Mục Lục
 

  Trang B́a
     
 Ban Biên Tập
 
Lá T Xuân
     
 Nguyễn Thị Thanh T
      
Đọc Lá TXuân:
      
Lê Thị MChâu
  Táo Quân Chầu Trời
     
 Nguyễn Thị Thanh T
 Câu Đối Tết 
     
 Lê Bá Thiên
 Câu Đối Tết
       Vinh H

 

Chúc Tết
 

 Mừng Xuân Canh Dần
      Vinh H
 
Đôi Lời Tâm S
     
Lư H
 TChúc Tết
     
Trần Đ́nh Thọ


X
uân
Q
N



 
 Mùa Mai Hiếm
      
Nguyễn Quang Lộc
 
 Chuyện Cái Thùng Bánh Tét
       Lương LBích San
  Xuân Này Tôi Nhớ Măi
      
Trần N Phương

 

Xuân
Đ
ất Khách


  Một Cái Tết L K 
      
LThanh Cư
  Xuân Nguyện
       Đinh Thị Lan
 
CCâm
     
 Lâm Thanh Nhàn
 
Trước Thềm Năm Mới
       Đặng Thị Ngọc N
  Hai Không L Chín Nh́n Lại 
     
 Phi Ṛm


 

Sinh Hoạt Tết
Hải Ngoại
 

  Kịch Vui Vơ Thuật 
     
 Nguyễn Dzuy Nam
      
Nguyễn Dzuy An


 

H́nh nh Tết
 

  QN 
     
 SXương Hải
 
 Hải Ngoại 
     
 Đinh Bá H

 

Hoa Xuân
N
gày Tết
 

  Hoa Đào Trong Mắt Ai 
     
 Phạm Thị Nhung

 

Chuyện Vui
 

 Đầu Năm K Chuyện Vui
     
Lư H
 Tiếng Việt
     
Nguyễn Quang Lộc

 


Ca Hát/Nhạc

     Tiếng Hát:

 Mộng Chiều Xuân
     
Lan Đ́nh
 Tiếng Sáo Thiên Thai
     
Lan Đ́nh
 Gái Xuân
     
Lan Hương
 
Ca Vọng C
     
Lư H
 Đọc Truyện:"Trăng Q
      
Nhà" Của Phùng Thị Phượng

     
Lư H
 Nha Trang Ngày V
     
Nguyễn Tính
 

 

TVi


  Người Tuổi Dần
     
ABC Sưu Tầm (NXV)
 

 

Tôn Giáo


  Phật Giáo Đi Vào Đời
     
Mục Đồng
  Chùa Ngọc Lâm

     
TBửu Nguyễn Thừa
 

 

Năm Canh Dần
N
ói Chuyện H  

  Cọp V Làng
      
Vinh H
 
Tản Mạn Về Năm Canh Dần
      
Nguyễn Văn Thành

 

 

d_bb
Đ.H.K.H
 

  Cách Chơi Mạt Chược
      
Tô Đồng
  Liêu Trai C D
       Đàm Quang Hưng
  Thanh Phong Thi Tập 
     
 Vũ Tiến Phái
 
LVu Lan
       Nguyễn Văn P
 
Chính Danh Thủ Phạm
      
V Đổi Lịch Báo Hại

     
 Nguyễn Hữu Quang
 
Cỗi RBậc Hai
       Nguyễn Đc Tường


 

Tranh
N
ghệ Thuật


 Tranh Họa Nghệ Thuật

      
Phi Ṛm
 

 

Kinh Nghiệm Sống

 Xuân Đời Người Theo Chu
     K
Thời Gian

      
Hải Lộc

 


Văn Hóa
m Thực



 Bánh Tét-Hương V Tết
     
Lê Thị MChâu
 GThủ
     
Lê Thị Đào
 Mứt Dẻo
     
Lê Thị Đào
 Nấu Mắm Tôm
     
Lư H
 Khoai Lang
     
Dương Công Thi

 



Sức Khỏe

      
  Đại Dịch Cúm Heo Hay
      
Đại Chủng Ngừa Cúm Gà
 
     
BS Nguyễn Vĩ  Liệt
  Những Căn Bản V
      
Di Truyền Học
 
     
BS Nguyễn Vĩ  Liệt

 

 

Biên Khảo
Kinh Tế
 

Việt Nam

  Tổng Kết T́nh H́nh Kinh Tế
      
Việt Nam Năm 2009

       Nguyễn Văn Thành

Hoa K

  Tổng Kết T́nh H́nh Kinh Tế
      
Hoa K Năm 2009

       Nguyễn Văn Thành


 

Chuyện
Đ
ó Đây
 

  Cảm Ơn ASIMO
      
BS ĐHồng Ngọc
 
Năm Hết Tết Đến

      
BS ĐHồng Ngọc
 
Mười Năm Chân Bước Trên
     
Đường Dài

       Lương LHuyền Chiêu
 
 Ngày Xuân K Chuyện Làm
      
Báo Singapore
 

       Nguyễn Thị Thục


 

Viết v
Ninh Ḥa


 
Ḥn Vọng Phu Q Tôi

     
 Đinh Hữu Ân
 
Ninh Ḥa Tôi Xưa

     
 Lương LHuyền Chiêu
 
Những Bước Đường Đi Qua
      
Của Một Người Con Xóm
      
Rượu

     
  Nguyễn Hưng
  Chùm Me "Phong p"

