Mục Lục

   Trang B́a
     
 Ban Biên Tập
 
Lá T Xuân
     
 Lê Thị Lộc
  S Táo Quân
     
 Nguyễn Thị Thanh T
  Câu Đối Tết 
     
 Vinh H

 

Xuân
Q
N


 
Phóng S Du Xuân KSửu 
       Quách Tấn Cang
 
Phóng S Du Xuân KSửu
       - Kỳ 2
 
       Quách Tấn Cang
 
 Hương Xưa...    
     
 Lê Thị Đào
 
  Hồi c Tết Q N
      
Lư H
   Những Ngày Xuân Thuở Ấy  
     
 Nguyễn Thị Thục
   TĐầu Năm  
     
 Trương Huyền Trường
   Tết... Học Tṛ  
     
 Nguyễn Văn Xê

 

Xuân
Đ
ất Khách


   Đón Tết Đầu Tiên Trên
     Đ
ất M
 

      
Lê Tâm Anh
 
 Ninh Ḥa Và Tôi    
     
 Trần Thiên Bảo
 
 Không Đề    
     
 P Đức Lâm
  Tuổi Con TRÂU 
     
 Phùng Thị Phượng
   Hai Cái Tết Đầu Tiên Nơi
     
 Đất Khách
 

     
 P Vĩnh Sơn
 


H́nh nh


 
Hoa Xuân 
       SXương Hải
 
Trâu Ḅ Tại Ninh Ḥa 
       SXương Hải - Lê Thị Lộc
 
H́nh nh Đón Xuân Tại Cali
       Lê Lai

 

Hội Quán
Quảng Đông


 
Chúc Tết
      Quách Tấn Cang
 
Tết Đi LChùa
      Quách Tấn Cang


 


Ca Hát/Nhạc

     Tiếng Hát:

 
  Trần Thị Minh Nguyệt
 
   Hà Thị Thu Thủy

     Slide Shows:

   Lê Lai


    Trích Đoạn VTuồng Cải
 
Lương: "Tiếng Trồng Mê L
inh"

   N Trưởng Tiến


 

Tiếng Đàn

      Tiếng Đàn PIANO:
 
  Trần Lộc 


 

Kịch Vui
 

  Niềm Vui Nhân Đôi
     
 Lương L Huyền Chiêu

 

Chuyện Vui
 

  Chuyện Vui Cười
     
 Nguyễn Văn Xê



 

TVi


 
 TVi Năm KSửu - 2009 
      
ABC Sưu Tầm (NXV)
   Người Tuổi Sửu - TRÂU
      
ABC Sưu Tầm (NXV)

 

Năm KSửu Nói Chuyện V Trâu Ḅ


 
  Bạn Trâu ! 
        
Lê Tâm Anh
  Tản Mạn Năm Sửu V
      
Chuyện T
râu
 

       Việt Hải - Los Angeles
   Trâu Ơi Ta Bảo Trâu Này
      
Nguyễn Phan Lê 
 
 Tản Mạn Về Tết KSửu
       2009

      
Nguyễn Văn Thành
   Giữ Trâu 
      
NQuê -  Trần B́nh Trọng
   Cà Kê Dê Ngỗng Chuyện
     
Con Trâu

      
Vinh H
   Năm Sửu Viết VTrâu  
     
 Nguyễn Văn Xê


 

Tranh V
N
ghệ Thuật

   Hoàng Tiên- Phi Ṛm


 

Kinh Nghiệm Sống

  Đạo Và Đời - Tham Sân Si
      Tâm Đoan
  Đi T́m Hạnh Phúc
      Tâm Đoan
  Bụi THIỀN
      Mục Đồng-Trần Thanh Thiên
 

 

Chuyện Phiếm/
Tạp Ghi
 

  Câu Chuyện Văn Nghệ Văn
      
Gừng Cóc Nhái Miệt Dưới

      Người XVạn
 
  Trâu GThích Gặm
      
CN
on
  

     
 Nguyễn Thị Thanh T
  NTối
      Trương Huyền Trường
  Tản Mạn VNgười NQ
      Trần Khổ
  Thương QSông Ơi !
      Trương Huyền Trường

 


Văn Hóa
m Thực


   Bánh Vá G̣ Công
      Bánh Tằm Ngang Dừa

     
 Hoàng Tiểu Ca
 
  Chuyện Dưa Hấu Xưa&Nay
       Hoàng Nam (VHLA)
 
