuế 2 và 3, chúng sẽ lệch nhau
19 vị; trong hai chương-tuế 3 và 4, chúng sẽ lệch nhau 59 vị;
trong hai chương-tuế 4 và chương-tuế 1 bộ kế, chúng sẽ lệch
nhau 39 vị v.v. Nói khác đi trong mỗi cặp chương-tuế
liên-tiếp, chuỗi sóc vọng, tháng đủ, tháng đủ, tháng thiếu,
tháng nhuận được lập lại một cách trung-thực.
Ta hăy lập bảng năm nhuận cho thế-kỷ 20:
Can-chi
Tết DL |
Th.
Nh. |
Ng.
Nh. |
Tiết-khi
Th. Nh. |
Can-chi
Tết DL |
Th.
Nh. |
Ng.
Nh. |
Tiết-khi
Th. Nh. |
1900 1B |
8 |
16 |
Hàn-lộ |
1966 79 |
3 |
16 |
Lập-hạ |
1903 62 |
5 |
14 |
Tiểu-thử |
1968 77 |
7 |
15 |
Bạch-lộ |
1906 26 |
4 |
15 |
Mang-chủng |
1971 3B |
5 |
16 |
Tiểu-thử |
1909 8A |
2 |
15 |
Thanh-minh |
1974 93 |
4 |
16 |
Mang-chủng |
1911 88 |
6 |
15 |
Lập-thu |
1976 91 |
8 |
15 |
Hàn-lộ |
1914 4C |
5 |
16 |
Tiểu-thử |
1979 55 |
6 |
16 |
Lập-thu |
1917 A4 |
2 |
14 |
Thanh-minh |
1982 19 |
4 |
15 |
Mang-chủng |
1919 A2 |
7 |
16 |
Bạch-lộ |
1985 71 |
1 |
14 |
Kinh-trập |
1922 66 |
5 |
14 |
Tiểu-thử |
1987 7B |
6 |
14 |
Lập-thu |
1925 2A |
4 |
16 |
Mang-chủng |
1990 33 |
5 |
15 |
Tiểu-thử |
1928 71 |
2 |
15 |
Thanh-minh |
1993 97 |
3 |
14 |
Lập-hạ |
1930 8C |
6 |
14 |
Lập-thu |
1995 95 |
8 |
15 |
Hàn-lộ |
1933 44 |
5 |
15 |
Tiểu-thử |
1998 59 |
5 |
14 |
Tiểu-thử |
1936 97 |
3 |
16 |
Lập-hạ |
2001 11 |
4 |
14 |
Mang-chủng |
1938 A6 |
7 |
15 |
Bạch-lộ |
2004 64 |
2 |
15 |
Thanh-minh |
1941 6A |
6 |
16 |
Lập-thu |
2006 73 |
7 |
16 |
Bạch-lộ |
1944 11 |
4 |
16 |
Mang-chủng |
2009 37 |
5 |
15 |
Tiểu-thử |
1947 75 |
2 |
14 |
Thanh-minh |
2012 8A |
4 |
16 |
Mang-chủng |
1949 84 |
7 |
16 |
Bạch-lộ |
2014 99 |
9 |
15 |
Lập-đông |
1952 37 |
5 |
16 |
Tiểu-thử |
2017 51 |
6 |
16 |
Lập-thu |
1955 9B |
3 |
15 |
Lập-hạ |
2020 A4 |
4 |
14 |
Mang-chủng |
1957 AA |
8 |
15 |
Hàn-lộ |
2025 77 |
6 |
14 |
Lập-thu |
1960 51 |
6 |
15 |
Lập-thu |
2028 2A |
5 |
14 |
Tiểu-thử |
1963 15 |
4 |
15 |
Mang-chủng |
2031 82 |
3 |
15 |
Lập-hạ |
Trong cột 1, số đầu cho năm DL và số thứ nh́ cho ngày can chi của Tết DL.