     
 Lê Thị Hoài Niệm

 



Viết v
ninh-hoa.com



  Viết Cho Ninh-Hoa.com
     
 Lê Thị MChâu
 
Gái Tuổi Dần

     
 Lương LBích San



 

 KNiệm V
Trường:

Trần B́nh Trọng
Ninh Ḥa

  Những Mùa Xuân Đi Qua
     
 Thầy Trần Hà Thanh


Vạn Ninh

  Xuân Nhớ
      
N Thị Kim Anh
 
Thương V Vạn Ninh

      
Thầy NK
  Nha Trang Ngày V

      
Nguyễn Thị Kính
  Nhớ V Nha Trang

      
Nguyễn Thị Kính
  Phôi Pha Tháng Ngày

      
Thầy Trương Văn Nghi
  Một Chuyện Mùa Xuân

      
 Cô Đặng Thị Tuyết N
  Chúc Mừng X Vạn

      
Nguyễn Thị T
 

Các Trường Khác

 Thảo Trang
     
  Nguyễn Đồng Danh
 
Trường Hưng Đạo NhaTrang

     
  Phạm Thanh Phong


 

Thi Nhạc
Giao Duyên
 

 Hồn Tôi Theo G Bay V
      
Mùa Xuân

     
 LMST
 Nắng Mai

     
 Mục Đồng
 

 

Văn Học NT
Lịch Sử/Địa Lư
 


 
Cảm Nghĩ VNhạc Dân Gian

      
Anh Bằng - Hoàng Nam
 
"Xuân Dạ"

      
Dương Anh Sơn
  "Xuân Nhật Ngẫu Hứng"

      
Dương Anh Sơn
  Em Là Nốt Nhạc D Thương

      
NxVạn
 
Bài Hát V Tha La Trong
      
Kư c

      
Việt Hải  Los Angeles
  Ai Xuôi V Tây Đô ?

      
Việt Hải & Mindy Hà
  Sống Đ Viết, Viết Đ Sống

      
Trần Minh Hiền
  T Xuân Điều Ngự Giác
      
Hoàng Trần Nhân Tông

      
TBửu Nguyễn Thừa

 



T
 


  Chúc Xuân

      
Nguyễn Thị Bảy
  Mừng Ngày Hội Ngộ 

      
Nguyễn Thị Thanh B́nh
  Ba Mùa Xuân

      
Nguyên Bông
  Hoài Cảm

      
Nguyên Bông
  Gởi Thiệp Xuân Thăm Mẹ

      
Trần Ngọc Chánh
  Nhớ Xuân

      
Hương Đài
  Xuân Của Chị

      
Lan Đinh
  Hương Biển Mặn Mà Xuân

      
Thầy Quách Giao
  Xuân Tàn

     
 Lê Thị Ngọc Hà
  Đôi Mắt Em

      
Việt Hải LA
  Một Nửa Yêu Em

      
Việt Hải Los Angeles
  Khai Bút 2010

      
Trần Minh Hiền
  Con Sông Nào Đă Xa Nguồn
      
Huỳnh Trịnh Tuyết Hoa
  Lạc Lơng
      
Nguyễn Thị Tuyết Hoa
  Xuân Ly Hương

      
Vinh H
 Xuân V Lại Nhớ Q Hương

      
Vinh H
  Ngọt Ngào Xuân  

      
Trần Thị Phong Hương
  Bỗng

      
Nam Kha
  Sắc Xuân

      
Đinh Thị Lan
  Mùa Xuân Trên Đất Lowell

      
CBà Trần Thanh Liễu
  Chuyện Ngày Xưa

      
Nguyễn Duy Long
 Xuân Ơi! Xin Chầm Chậm N

      
Hải Lộc
  Xuân V

      
Lê Thị Lộc
  Người Đi

      
Đàm Thị Ngọc Lư
 Đôi Ta  

      
Đặng Thị Ngọc N
 Canh Dần...Đừng Nên !

      
Đặng Huy Nhẫn
 Thói Đời  

      
Đặng Huy Nhẫn
 Nắng Chiều Xuân  

      
Phan Kiều Oanh  
 T́nh Xuân  

      
Phan Kiều Oanh
 Xuân Chia Ly  

      
Phan Kiều Oanh
 Hạnh Phúc Đâu Xa

      
Nguyễn Hoàng Phi
  Đợi Anh V

     
  Phạm Thanh Phong
  Không Đ          

      
Trần N Phương
  Nhớ Xuân Xưa          

      
Trần N Phương
  Gương Mặt Trái Xoan

      
NQ
  Ngỡ Ngàng NXuân

      
Lâm Minh Tài
  Xuân Tri K          

      
Lâm Minh Tài
 Mùa Xuân Đó Phút T́nh C  

     
Cô Kim Thành
 Trăng Ngủ Quên

      
Cô Kim Thành
  Nỗi Nhớ Chiều Cuối Năm

      
Vơ Ngọc Thành
  Phác Họa

      
Vơ Ngọc Thành
  Dấu n T́nh Q

      
Anh Thy
  Quả Dưa Ngày Tết

      
Nguyễn Thị T
  Tưởng Nhớ

      
Thi Thi
  Xuân Tha Hương

      
Nguyễn Thị T
  Mùa Xuân Và Nỗi Nhớ

      
Trần Đ́nh Thọ
  Chúc Mừng Năm Mới

      
N Trưởng Tiến
  Q Hương Tôi Nỗi
      
Chờ Mong

      
Nguyễn Tính
  Xuân Viễn X

      
Nguyễn Tính
  Tháng Giêng Ơi

      
Lương MTrang
  Em Có Biết

      
Nguyễn Thục
  NCọp Lên Ngôi
     
Tú Trinh
  Xuân - Vẫn m Ḷng

      
Thượng Tọa Thích Ngộ T
  Thương Nhớ Ơi !
      