  Bánh Xèo
      Canh Chua Bạc Hà

     
 Hoàng Nam
 
  Mắm, Món Ăn K Quên 
     
 Hoàng Tiểu Ca
 
Bánh Căn Trên Phố
      
Sài G
̣n

     
 Lê Kư Thương
 
Khẩu VNinh Ḥa
     
 Nguyễn Tính



Sức Khỏe

    Bệnh Tiểu Đường Loại 2
    
  BS Nguyễn Vĩ  Liệt

 

Chuyện
Đ
ó Đây
 

   Nhạc Xưa Nhạc Nay 
     
 Nguyễn Phan Lê
 
 Mùa Xuân Nói Chuyện Cùng
      
NVăn ĐHồng Ngọc
 

       Lương LHuyền Chiêu
 
  Tản Mạn VVơ Thuật
       
Và Kienando

     
  Việt Hải - Hoàng Nam

 

TChơi
D
ân Gian NH
 

   TChơi Dích H́nh 
     
 Nguyễn Thục
   TChơi Cối Xay
 
 TChơi ng Thụt
     
 Nguyễn Thục


 

Viết v
Ninh Ḥa
 

    Dấu Chân Trâu Trên X
       
Trầm Hương

     
  Trần Thị Phong Hương
   Có Một Thời Ninh-Ḥa
      Nhạc Trẻ
 

     
 Lương LMinh T 
   Khóc Một Ḍng Sông 
     
 Trương Tiếp Trương

 


Viết v
ninh-hoa.com


   Ăn Tết Với Ninh-Hoa.com 
     
 Phạm Thanh Khâm &
      PLinh Trân
   Tôi Đi Thăm Ninh-Hoa.com 
     
 Lê Lai
 
Viết Tiếp Hành Tŕnh Đến
      
Với Ninh-Hoa.com Của M

     
 Lâm Thanh Nhàn
   Đi Xa Và Trở Về 
     
 Phan Nho
   Trở V 
    
  Phan Kiều Oanh
 
   Một Vài Cảm Nghĩ V
       
Trang Web

     
  Phạm Thanh Phong


 

Biên Khảo
Kinh Tế
 

    Kinh Tế Việt Nam Năm 2008
       Nguyễn Văn Thành
   Q Tŕnh Phát Triển  Kinh
      
Tế Của Nhật Bản TMinh
      
Trị Thiên Hoàng Cho Đến
       
Ngày Nay

     
 Nguyễn Văn Thành
 
  Suy Thoái Và Khủng Hoảng
       
Kinh Tế Tại Hoa K

      
Nguyễn Văn Thành


 

Viết VNhững Ngôi Trường
 

    Những Nốt Nhạc Đầu Tiên
     
  Lương LHuyền Chiêu
 
  Trường Xưa Của Tôi
      
Lư H
 
   Kư c VTrường G̣
       
Muồng, Ninh Ḥa

     
  Phạm Thanh Phong
 
   Kư c VTrường Trung
      
Học Đức Linh

     
  PDu
    Trích Đoạn Hồi Kư Của
       
Đốc Học TRẦN C
ẢNH

    
  Phan Kiều Oanh
 
  Đỉa Ninh Ḥa
     
  Phạm  Văn Thịnh


 

Du Lịch
 

    Đường VMiền Tây
       
Nam  B

     
  Lương LBích San
 
  Góc Việt Ở Fitur Madrid 2009
     
  Lâm Thanh Nhàn

 

Đặc San NH
Kỷ Niệm 5 Năm

 

    Tản Mạn ĐẶC SAN 5 Năm
     
  Nguyễn Văn Sanh- NXV

 

Văn Học
N
ghệ Thuật

 

    Cảm Nhận TNam Kha
     
  Lê  Anh Dũng
   T́nh Yêu Đôi Lứa Trong Ca
      
Dao Tục Ngữ Nói VTrâu

    
  Vinh Hồ 
 
   Tiếng Đàn TBà Và
      V
ũ Điệu Bharatanatyam
       
Của  Kim Loan

     
  Lê Văn N
 
   Sân Khấu Phía Sau
     
 Dương Công Thi - Anh Thy
 


Thơ Vui
 

   Đời Trâu
       Tú Trinh
   Mừng Sửu Lên Ngôi
       Tú Trinh
 




T
 

   Một Thời
       Lê Tâm Anh
  Chút Sương

      
 Nguyễn Thị Bảy-Hương Đài
  Xuân K Sửu
      
 Nguyễn Thị Bảy
 
  Thân Trâu...    
      
 Huy Bạch
  Xuân Xa Xứ...
      