Hiện nay Người Việt tự-do thường dùng một loại Lịch Ta, hậu-thân cuả Lịch
Tam-Tông-Miếu hoặc là hoá-thân cuả một vạn-niên-lịch Tầu nào đó.
Như ta biết ở trên, các loại lịch này chưa áp-dụng
trọn vẹn 4 quy-tắc tân-tiến làm lịch nêu trên. C̣n Lịch Hà-nội (căn-cứ vào
kinh-tuyến của Hà-nội chứ không dựa vào kinh-tuyến gốc của múi giờ 7) mà
nhiều kiều-bào đôi khi trót dùng, lại mắc thêm chứng bất-trị là Tết thường
sớm một ngày, đôi khi lại sớm cả tháng, như năm 1985 chẳng hạn. Lại nữa,
ba thứ lịch vừa kể đều căn-cứ theo múi giờ 7 (Hà-nội) hoặc 8. Thế mà Dân
Việt nay đă sinh và sống trên khắp thế-giới, nghiă là trên cả 24 múi giờ.
Nên chi tối-thiểu phải làm ra 2 x 24 = 48 thứ lịch khác nhau cho mọi múi
giờ và cho cả Bắc lẫn Nam-bán-cầu. Ôi, phiền-toái quá! May thay, mới đây
tôi mới sáng-chế ra một thứ lịch điện-toán duy-nhất mệnh-danh là Lịch Lĩnh-Nam
hay Lịch Nam, dựa theo câu Hán-thi 'Việt Điểu Sào Nam Chi 'trong bài 'Hành
Hành trùng Hành Hành' và không dùng bảng lập-thành (lookup tables) để thay
thế các Lịch Ta, Lịch Tầu sẵn có, thường dùng để xem số. Trong Quy-tắc 1,
Lich này chọn Kinh-tuyến Greenwich làm chuẩn, cho nên ứng với Giờ phổ-quát
(Universal Time) của múi giờ gốc. Thế mới biết:
Lịch Nam, Lịch Bắc, Lịch Tầu,
Trong ba lịch ấy, đứng đầu Lịch Nam.
Tại sao lại có chuyện tréo cẳng ngỗng, là Hà-nội làm Lịch Ta không giống
ai, kể cả Trung-quốc? Số là trước Cuộc Tổng-công-kích/Tổng-khởi-nghiă Tết
Mậu-Thân (1968), một năm con khỉ lịch-sử, chính-quyền Hà-Nội, với sự
cố-vấn cuả GS Toán Nguyễn-Xiển, ngày 8/8/1967, đă âm-mưu sửa Lịch Ta cho
nhanh một ngày bằng cách chọn Kinh-độ cuả Hà-nội (105050' Đông)
thay v́ kinh độ gốc 1050 Đông của múi giờ 7. và để ít lâu sau,
đúng ngày Tết dương-lịch 1968, Hồ Chủ-tịch mới có dịp đọc bốn câu thơ sau
đây trên đài phát-thanh Hà-Nội :
Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua,
Thắng trận tin vui khắp nước nhà.
Nam Bắc thi-đua đánh giặc Mỹ.
Tiến lên !
Toàn-thắng ắt về ta !
Vâng! Cuộc đánh úp cuả Miền Bắc trên khắp Bốn Vùng Chiến-thuật trong năm
tháng đầu năm 1968, quả là một thắng-lợi thụt lùi thành là thua lỗ về
tổng-số binh lính chết (60.000), bị cầm tù (10.000), đầu hàng (6000),
vũ-khí đánh mất đủ loại (trên 17.000), sau khi đă thủ-tiêu và chôn sống
hàng ngàn đồng-bào vô-tội tại cố-đô Huế.