Nguyễn Thị Thanh T
 T́nh Xuân Đất Khách

      
Du Sơn Lăng T
  Xuân Gợi CHương

      
Du Sơn Lăng T
  Ca Khúc Mùa Xuân

      
Lê Duy Vũ
 


Văn

 

  Bóng Nắng Xuân
       Nguyên Bông
 
 Những Vần TVụn Gẫy
       Nguyễn Tấn Ca
 
 Nỗi Nhớ Cuối Năm
       Trần Thị Chất
 
 Những Ngày Giáp Tết
       Lê Thị MChâu
 
 Hạt Giống Đang Nảy Mầm
       Phan Phụng Dung
 
 Mái NXưa
       Tâm Đoan
 
Tôi Ơi Đừng Tuyệt Vọng
     
 Lê Thị Ngọc Hà
 
Bông Cải
     
 Huỳnh Trịnh Tuyết Hoa
  Hơi Thở Mùa Xuân
      
 Nguyễn Thị Tuyết Hoa
  Mưa Cuối Mùa
      
 Nguyễn Thị Tuyết Hoa
 
Tiếng Vọng Trên Ngàn
     
 Tường Hoài
 
Giây Phút Giao Thừa
     
 Lư H
  Nơi Trái Tim
       Nguyễn Quang Lộc
 
 Tạm Biệt...
       Thanh Mai
  Trên Nỗi Nhớ Thương Đau   

      
Nguyễn Hữu Nghĩa
  KNiệm...Vui
     
 Phan Kiều Oanh
  Mai Hương Xuân   

     
 Topa  Panning
  Chào Bảy Mươi   

      
Trương Thanh Sơn
  Phần Thưởng
     
 Lâm Minh Tài
  Nơi Đàn Chim Bay V T́m
       
Hơi

      
Nguyễn Hữu Tài
  Đám Ma Người Ngoại Đạo
     
 Hoàng - Thanh
  Xúc Tép 

      
Dương Công Thi
  Em Tôi Đă Ra Đ

      
Hà Thị Thu Thủy
  Buồn Vui Đời Lính TT

      
Nguyễn Tính
  Những Con Đường Dưới
     
Chân Tôi
       Nguyễn Đôn Huế Trang


 


 

 

 

 

Thư từ, bài vở, h́nh ảnh hoặc
ư kiến xây dựng, xin liên lạc:

 
diem27thuy@yahoo.com

 



 

 

 

 


 

 


 

Mỗi năm hoa đào nở

Lại thấy ông đồ già

Bày mực tàu giấy đỏ

Bên phố đông người qua

 

Mỗi lần Tết đến, tôi thường có dịp đọc lại bài thơ Ông Đồ Già của Vũ Đ́nh Liên in trong một tạp chí nào đó. Mùa xuân và hoa đào. Tác giả đă mượn h́nh ảnh hoa đào trong một bài thơ nổi tiếng của Thôi Hộ, nhưng, oái oăm thay, đáng lẽ thiếu nữ, ông lại cho hoa cặp kè với một ông đồ già. Người thiếu nữ trong mấy câu thơ đài các của Thôi Hộ đến rồi đi, như con thoi; ta không biết cô đẹp xấu bao nhiêu nhưng qua nét chấm phá của nhà thơ đời Đường, ta tưởng tượng là cô phải đẹp ghê lắm. C̣n Ông Đồ Già của Vũ Đ́nh Liên? Qua năm khổ thơ b́nh dị, mộc mạc, ta h́nh dung một nhà nho cũ kỹ, khăn đóng, áo the, thoáng thấy lại một thời thanh b́nh với mẫu người mẫu mực, một đời sống vật chất eo sèo, đạm bạc nhưng an nhàn, lương thiện. Đem so sánh với thiếu nữ của Thôi Hộ, tất nhiên ông đồ bị lỗ vốn quá rồi tuy không đến nỗi là một kẻ thân tàn ma dại đang đi về cơi chết như Hoài Thanh đă viết. Riêng đối với tôi, Ông Đồ Già bao giờ cũng mới, luôn luôn cho tôi một cảm giác bùi ngùi, man mác khó tả. Ông cũng khiến tôi nghĩ đến thày giáo Công.