 Huy Bạch
   Nồng Nàn Hương Xuân
       Nguyễn Thị Thanh B́nh
  T XUÂN Phỏng Dịch      
       Nguyên Bông
 
   Chẳng Dấu Gí Anh
     
  P Du-Phạm Thanh Phong
 
  TDạo y
      
Nhạn Đà
   Nuối Tiếc
       Hương Đài
 
  Mừng Xuân
      
Lê Thị Đào
  Làm Bài T Thật Là Nhanh
      Trần Minh Hiền
  Nha Trang Nắng Lụa Mây
      
Đào

      Tường Hoài
 
  Xuân Tha Hương    
      
Đinh Bá H
 
Dạo Phố Mùa Xuân    
      
Vinh H
   C̣n Đó Mùa Xuân
       Nam Kha
   Giao Thoa Ánh Sáng
       Nam Kha
  Nhớ Xuân Đoản Khúc 4 
       Lê Lai
  
Hẹn Với Mùa Xuân
      
Nguyễn Phan Lê 
   Nỗi Ḷng
       Phương L
 
Xuân Ḷng C̣n Măi Đâu Đây         Hải Lộc
 
  Xuân HLạc    
      
Thanh Mai
 
  Xuân Khai    
      
Thanh Mai
 
Xuân Xưa    
      
Thanh Mai
 
  Chiều Q    
      
Diệp Thế M
 
  Cô Tiên Trong Ḷng Anh
      
Thụy Nguyên
  C Là T́nh Nhân Mới
      Trần Thị Minh Nguyệt
  Hương Biển Mặn Mà Xuân
      Quách Giao
 
  Biển Trầm Luân
      
Lê Văn Quốc
 
  Chúc Xuân
      
Phi Ṛm
 
   Gởi Cánh Chim Xa
     
 Dương Anh Sơn
 
  Vui Xuân XLạnh    
      
Mai Thái Vân Thanh
   Đá Vàng
       Kim Thành
   Trở Trời - Slide Show
       Kim Thành
 
  Tháng Giêng Khúc
      
Nguyễn Văn Thành
   Đón Xuân XNgười
       Thi Thi
  t Cay
      
Thi Thi
 
  Xuân Viễn X
      
Thi Thi
 
  Xuân Tái Ngộ
      
Trần Đ́nh Thọ
 
  Xuân Chiều    
      
Nguyễn Thị Thu -Hoài Thu
   Tuổi Con Trâu
       Anh Thy (Dương Công Thi)
 
Sắc Xuân
     
 Nguyễn Tính
 
  Mừng Đáo Tuế
      
Nguyễn Thị Thanh T
  Dáng Xuân
      
 Nguyễn Thanh Trúc
 
  Xuân T́nh Tháng Giêng    
      
Tiểu Vũ Vi
 
  Đêm Xuân    
      
Tiểu Vũ Vi
 
TXuân    
      
Anh Vũ - Thiện Tín
 
  Ca Khúc Mùa Xuân   
      
Lê Trung - Lê Duy Vũ
 
  Vịnh Con Trâu    
      
Nguyễn Văn Xanh
 


Văn

 

  V Q Xưa
       Lê Ánh
  Những Lần Đầu Tiên
      Trần Thiên Bảo
  Trâu Trắng Trâu Đen
       Nguyên Bông
  Ánh Xuân Hồng      
       Nguyên Bông
  Giấc Mơ Ḥn Hèo  

       Lương LHuyền Chiêu
  Những Cái Tết Tuổi T 
       LThanh Cư
 
  Bạn Cũ   
       
Phan Phụng Dung
  Đón Xuân Này... Nhớ Xuân
       
Xưa

      
 Lê Thị Đào
  
Ve Chai
       Mỹ Hiệp
 
   Cành Mai NSớm
     
 Huỳnh Trịnh Tuyết Hoa
 
  Cánh Vạc Phương Trời   
      
Nguyễn Tường Hoài
  Con Trâu CCủa Cha Tôi 
       Vinh H
  Tết Trong Dĩ Văng
       Vơ Thị N Hường
  Một Đời Người Một SPhận
      
 Trần Khổ
  Mừng Sinh Nhật
       Diệp Thế M
 
  Hải Ngoại Xuân Và Tôi...   
      