Vải thưa che mắt Thánh. Cụ Hoàng Xuân Hăn có than phiền khi đọc thấy là
trong sách 'Bảng Đối-chiếu Âm-dương-lịch' do Nguyễn Trọng-Bỉnh,
Nguyễn-Linh và Bùi Viết-Nghị soạn (Nhà Xuất-bản Khoa-học Xă-hội, Hà-nội,
1976), bảng đối-chiếu sóc nhuận giữa Lịch Ta/Lịch Tầu trong thời-khoảng
1644-1999, bắt đầu từ năm 1664, đă không dùng Bách-trúng-kinh tức là Lịch
Khâm-thụ thời Lê-Trung-hưng, rồi Nhà Nguyễn Tây-Sơn, Triều Nguyễn (cho đến
năm 1812: Vua Gia-Long mới đổi theo Lịch Th́-hiến cuả Nhà Thanh vào năm
1813), nhưng căn cứ vào múi giờ 7 của Việt Nam, mà lại dùng ngay Lịch
Th́-hiến, căn cứ vào múi giờ 8. Do đó mỗi đầu ngày sóc của mỗi tháng ở
vạn-niên-thư c̣n ăn vào ngày hôm trước đối với lịch Việt-nam. Thành thử ra
các tác-giả muốn chữa theo lịch Th́-hiến phải tính lại hoàn-toàn ngày sóc,
tháng thiếu, tháng đủ, và tháng nhuận. Thậm chí bắt đầu từ năm 1901, họ
lại dùng Lịch Việt-nam mới ban hành sau này (8-8-1967) và căn-cứ theo
kinh-độ Hà-nội. Hoá ra là các tác-giả nêu trên chỉ muốn lừa dối nhân-dân
và người Việt hải-ngoại nhẹ dạ trót dùng lịch giả hiệu cuả Hà-Nội, bất
chấp chân-lư muôn đời là lịch chân-chính phải đi đôi với Sử-học.
Ngày nay, khi phân-dă nghiă là chia các nước cho 12 cung Hoàng-đạo từ Tư
đến Hợi, ta thường dùng hai h́nh xoắn óc âm-dương, tương-tự như h́nh xoắn
ốc kép (double helix) cuả DNA (Deoxyribonucleic Acid) do hai nhà bác-học
James Dewey Watson, Francis Crick khảm-phá và cùng được lănh Giải-thưởng
Nobel Sinh-lư-học hoặc Y-khoa năm 1962 với Maurice Wilkins. T́nh cờ hai
nước Trung-hoa và Việt-nam truyền-thống đều thuộc Cung Th́n (Con Rồng);
hai nước Mỹ và Pháp đều thuộc Cung Dậu (Con Gà) v.v. Dám hỏi ngày nay,
nước CHXHCNVN thuộc về Con Giáp nào? Đang tâm sửa lịch để phục-vụ một ư-thức-hệ,
nếu phải xem số mệnh cho nước CHXHCNVN cho chắc chắn, ắt ta phải chế ra
Con Giáp thứ 13 thế nào cho phải lẽ. Hỏi tức là trả lời vậy. Thế mới biết:
Tố phú-qúi hành hồ phú-qúi; tố bần-tiện hành hồ bần-tiện. (Trung Dung,
Chương XIV)
素富貴行乎富貴,
素貧賤行乎貧賤
(禮記,第三十一章
É
中庸,第十四章).
Chữ tố
素có
nghĩa là thiên-tính, tức tính trời phú-bẩm, nhưng ở đây, theo Chu-tử lại
có nghiă là "bây giờ", là "nay":
(Bây giờ muốn làm cho nước mạnh dân giầu, phải hành-động sao cho nước mạnh
dân giầu; bây giờ muốn làm cho dân, cho nước nghèo-hèn chỉ cần hành-động
sao cho dân nước nghèo-hèn như ai nấy đă mục-kích thực-tại Việt-Nam từ
1975 đến giờ).
THƯ TỊCH KHẢO
A The
Inner Structure of the I Ching: The Book of Transformations, by Lama
Anagarika Govinda (1898-1985), Preface by Zentatsu Baker-roshi,
Introduction by John Blofeld, Calligraphy by Al Chung-Liang-Huang,
Wheelwright Press, Tokyo, Weatherhill, New York, 1981.