 

Thày giáo Công là bạn sơ giao của ông nội tôi. Khi tôi biết ông vào mùa hè năm 1943, ông đă về hưu dù tuổi chưa lớn lắm. Khác với ông đồ già của Vũ Đ́nh Liên, một h́nh thái trừu tượng, tượng trưng một cái ǵ đă qua, thày giáo Công là một người rất thực, có đầy đủ phong cách chắt lọc của một nhà Nho, bao gồm chữ nghĩa, nhân cách cùng nếp sống. Sung túc hơn, ông không phải viết chữ kiếm ăn. Ông là một trong những người cuối cùng c̣n sót lại từ trường thi Nam Định; ở trường thi này, tôi nghe nói, ngoài thi phú, thí sinh c̣n phải thi cả toán pháp. Có lẽ v́ vậy, trong trí hiểu biết bé nhỏ của tôi, ông là một người rất giỏi toán, đă chỉ bảo tôi nhiều điều mới lạ. Tất nhiên ông là một ông đồ v́ ông cũng dạy chữ Nho, nhưng là một ông đồ tân thời v́ ngoài chữ Nho, thượng vàng hạ cám, ông c̣n dạy nhiều thứ khác, kể cả tiếng Anh, cho vài đứa nhỏ nữa.

 

Thị xă Hải Dương, khoảng đầu thập niên 1940, những ai sống ở quanh khu phố Hàng Lọng có lẽ đều biết hay đă theo học thày giáo Công. Mở trường dạy học, đúng hơn, một thứ nhà giữ trẻ không công (hay rất ít công), lớp học của ông không tiêu điều, nhà trống ba gian... học tṛ dăm đứa...” như lớp học của ông Tú Vị Xuyên. Ông có chừng năm chục học tṛ vào mùa hè, ít hơn trong năm học. Hàng năm, vào dịp Tết, học tṛ mâm lớn, mâm nhỏ, lũ lượt đến biếu thày vài ba gói trà, hoa quả, bánh mứt. Theo tôi biết, đó là tất cả học phí phải trả thày. Thế thôi!

 

Nhà trông ra mặt phố ở thị xă thường là nhà hai tầng, gian lớn nhất, ngoài cùng là pḥng khách bên trong là pḥng ngủ. Một lối đi nhỏ riêng biệt cạnh buồng ngủ dẫn đến cái sân bên trong, tiếp đó là nhà ngang rồi bếp. Thày giáo Công sở hữu một trong những căn nhà này. Lớp học của ông là căn nhà ngang, kê được mươi bộ bàn ghế học tṛ dài, ngoài hàng hiên là cái bàn vuông lớn bằng gỗ gụ, thày ngồi giữa, học tṛ ngồi xung quanh. Những ngày không mưa, học tṛ c̣n ngồi kín cả bậc thang, cạnh sân, bên cạnh núi non bộ và bể cá vàng.

 

Mỗi buổi sáng mùa hè, khi c̣i tầm của nhà máy rượu réo lên, là học tṛ đă đến đầy lớp học. Ông đi từ trên gác xuống, tay cầm chiếc roi mây. Ông thong thả ngồi xuống ghế, dáng vẻ phong lưu; búi tóc nhỏ sau gáy, kính trễ trên sống mũi, điếu thuốc lá sâu kèn lơ đăng bên mép, cánh tay áo lụa rung rung khẽ đập roi xuống mặt bàn, ông đếm một, hai, ba cho học tṛ cùng hát trước khi bắt đầu học, 

Bóng trăng trắng ngà,

Có cây đa to,

Có thằng cuội già,

Ôm một mối mơ...

Chiếc roi mây của ông, một đầu nát bươm, v́ đập xuống mặt bàn để ra oai chứ không phải v́ nó thường t́m đúng đích. Trừ hai lần. Lần thứ nhất, thằng Thiện, cũng con nhà lành thôi nhưng nghịch ngợm hơn những đứa trẻ khác, thay v́ một ông trăng béo thật to, Thiện hát tiếng hơi vang quá một ông trăng béo, c.. to. Học tṛ bấm bụng nhịn cười, nhưng ông đă nghe thấy, ông nghiêm nghị, điềm đạm đưa mắt nh́n quanh lớp. Sau khi hát xong, ông gọi Thiện lên, bảo x̣e tay ra. Rất nhanh, ông đét cho nó một roi. Ối, con lạy thày, nó kêu.

 

Lần thứ nh́ cũng vẫn là Thiện. Ở chân cầu thang là bể cá vàng và núi non bộ. Học tṛ thường ngồi khom dưới đất, chép bài trên thành bể, ném bỏng cho cá ăn, xem cá bơi ḷng ṿng quanh mấy cây si, dưới mấy chân cầu hay trước mặt ông Lă Vọng ngồi câu nhưng không bao giờ được cá. Một hôm, Thiện dụ cá đến cho ăn, rồi cầm bút đâm đâm khi cá đớp. Trong khi nó mải mê săn mồi th́ ông trông thấy. Cầm roi, dón dén đi như con c̣ ruồi, ông đến sau lưng nó, học tṛ nín thở, Vút! Ối, con lạy thày, Thiện giật ḿnh kêu; đồng thời khi lưng áo và chiếc roi mây gặp nhau, cột nắng nhỏ trên lưng nó biến thành cột bụi.

 

Tôi không biết lư do nào đă khiến ông dạy tiếng Anh cho cái Loan. Ngày ấy, tiếng Anh là một ngoại ngữ đến từ hành tinh khác, nhất là ở một tỉnh lỵ như Hải Dương, kiếm thày dạy tiếng Anh không khác ǵ đi kiếm gà sống có răng. Chính Loan đă bảo cho tôi biết oẳn tù t́ là tiếng Anh. Mặc dù được bắt đầu học sớm như vậy, tôi không biết cô giữ được bao nhiêu và không dám bảo đảm về sự chính xác cùng khả năng Anh ngữ của cô. Tôi mon men đến ngồi cạnh Loan (việc Loan là con bé xinh đẹp dễ thương nhất lớp là chuyện khác,) hy vọng xin được ông cho học tiếng Anh. Fat chance! Ông nội tôi đă gửi gấm, xin ông cho tôi ít chữ nghĩa thánh hiền.