Trần Thị Nết
   Yard Sale
       Đng Thị Ngọc N
 
   Mùa Xuân Của Mẹ   
      
Thu Phương
 
   Thành Phố Nha Trang Và
     
 Đêm Noel

     
  Lương LBích San
 
   Dấu Chân Thời Gian
     
 Dương Anh Sơn
  Người Việt Ở Melbourne
      Úc Châu Ăn Tết
     
 PVĩnh Sơn
  Hai Ba Ông Táo V Trời  
      
Nguyễn Hữu Tài
  Thang Thuốc Nam
       Nguyễn Văn Thành
 
  Dấu Chân Xưa    
      
Nguyễn Thị Thu (Cầu Gỗ)
 
   Xuân Nay Vắng M
     
  Hà Thị Thu Thủy
  Tết Mậu Thân 1968 
       Lê PThọ
   Thằng Cựng Chăn Trâu
       Phan Đông Thức
   Tâm T́nh Ngày Cuối  Năm
       Hng Tiên - Phi Ṛm
   Chờ Mùa Xuân Tới 
     
 Tiểu Thu
  Tháng Giêng L
     
 Nguyễn Đôn Huế Trang
  Chiếc Áo Màu Rêu Xanh
     
 Phan Thái Yên


 


 

 

 

Thư từ, bài vở, h́nh ảnh hoặc
ư kiến xây dựng, xin liên lạc:

 diem27thuy@yahoo.com

 

 

 

 

 

 

 

 


 

 

Trâu tại Ninh Ḥa - Ảnh: Sử Xương Hải

 

  

 

   1. Khái quát về kho tàng ca dao tục ngữ:

   Ở trên đời này nói ǵ th́ nói, nhưng nói cho cùng “t́nh yêu” vẫn là cái ǵ bất hủ, bất diệt, tồn tại với thời gian. Kể từ khi con người hiện hữu trên trái đất già nua đến nay đă hàng vạn năm nhưng t́nh yêu không già, t́nh yêu vẫn trẻ, mới lạ, hấp dẫn, mê hồn và người ta vẫn c̣n đang bâng khuâng tự hỏi:

       “Làm sao cắt nghĩa được t́nh yêu?” - Xuân Diệu

   Chính v́ thế mà văn hào Pháp Voltaire đă nói:

      “Chân lư cuối cùng trên cơi đời vẫn là t́nh yêu.”

    Tôi vẫn nghĩ rằng nếu không có kho tàng văn chương b́nh dân th́ thật khó để mà biết đích xác trái tim của người VN xưa ra sao? Bởi văn chương bác học cổ điển từ khi h́nh thành đến đầu TK 20 đă trải qua hơn một ngh́n năm, nhưng trên thi đàn hầu hết các thi gia đều chăm chú làm thơ ngâm vịnh, xướng họa, bày tỏ ư chí, hướng về t́nh yêu thiên nhiên, cha me, vợ chồng, bằng hữu, đất nước, giống ṇi, không đả động ǵ đến t́nh yêu đôi lứa - một đề tài có vẻ như bị cấm kỵ, kiêng dè, nhất là những chuyện “kín” trong pḥng the. Nếu có nói đến - như trong Kiều, Chinh Phụ Ngâm, Cung Oán Ngâm Khúc, Lục Vân Tiên chẳng hạn, th́ những lứa đôi ấy đều xuất thân từ giới quyền quư và quê quán dường như không phải ở VN mà ở tận bên Tàu. T́m đâu ra h́nh ảnh một cô gái VN đi trên con đường làng rợp bóng tre xanh hay đi lễ trong các lễ hội Mùa Xuân mặc y phục VN, như bốn câu sau đây của Nguyễn Nhược Pháp (thời tiền chiến) mô tả một cô gái cùng thầy mẹ đi Chùa Hương:

  Khăn nhỏ đuôi gà cao

  Lưng đeo dăi yếm đào

  Quần lĩnh, áo the mới

  Tay cầm nón quai thao

   Cũng như hai câu trong bài thơ Chân Quê của Nguyễn Bính (cũng thời tiền chiến):

            Nào đâu cái áo tứ thân

            Cái khăn mỏ quạ, cái quần vải đen?

   Những h́nh ảnh “chân quê” ấy rất khó t́m thấy trong thi ca bác học cổ điển trừ Hồ Xuân Hương - là một trường hợp đặc biệt. Nữ sĩ đă phác họa chân dung, t́nh yêu và sức sống của người con gái VN như sau:

                   - Thân em vừa trắng lại vừa tṛn

                   - Lược trúc chải cài trên mái tóc

                   Yếm đào trể xuống dưới nương long

                   Đôi g̣ bồng đảo sương c̣n ngậm

                   Một lạch đào nguyên suối chửa thông

                 - Chành ra ba góc da c̣n thiếu

                   Xếp lại đôi bên thịt vẫn thừa

                  - Mười bảy hay là mười tám đây

                   Cho ta yêu dấu chẳng rời ta

                  - Thân em như quả mít trên cây

                    Vỏ nó sù ś múi nó dầy

                    Quân tử có thương th́ đóng cọc

                    Xin đừng mó máy nhựa ra tay

                  - Bốn mảnh quần hồng bay phất phới

                    Hai hàng châu ngọc duỗi song song

                  - Càng nóng bao nhiêu th́ càng mát

                    Yêu đêm không phỉ lại yêu ngày

                  - Nâng niu ướm hỏi người trong trướng

                    Ph́ phạch trong ḷng đă sướng chưa?