B Dịch-kinh
Hoàng-Cực Kinh-Thế Biện Thích
皇極經世辨釋,
Trương Sùng Tuấn
張崇俊
trước, sơ-bản, Vũ-lăng, Đài-bắc, tháng 9-1993.
C Tân
Dịch Tứ Thư Độc Bản
新譯四書讀本,
tu-đính bát-bản, Tạ Băng Oanh
謝冰瑩,
Lư Tiển
李鍌,
Lưu Chính Hạo
劉正浩,
Khâu Tiếp Hữu
邱燮友
chú-thích, Tam Dân Thư-cục, Đài-bắc, tháng 9-1983.
D Nhất
Thiết Kinh Âm Nghĩa
一切經音義,
Đường
·
Đại-Từ-Ân Tự Sa-môn Thích Nguyên Ứng
釋元應soạn,
Vũ-tiến Trang Hân
武進莊炘,
Gia-định Tiền Điếm
錢坫,
Dương-hồ Tôn Tinh Diễn
孫星衍đồng
hiệu-chính, Tân-văn-phong tái-bản, Đài-bắc, tháng 3-1980.
E
A Dictionary of Chinese Buddhist Terms, compiled by William Edward
Soothill and Lewis Hodous, Motilal Banarsidass, Delhi, Vanarasi, Patna,
Madras, 1987.
Indian Atronomy, A Source Book,
compiled by B. V. Subbarayappa and K. V. Sarma, Nehru Center, Bombay,
1985.
F
Reingold, Edward M., Dershowitz, N., Calendrical Calculations, The
Millenium Edition, Cambridge University Press, Cambridge, 2001.
G
Ngũ
Hành Đại Nghĩa
五行大義,
Tùy
·
Tiêu Cát
蕭吉
soạn, Nghiêm Dịch嚴繹
thẩm-đính, Vũ-lăng tam-bản, Đài-bắc, tháng 8-1992.
H
Hoàng Xuân Hăn, Lịch và Lịch Việt Nam, Tập-san Khoa-học Xă-hội, Số
Đặc-biệt, Số 9, tháng 2-1982, Paris.
I Sở-Giản
Bạch Ngũ Hành Giải Hỗ
簡帛五行解詁,
Lưu Tín Phương劉信芳soạn,
Nghệ-văn sơ-bản, Đài-bắc, tháng 12-2000.ẩ
J
Tự-Đức
Thánh-chế Tự-học Giải-nghĩa-ca Dịch-chú嗣德聖製自學解義歌譯註,
Việt
Nam Nguyễn-triều Dực-tông Anh-hoàng-đế
越南阮朝翼宗英皇帝nguyên
soạn, Trần Kinh Hoà
陳荊和trước,
Hương-cảng Trung-văn Đại-học xuất-bản, 1971.
K
Quả Lăo Tinh Tông
果老星宗,
Trương Quả Lăo張果老
trước, Thượng-hải ấn-thư-quán, Hongkong, tháng 5-1980.
L
Tinh B́nh Hội Hải Toàn-thư
星平會海全書,
của Hà Dương Thủy Trung Long
霞陽水中龍Thượng-hải
ấn-thư-quán, Hongkong, tháng 8-1982.
M
Hà-Lạc Lư-số
河洛理數,
Tống
·
Hoa-sơn Hi-di Tiên-sinh Trần-Đoàn
陳摶trước,
Tống
·
Khang-tiết Nghiêu-phu Tiên-sinh Thiệu-Ung
邵雍thuật,
Tinh-Tinh xuất-bản-xă, Hongkong.

Gs
NGUYỄN
HỮU
QUANG
12/2/2010

Trang XUÂN 2010- Văn Học Nghệ Thuật
Và Quê Hương