 

Trước hết, thay v́ vẽ, ông dạy tôi viết chữ Nho (Viết trái cựa người ta cười cho!). Một hôm, tôi phải chép câu chữ Nho mà tôi không c̣n nhớ câu dịch âm cùng xuất xứ của nó tự sách nào, câu này được dịch nghĩa là Người ta sinh ra tính vốn lành như nước chảy xuống chỗ trũng...” Nước chảy xuống chỗ trũng th́ đúng rồi, nhưng sự việc đó cũng như, thí dụ, chim hay hót buổi sáng, không ám chỉ người ta sinh ra tính vốn lành hay dữ. Tôi không nhớ đă đặt câu như thế nào để hỏi ông, nhưng như tôi hiểu ngày nay, ư chính của câu hỏi đó là nước chảy xuống chỗ trũng không chứng minh được ǵ cả, chắc chắn là không chứng minh được người ta sinh ra tính vốn lành. Ông nh́n tôi hồi lâu, chưa kịp trả lời th́ đă phải bỏ ngang, cắt nghĩa bài cho học tṛ khác.

 

Thày giáo Công không có dịp trả lời câu hỏi của tôi, nhưng tôi nhận thấy, từ đó, ngoài chữ Nho, ông thường giảng cho tôi khoa học thường thức, dạy tôi toán pháp. Chính ông là người đă tập cho tôi cái thú (hay thói quen) đọc sách, nhất là sách thuộc loại không hư cấu, đời sống các danh nhân, những con người khác thường nhưng rất thực; đó là một cái thú c̣n tồn tại măi măi trong tôi. Một trong những cuốn sách đầu tiên ông bảo tôi đọc là tiểu sử của Marie Curie, ở bà tôi nh́n thấy bột phát sáng chói của thiên tài thường là kết quả của một t́nh yêu tha thiết trong việc đi t́m cái mới, là những ngày dài bất tận, làm việc lương thiện, cần cù, tỉ mỉ, không bỏ qua một chi tiết dù nhỏ.

 

Trông một lớp chừng năm chục học tṛ, đủ hạng, đủ kiểu, tất nhiên ông không có th́ giờ nhiều cho riêng học tṛ nào. Ông dạy tôi toán như một tṛ chơi, giầu về thí dụ cụ thể, không bao giờ nặng về h́nh thức. Chẳng hạn như ông dạy tôi cách chia phân số,

 

Một nửa cái bánh đem chia làm hai th́ được bao nhiêu?

 

Dạ, thưa thày, một phần tư cái bánh.

 

Vậy ta suy ra một phần hai chia cho hai được một phần tư.

 

Đại khái như vậy, cứ làm như thế, như thế...”, một lúc thuận tiện nào đó, cái bánh hay vật dụng đi liền với phân số đột nhiên biến đi, c̣n lại là phân số. Ông dạy cách viết cho phải phép, rồi cho mấy bài tập để làm một ḿnh. Trong trường hợp tôi, khi thấy đă thực hiểu, ông thường bảo tôi đi giúp những học tṛ khác.

 

Ông không dạy theo một chương tŕnh hay thứ tự nào nhất định, nhiều khi có lẽ hoàn toàn tùy hứng. Một dịp nào đó, ông dạy tôi tính căn số của một con số mà ông gọi là cỗi rễ bậc hai (2 nhân 2 là 4; ta nói b́nh phương của 2 là 4 và căn số của 4 là 2). Theo tôi biết, tính căn số không chính thức thuộc chương tŕnh nào, tiểu học hay trung học. Sau này dạy học, hết khóa học, sau khi sửa soạn sinh viên về chuyện thi cử, đôi khi c̣n chút th́ giờ tôi hỏi họ có biết tính cỗi rễ bậc hai bằng tay hay không? Thỉnh thoảng có người hỏi lại, học để làm ǵ khi chỉ cần ấn một cái nút ở máy tính là đủ. Tôi trả lời: Rất đúng, với máy tính cầm tay có khi biếu không, ta dễ dàng có được kết quả với 12 số thập phân, trong khi có lẽ chỉ cần 6 số thập phân là đă đủ tốt để gửi người lên mặt trăng. Nh́n cách này, đó là một việc làm hoàn toàn vô ích; có điều, ta biết ta có thể tính được số thập phân thứ 13. V́ vậy, cũng nên biết, rồi đem dấu nó vào một khe kẽ của hành trang tinh thần ta phải mang theo trong đời sống.  Nhiều sinh viên tỏ vẻ hài ḷng, ngồi học thêm cách tính cỗi rễ bậc hai.