 

   Qua thơ Bà, họ là những cô gái VN trẻ đẹp, xao xuyến, rực lửa trước t́nh yêu say đắm, họ đă yêu tha thiết, táo bạo, không chút e dè, sợ sệt, giấu diếm. Họ sống hồn nhiên, thoải mái, không bị ràng buộc, câu thúc bởi một thế lực nào. Tác giả Nguyễn Lộc đă nhận xét về trường hợp đặc biệt của bà Hồ Xuân Hương như sau:

   “Hồ Xuân Hương nghiêng về b́nh dân hơn là bác học. Nhà nữ thi sĩ này dường như  mượn của văn học bác học cái phần trang sức bên ngoài để tŕnh làng, c̣n nén chặt bên trong đến tràn ứ lại là cái phần hồn dân gian đầy xức sống của ḿnh.”

    Chính v́ thế mà nội dung thơ Bà, rất gần gũi với ca dao tục ngữ. Những h́nh ảnh chân thật, sống động, đầy say mê hấp dẫn của t́nh yêu đôi lứa qua thơ Bà khó t́m thấy trong thi ca bác học cổ điển nhưng lại đầy dẫy trong kho tàng ca dao tục ngữ.

   Giới b́nh dân VN đă sáng tạo liên tục, bền bỉ, được truyền khẩu, sàng lọc qua hai ngh́n năm lịch sử, nhờ thế mà ngày nay chúng ta có một kho tàng ca dao tục ngữ vô cùng phong phú về chất lượng và đồ sộ về số lượng. Họ là ai? Là tuyệt đại đa số dân VN, những người dân b́nh thường thấp cổ bé miệng, tầng lớp nghèo khổ thua thiệt trong xă hội, hầu hết sống trong các lũy tre làng, đa số không biết chữ nhưng trời thương đă ban cho họ một tâm hồn thi sĩ dễ dàng rung động trước ngoại cảnh, dễ dàng trắc ẩn, thương tâm trước những cảnh đời éo le ngang trái và cũng dễ dàng “xuất khẩu thành thơ”. Họ làm thơ lục bát dễ như đi cày, dệt cửi, chăn trâu, thổi sáo, thả diều, ḥ hát… Lục bát trở thành mạch sống tâm hồn của dân tộc. Ba câu lục bát biến thể sau đây phát ra từ cửa miệng tự nhiên như lời nói mà thành thơ - giữa cảnh  trời nước mênh mông đọc lên nghe sảng khoái vô cùng:

- Thuyền đi trước cho tôi lướt đến cùng

  Kẽo đến khúc quành bờ bụi mông lung

  Nếu phải duyên trời định th́ chúng ḿnh gặp nhau

 

   Có hai ông già thuộc thế hệ cha tôi, sống tại làng Xuân Hoà quê ngoại tôi, một người chỉ biết đọc biết viết, c̣n người kia hoàn toàn không biết chữ, nhưng họ đă từng đọc cho tôi nghe những vần thơ lục bát của họ sáng tác, suốt hai tiếng đồng hồ vẫn chưa hết, thơ cất trong bụng chứ không chép ra giấy. Hôm nay họ đă ra người thiên cổ và thơ họ, tôi chỉ thuộc được dăm câu, có “truyền khẩu” cho một số bạn bè nghe. Từ đó tôi có suy nghĩ, kho tàng thi ca b́nh dân VN hôm nay đă sưu tầm được một số lượng lớn có thể dày bằng một cuốn tự điển nếu in ra, thật ra đó cũng chỉ là một hạt cát trong sa mạc, bởi qua thời gian dài cả ngh́n năm, bộ óc con người không tài nào nhớ hết và đă  “thất truyền” rất là nhiều. Hiện tại trong dân gian việc hô bài cḥi, hát đối, hát ru em, v.v… không c̣n thịnh hành như xưa nhưng cũng may, từ khi có chữ quốc ngữ và việc in ấn được dễ dàng, người ta bắt đầu nghĩ tới việc sưu tầm ca dao tục ngữ để in thành sách truyền lại cho con cháu mà Cụ Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc là người tiên phong. Ngày nay trên Internet đă có nhiều trang Web tiếp tục làm công việc đó, trong số đó có Ông Hà Phương Hoài đă chắt chiu, gom góp, sàng lọc, hệ thống trên 25 ngàn câu ca dao tục ngữ suốt hơn ba năm để đem lên trang Web của ông năm 2004. Đến hôm nay th́ chúng ta đă có được một số lượng ca dao tục ngữ càng đồ sộ hơn nữa. Xin trích vài câu về t́nh yêu đôi lứa:

- Trèo lên cây bưởi hái hoa

  Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân…

- Hỡi cô tác nước bên đàng

  Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi

- Sáng trăng giă gạo giữa trời

  Cám bay phất phưởng thương người xứ xa

 - Sáng trăng sáng cả đêm rằm

  Anh đi qua ngơ em nằm không yên

   Nghe thật là trữ t́nh, lăng mạn, ướt át, nhưng lại thiếu vắng trong thi ca bác học cổ điển.

 

   2. T́nh yêu đôi lứa trong ca dao tục ngữ nói vtrâu cùng những câu ca dao tục ngữ chọn lọc khác:

   Trong 12 con giáp có 2 con đầu là Tư, Sửu đuợc ca dao tục ngữ nhắc đến khá nhiều, nhưng nhiều nhất là trâu. V́ VN là nước nông nghiệp lâu đời, “con trâu là đầu cơ nghiệp” nên con trâu đă được người b́nh dân yêu quư đến nỗi được cúng tế, như cúng Tết Trâu tại xứ Ninh quê tôi và tại một số địa phương khác. Năm nay là năm Kỷ Sửu, nên bài này được dành ưu tiên cho trâu trong việc tuyển chọn ca dao tục ngữ.

   Ca dao tục ngữ dính dáng đến con trâu có rất nhiều nhưng ở đây chúng tôi chỉ chọn những câu đặc biệt nói về t́nh yêu đôi lứa. Tuy nhiên để thêm phần sáng tỏ, đầy đủ, chúng tôi có tuyển chọn thêm một số câu ca dao tục ngữ nổi tiếng dù không dính dáng đến con trâu, nhưng có cùng một ư nghĩa.

 

    Chúng ta thấy h́nh ảnh con trâu tuy đen đúa, cục mịch, ḿnh mẫy lấm lem bùn đất nhưng khi đưa vào thơ th́ trở nên đẹp đẽ lạ thường như câu sau đây:

          - Con gái mười bảy bẻ găy sừng trâu

   H́nh ảnh một cô thôn nữ trẻ đẹp có thân h́nh nảy nở, cân đối, tràn đầy sinh lực hiện ra trước mắt người đọc trông thật duyên dáng, quyến rũ, dễ thương làm sao!

   Sừng trâu mà em c̣n bẻ găy th́ đối với một chàng trai mới lớn, em sợ chi mà chẳng tấn công? Vâng, đúng như thế! Không phải chàng trai mà chính cô gái đă táo bạo tỏ t́nh trước qua những câu duyên dáng ư nhị sau đây:

- Trâu kia kén cỏ bờ ao
 
Anh kia không vợ đời nào có con
  
Người ta con trước, con sau
 
Thân anh không vợ như cau không buồng
 
Cau không buồng như tuồng cau đực
 
Trai không vợ cực lắm anh ơi
 
Người ta đi kép về đôi

 Thân anh đi lẻ, về loi một ḿnh

          - Tiện đây xơi một miếng trầu
Gọi là nghĩa cũ về sau mà chào
Trầu này trầu quế, trầu hồi
Trầu loan, trầu phượng, trầu tôi, trầu ḿnh
Trầu này trầu tính, trầu t́nh
Trầu nhân, trầu ngăi, trầu ḿnh với ta
Trầu này têm tối hôm qua
Giấu cha giấu mẹ đem ra cho chàng
Trầu này không phải trầu hàng
Không bùa, không thuốc sao chàng không ăn ?
Hay chàng chê khó chê khăn
Xin chàng đứng lại mà ăn miếng trầu

- Thiên duyên kỳ ngộ gặp chàng

 Khác ǵ như thể phượng hoàng gặp nhau

 Tiện đây ăn một miếng trầu

 Hỏi thăm quê quán ở đâu chăng là

 Xin chàng quá bước vào nhà

 Trước là hỏi chuyện sau là nghĩ chân

- Thoạt tiên trải chiếu ra ngồi

Trầu cau ăn đoạn hỏi người thủy chung

 Em hỏi chàng có yêu cùng

Tiếng tăm em chịu, thẹn thùng em mang

Ví dù chàng có ḷng thương

Th́ em chẳng quản ǵ đường xa xôị

Chàng về chàng cứ cho tươi

Chàng đừng héo ủ người cười đến ta

 

   Anh chàng đâu chịu thua, cũng nhanh trí tung ra những lời tán tỉnh táo bạo không kém:

           - Cô kia bỏ tóc đuôi gà
 
Nắm đuôi cô lại, hỏi nhà cô đâu?
 Nhà em ở dưới đám dâu
 
Ở bên đám bắp đầu cầu ngó qua
 
Ngó qua dám đậu trổ hoa
 
Đám dưa trổ nụ đám cà trổ bông

-  Em thời vác cuốc thăm đồng

 Anh th́ giả cách mang lồng chọi chim

  V́ em anh phải đi t́m

  Xưa nay anh biết chọi chim là ǵ

- Cô kia cắt cỏ một ḿnh
 
Cho anh cắt với chung t́nh làm đôi
 
Cô c̣n cắt nữa hay thôi
 
Cho anh cắt với làm đôi vợ chồng!