 

Một dịp khác, ông dạy một món gọi là lấy đấu đong quân, cũng có tên khác là Hàn Tín điểm binh nhưng tôi thích cái tên lấy đấu đong quân v́ nghe vui tai, thi vị hơn tạp chí Khoa Học của GS Hoàng Xuân Hăn xuất bản khoảng đầu thập niên 1940  cũng có một bài nói về Hàn Tín điểm binh. Đây là một bài toán rất xưa mà theo các sách toán Tây phương, người đầu tiên khảo cứu là Tôn Tử. Bài toán như sau: Có một số quân không biết bao nhiêu mà ta muốn đếm. Có nhiều cách đếm, một trong những cách đếm là lấy... đấu để đong. Ta đong số quân đó theo ba cách khác nhau, như thế này: lấy cái đấu đong 3 anh quân một lần, không cần biết được bao nhiêu đấu nhưng biết là, cuối cùng, thừa ra 2 anh; lấy cái đấu đong 5 anh quân một lần, thấy thừa ra 3 anh và, sau cùng, lấy cái đấu đong 7 anh quân một lần, cũng thấy thừa ra 2 anh. Nếu thấy dùng đấu để đong cồng kềnh quá, ta có thể cho quân xếp hàng 3, hàng 5, hàng 7, mỗi lần ghi nhớ số quân lẻ cuối cùng. Hai cách này tuyệt đối tương đương với nhau. Giả dụ được cho bài toán trên, tôi sẽ ngồi làm như thế, như thế...” chừng vài phút, có 128 quân. Đúng boong! Thật ra, bài toán này có nhiều đáp số khác, đáp số nhỏ nhất là 23; nhưng thôi, đó là chuyện khác.

 

Thêm một bài toán dân gian rất quen thuộc: Vừa gà vừa chó 36 con, trói lại cho tṛn, đếm đủ 100 chân. Hỏi có bao nhiêu gà, bao nhiêu chó? Ông rất cẩn thận dạy giải bài toán bằng số học, dùng phép mà ông gọi là phép giả thử. Phép này bắt đầu lư luận bằng cách giả thử tất cả 36 con đều là gà (hoặc chó), nhưng lư luận này không thật dễ hiểu. Sau đó ông dạy cách giải bằng algèbre (ông không dịch là đại số), tôi nghe phát âm là ăn-giép. Muốn dùng ăn-giép hay đại số, ta chỉ việc thay số chưa biết bằng một chữ, thí dụ x, rồi làm tính như thể chữ đó là một con số đă biết rồi. Để bớt dài ḍng lôi thôi, trong bài toán này, thí dụ ta có x con gà th́ ta sẽ có 36 trừ x con chó hay (36 - x) và tổng cộng số chân gà là 2 nhân với x hay 2x. Cứ theo cách đó mà tiếp tục, tất nhiên, trong khi làm tính, ta có những phép tính, thí dụ, 4x mà trừ đi 2x th́ c̣n lại 2x hay đem 4x chia cho 4, ta được x vân vân, đến một lúc ta sẽ được x = 22 con gà và, do đó, 36 - 22 = 14 con chó. Ông dạy phép giả thử trước v́ ăn-giép dễ dùng quá, một khi đă biết dùng ăn-giép th́ sẽ không bao giờ trở lại làm số học nữa.

 

Niên học 1945, sau 80 năm làm sứ mệnh khai hóa và chỉ sau khi nước Pháp, trong thực tế, đă chấm dứt nhiệm vụ này v́ bị Nhật đảo chính ngày 09-03-1945, thị xă Hải Dương, lần đầu tiên, có được một trường trung học, trường Nguyễn Bỉnh Khiêm, công tŕnh cụ thể của Bộ Giáo Dục của GS Hoàng Xuân Hăn. Nhà tôi có hai anh họ xa đến ở nhờ, trọ học. Một hôm, tôi nghe hai anh tranh luận rất hăng say về toán. Tôi lắng tai nghe, các anh đang căi nhau về một bài tính ăn-giép.

 

Tưởng ǵ, tính ăn-giép th́ em làm được!

 

Hai anh là học tṛ cô-le, không phải chuyện đùa, tṛn mắt nh́n thằng ranh con ăn nói xấc xược, bậy bạ nhưng bằng ḷng cho thử. Thằng ranh con ngồi làm như thế, như thế...” trong vài phút, giải được bài tính ăn-giép!

 

Đó là một số thành tích tôi thu lượm được từ thày giáo Công. Trong hai vụ hè, kiểm điểm lại, ông dạy tôi có lẽ đủ toán để có thể qua được trung học phổ thông một cách khá thoải mái. Toán học phương Đông có lẽ không có một hệ thống giống như phương Tây, nhưng cũng khá phát triển, Hàn Tín điểm binh là bài toán cổ đă 2000 năm; tôi chưa được đọc về cách các cụ ta học toán ngày xưa. Riêng thày giáo Công, tiếng Anh ông học ở đâu đó, tiếng Pháp ông phải biết đôi chút v́ đi thi có bài dịch. Một vài khái niệm khác, như ăn-giép, có thể ông đọc trong sách của anh Ngọc, con trai trưởng của ông. Hè năm 1944, anh Ngọc thi đỗ đíp-lôm về, mặt ông rạng rỡ, kiêu hănh như chỉ một ông bố có con thi đỗ đíp-lôm ngày ấy mới có thể rạng rỡ, kiêu hănh đến thế. Ông cho cả lớp ăn bánh kẹo. Chính trong dịp này ông dạy tôi ăn-giép.