 - Một rằng ḿnh quyết lấy ta
  Ta về bán cửa bán nhà mà đi
  Ta về bán núi Ba V́
  Bán chùa Hương Tích, Phật đi làu làu
  Ta về bán hết ngựa trâu
  Bán hột thầu dầu, bán trứng gà ung
  Bán ba mươi sáu Thổ công
  Bán ông Hành Khiển, vợ chồng Táo Quân
  Bán từ giờ Ngọ giờ Dần
  Giờ Tư giờ Sửu giờ Thân giờ Mùi
  Ta về bán cả que cời
  Bán tro đun bếp bán trăm khêu đèn

  Ta về bán trống bán kèn
  Có ǵ bán hết, lấy tiền cưới em.

   Tại sao cô gái b́nh dân VN dám vượt qua hàng rào luân lư lễ giáo Nho giáo đă từng thống trị xă hội VN suốt 1.000 năm, điều ít xảy ra trong thi ca bác học cổ điển? (ví dụ như trong cuốn Lục Vân Tiên, chàng Vân Tiên vừa gặp nàng Nguyệt Nga đă nói: “Thôi thôi ngồi đó chớ ra, Nàng là phận gái ta là phận trai”).

   Bởi v́ theo học giả Kim Định, VN tự ngh́n xưa đă h́nh thành một nền văn minh “nhân chủ làng xă”. Ở làng xă người dân sống tương đối tự do, mọi việc trong làng do họ tự lo liệu gần như tự trị, không bị lệ thuộc chi phối nhiều bởi triều đ́nh, nên mới có câu:

             - Phép vua thua lệ làng

   Dĩ nhiên họ cũng không bị chi phối, lệ thuộc nặng nề bởi quan niệm, kinh điển Nho giáo như giới quư tộc, Nho sĩ. Họ nh́n đời bằng con mắt b́nh dị, phóng khoáng, tự do, thoải mái hơn nhiều. Ngay đến các hàng Vua chúa, quan lại, Nho sĩ vẫn bị họ châm biếm:

  - Con vua th́ đuợc làm vua

            - Quan nhất thời dân vạn đại  

            - Tôi là con gái đồng trinh

              Tôi đi bán rượu qua dinh ông Nghè

              Ông Nghè sai lính ra de

              Bẩm lạy ông Nghè tôi đă có con

              Có con th́ mặc có con

              Thắt lưng cho tṛn mà lấy chồng quan

             - Ai ơi đừng lấy hủ nho

              Dài lưng tốn vải ăn no lại nằm…

             - Quan thấy kiện như kiến thấy mỡ

             - Quan trên ơi hỡi quan trên,

               Hiếp dân, ăn chặn, chỉ biết tiền mà thôi

       - Cậu cai buông áo em ra,

         Đặng em đi bán kẻo hoa em tàn

         Chợ trưa dưa sẽ héo đi

         Lấy chi nuôi mẹ, lấy ǵ nuôi con

 

   Qua ca dao tục ngữ, “chân dung” người con gái VN xưa được khắc họa rơ nét: đẹp cả về thể xác lẫn tâm hồn:

- Thấy em nhỏ thó lại có duyên ngầm,

  Anh phải ḷng thầm hơn mấy năm nay.

- Thấy cô yếm thắm, răng đen

  Nam mô Đà Phật lại quên mất chùa

      - Áo gài năm nút hở bâu

  Em c̣n cha mẹ dám đâu tự t́nh

      - Áo em, anh bận lấy hơi,

  Nón em, anh đội che trời nắng mưa.