 

Nhưng c̣n một số vấn đề tôi nghĩ không thể đến từ sách vở của anh Ngọc. Với vài thí dụ giản dị, ông chỉ cho tôi biết không có con số nguyên tố lớn nhất (số nguyên tố là số không thể chia cho bất cứ số nào ngoài số 1 và chính nó, thí dụ: 2, 3, 5, 7,...) Măi măi về sau, tôi mới biết phát biểu trên là một định lư của Euclid, nhà bác học Hy Lạp đă đặt nền móng cho toán học từ hơn 2000 năm nay và chứng minh định lư về số nguyên tố của ông, theo người sành điệu, thuộc loại đẹp và thanh lịch nhất trong toán học. Anh Ngọc mới đỗ đíp-lôm, trong chương tŕnh trung học của Pháp, chỉ đến Tú Tài II, định lư Euclid mới xuất hiện. Các cụ ta không thiếu ǵ người bác học, không rơ sức hiểu biết về toán của các cụ sâu đến đâu? Đó là một đề tài khảo cứu hấp dẫn.

 

 

Rồi chiến tranh chống Pháp. Mỗi người một nơi, tôi không gặp lại thày giáo Công, nhưng tôi không bao giờ quên ông, luôn luôn hy vọng có được dịp bù lại mấy món quà Tết eo sèo đă biếu ông. Tôi phải đợi nhiều năm.

 

gần nhà tôi có một gia đ́nh dân nhập cư Hy Lạp. Một hôm, người bạn nha sĩ hàng xóm nói ông người Hy Lạp dạm hỏi tôi có thể dạy kèm đứa con gái nhỏ của ông được không, ông ta sẽ xin trả tiền thù lao ṣng phẳng? Tôi trả lời tôi không dạy tư, rồi đùa hỏi liệu ông ta có sẵn ḷng trả công bằng công thợ sửa ống nước không, thế nào chăng nữa, cứ cho con gái ông ta sang xem sao? Nói chuyện với đứa nhỏ, chẳng mấy chốc tôi nhận thấy nếu nhất định trả tiền thù lao, ông ta sẽ tốn nhiều hệ thống dẫn nước trong nhà. Tôi nói tôi sẵn sàng kèm đứa nhỏ hai giờ một tuần và ông không cần phải bận tâm về vấn đề thù lao. Không rơ v́ ông quá kiêu hănh hay v́ không cảm thấy thoái mái về chuyện không phải trả tiền thù lao, con ông đến học với tôi vài lần rồi xin thôi.

 

Chính biến ở Việt Nam cho tôi mấy dịp khác. Gia đ́nh bạn tôi dọn đến ở cùng thành phố. Ông bà hỏi bác có sẵn ḷng kèm cháu học không? Tất nhiên là bác sẵn ḷng kèm cháu học. Tôi dạy cháu như thày giáo Công đă dạy tôi: cẩn thận nhưng tùy hứng. Thí dụ, có bao nhiêu cách xếp bàn ăn có 6 chỗ ngồi với 6 người khách? Hai bác cháu rất hợp ư nhau, nhưng không hiểu sao ít lâu sau bạn tôi xin cho cháu nghỉ học. Cho đến bây giờ tôi vẫn không rơ v́ tôi không thành công hay đă quá thành công. Cháu đă ra trường từ lâu, hành nghề bác sĩ hơn mười năm nay.

 

Dịp may cuối cùng. Ty, em của một bà bạn, tâm sự với tôi các cô chỉ để ư đến bác sĩ, kỹ sư thôi, c̣n phó thường dân như Ty th́ các cô hếch mũi nh́n qua suốt. V́ vậy, Ty quyết chí học cho thành tài và muốn xin tôi giúp. Ư định tốt, lư do xấu. Nhưng ta là ai mà luôn luôn muốn mọi điều kiện phải thập phần hoàn hảo? Ta phải biết bằng ḷng với những ǵ ta có. Tôi nghiến răng dạy, Ty nghiến răng học. Tôi sửa soạn cho Ty học hết toán cơ bản. Sau này, Ty kể, có lần anh mắng em, anh bảo óc mày không chịu làm việc, ngộ nó teo lại bằng cái hạt đậu rồi biến mất th́ sao? Tôi cười hỏi lại, thật hả? nhưng trong thâm tâm hơi ngượng, thày giáo Công không bao giờ mắng tôi thô tục như thế. Quyết chí học như Ty th́ thi bằng ǵ cũng đậu và ai dạy cũng được. Ty ra trường, ông kỹ sư nọ kia. Hàng năm, Tết đến, biết tôi hay uống cà-phê, Ty mang cho tôi máy pha cà-phê. Đến Tết thứ ba, tôi có tới ba máy pha cà-phê, tất cả đều tốt. Tôi bảo Ty đến chơi với anh là quư lắm rồi, đừng quà cáp làm ǵ; vả lại, nếu muốn cảm ơn th́ Ty nên cảm ơn thày giáo Công. Ba máy pha cà-phê tôi dùng được khá lâu; tôi nghĩ đến những chùm nhăn, những quả soài thày giáo Công chất đống trong nhà trong mấy ngày Tết, chắc thày có vấn đề.

 

Năm 1945 là năm có nhiều biến động lớn trong lịch sử Việt Nam. Tết Ất Dậu năm ấy, tôi đem quà Tết đến biếu thày giáo Công như thường lệ. Khi ấy tôi đang học lớp Nh́. Ông xoa đầu tôi, nói hè tôi sẽ phải học nhiều chữ Nho hơn, cho ông nội tôi vui ḷng. Nhưng tôi không có dịp trở lại học với ông nữa v́ chiến tranh sau đó. Ngay trong dịp Tết này đă có nhiều điềm xấu báo hiệu những tai ương sắp đến. Anh Nhan, người làm cũ cho gia đ́nh tôi, đă xin thôi từ mấy năm trước để về quê làm ăn, đột nhiên xuất hiện, đi ăn xin. Rồi nạn đói khủng khiếp hoành hành, chừng hai triệu người chết đói. Nhà tôi hàng ngày để dành cho anh một bát cơm, đôi khi chính tay tôi đưa cho anh, nhưng cũng không cứu nổi v́ h́nh như anh c̣n phải chia cho vợ con. Rồi không thấy anh đến nữa, có người nói anh đă chết đói.

 

Trên đường đi học đến trường tỉnh, chừng hơn hai cây số, người chết nằm ngổn ngang, bụng ỏng, rốn lồi, từ hai lỗ mũi chảy ra hai ḍng mũi, một thứ chất lỏng xanh lơ sền sệt, ruồi nhặng bâu đầy, xác xông lên mùi hăng hăng, lợm giọng. Hàng ngày những chiếc xe ḅ lọc cọc đi lượm xác chết. Phải chứng kiến những cảnh ấy, ngày này qua ngày khác, tuy đă cả tháng trời mà cũng không sao quen mắt được. Không cần phải đọc những áp-phích, truyền đơn tuyên truyền đă bắt đầu xuất hiện, người ta cũng thừa biết nguyên do: đáng lẽ trồng lúa, mùa màng phải phá đi để trồng đay, trồng bông, c̣n lúa gạo dự trữ dùng để nấu rượu làm nhiên liệu. Những đứa trẻ nhạy cảm đi học mỗi buổi sáng, trước khi được học chữ nghĩa ở nhà trường, đă phải tự học một bài học đời sống nằm ḷng, không bao giờ phai nhạt. Bé dại, thơ ngây quá để có thể đọc bài học nên lời, chúng cảm nhận bài học trong xương tủy. Đói quá, mất cả nhân phẩm lẫn mạng sống; phải đánh đuổi cho kỳ hết tất cả những bọn ngoại lai thối tha này, cao hay lùn, mặt nhợt hay mặt vàng. Đó là việc làm độc nhất và tất cả, không thể thỏa hiệp. Những chuyện khác, tính sau!

 

Đài truyền h́nh quốc gia Canada CBC, trước bản tin, có một dạo hay cho chiếu cảnh một đứa bé Palestine ngồi cô độc trên một bực thang, giữa đống gạch vụn; nhà nó vừa bị xe ủi đất của Israel san bằng, có lẽ v́ anh hay chị hay một người họ hàng nhà nó là kẻ đánh bom. Người ta có thể đưa ra một ngh́n lư luận hay lư thuyết, bác học hay vụ lợi, để giải thích một hành động, nhưng riêng đứa nhỏ, nó chỉ có một chân lư: ḷng căm thù một gánh nặng vô nhân đạo, không thể chịu đựng nổi đă được đem chụp trên hai vai đứa trẻ 7, 8 tuổi. Nếu nó có được một thày giáo Công, không chút vị kỷ, dạy nó tính cỗi rễ bậc hai, có khi nó nh́n thấy được le lói một lối thoát, dù khó khăn. Nhưng nó không có cái cơ duyên ấy. Những ông đồ già, những thày giáo Công, những con người xưa cũ của những thời xưa cũ, có đời sống lương thiện, thanh tao đă qua đi từ lâu. Nh́n đôi mắt vô định, tôi nh́n thấy được cái định mệnh của nó; thêm vài năm nữa, có thể sớm hơn, nó sẽ trở thành một kẻ đánh bom nguy hiểm.

 

Nov 2004

 

Thêm:

 

Sau hơn 50 năm xa cách, tôi về thăm miền Bắc, Việt Nam vào mùa Xuân năm 2006; tất nhiên tôi về Hải Dương thăm phố Hàng Lọng, căn nhà cũ của thày giáo Công và để t́m anh Ngọc. Anh Ngọc đă dọn lên ở Hà Nội. Gặp lại anh, sau vài phút ngỡ ngàng, anh em nói chuyện vui vẻ. Anh năm nay đă 84 tuổi, vẫn c̣n khỏe, cũng làm việc trong ngành giáo dục; có một thời chính phủ đă gửi anh đi công tác ở Mali. Chúng tôi ngồi ôn lại chuyện cũ về thày giáo Công, nghe anh tả lại thân phụ anh, gần như dùng từng chữ tôi đă dùng trong truyện: áo lụa phong lưu, thuốc lá sâu kèn vắt vẻo bên mép… Và v́ vậy, tôi có được một kỷ niệm khó quên khi tôi đưa biếu anh Cỗi rễ bậc hai rồi ngắm nh́n anh đọc.

 

Jan 2010

 

 

 

 

 

 

GS NGUYỄN ĐỨC TƯỜNG

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

       

 

 

 

 

 

Trang XUÂN 2010- Văn Học Nghệ Thuật Và Quê Hương