- Áo đơm năm nút con rồng

 Ở xa con phụng, lại gần con quy

           - Áo nâu ai mặc nên xinh

 Cho duyên em lịch, cho t́nh ai say

     - Áo tứ thân em treo trên mắc

 Đêm anh nằm anh đắp lấy hơi

    - Ai xui em có má hồng

 Để người quân tử đem ḷng nhớ thương

    - Thấy em g̣ má hồng hồng

 Phải chi em đừng mắc cỡ anh bồng anh hôn

                      - Ḿnh nhớ ta như cà nhớ muối
 
Ta nhớ ḿnh như cuội nhớ trăng
 
Ḿnh về ḿnh nhớ ta chăng
 
Ta về ta nhớ hàm răng ḿnh cười

          - Trầu say vương vất vân ṃng
            
Nh́n môi em đỏ khiến ḷng anh say

           - V́ chưng ăn miếng trầu anh
            
Cho nên má đỏ tóc xanh đến giờ

           - Dao cau rọc lá trầu vàng

            Mắt anh anh liếc, mắt nàng nàng đưa

           -Trúc xinh trúc mọc đầu đ́nh
             Em xinh em đứng một ḿnh cũng xinh
...

           - Cô kia má đỏ hồng hồng
             
Cô chưa lấy chồng c̣n đợi chờ ai

- Một thương tóc bỏ đuôi  gà

  Hai thương ăn nói mặn mà có duyên

  Ba thương má lúm đồng tiền…

  Năm thương cổ yếm đeo bùa

  Sáu thương nón thúng quai tua dịu dàng 

            - Em là con gái nhà ai

  Thắt lưng nhiễu bạch, hai tai đeo trầm

  Lại đây cho anh hỏi thăm

  Nhung kia mà sánh với trầm nên chăng?

- Mày th́ cong tợ trăng non
 
Mặt thuôn trứng ngỗng, ngó ṃn lông nheo

- Ai làm cái nón quai thao
  Để cho anh thấy cô nào cũng xinh

 -Tóc em dài em cài hoa thiên lư,
 Thấy em hiền anh để ư anh thương

- Em là con gái đồng chiêm

  Lấy dao cắt cỏ, lấy liềm bổ cau

  Quần màu nâu, áo màu nâu

  Cái thắt lưng láng đứng đâu cũng gịn

            - Cổ tay em trắng lại tṛn
              
Để cho ai gối nó ṃn một bên?

 

   Qua đó, chúng ta thấy vóc dáng nàng không hẳn là “ḿnh hạc xương mai, liễu yếu đào tơ, tuyết nhường màu da” như vẫn thường được nhắc đến trong thơ ca bác học, mà mặn mà, đằm thắm, giản dị, rắn chắc, cân đối, khoẻ mạnh, nhanh nhẹn, đầy sinh lực, bởi trên đồng ruộng hay bên khung cửi, nàng đă từng lao động nặng nhọc:

   - Thân em vất vả trăm bề
      
Sớm đi ruộng lúa, tối về ruộng dâu
     
Có lược chẳng kịp chải đầu
     
Có cau chẳng kịp têm trầu mà ăn

   - Trầu lên nửa nọc trầu vàng

     Thương cô áo chẹt vá quàng nửa lưng

      Năm canh th́ ngủ lấy ba
     
Hai canh coi sóc cửa nhà làm ăn

   Biết đâu nàng cũng luyện tập vơ nghệ như “nam nhi chi chí”: 

- Ai về B́nh Định mà coi

  Đàn bà con gái múa roi đi quyền

 

    Giả sử nếu tất cả phụ nữ VN về thể xác đều gầy nhom như “cánh vạc bay” của Trịnh Công Sơn, v tinh thần th́ bạc nhược suốt đời chỉ biết khép ḿnh trong “kín cổng cao tường” để làm “t́ thiếp” người như Bà Triệu đă cảnh giác xưa kia, th́ thử hỏi suốt 4 ngh́n năm lịch sử làm sao bảo tồn được ṇi giống, bảo vệ được đất nước tồn tại đến ngày nay? Cho nên trở về với ca dao tục ngữ là trở về với cội nguồn dân tộc, trở về với tinh hoa, t́nh tự của giống ṇi: tinh thần tự chủ, tự do, lạc quan, thực tế, bi trí dũng, mạnh khoẻ, năng động… chống lại tinh thần bạc nhược, bệnh hoạn, “ăn no lại nằm”, nô lệ, vong bản, phù phiếm, vọng ngoại… vốn là liều thuốc độc vô h́nh đă và đang đầu độc làm suy yếu dân tộc gống ṇi dẫn tới diệt chủng, mất nước, vô t́nh thực hành chính sách “di dân- đồng hoá” tầm ăn dâu, trường kỳ mai phục, năm mủi giáp công vô cùng độc hiểm của chủ nghĩa bành trướng bá quyền Trung cộng:

             - Phấn son tô điểm sơn hà
   
            Làm cho rỡ mặt đàn bà nước Nam

             - Giặc đến nhà đàn bà phải đánh

             - Anh ơi, hăy giữ việc công

               Để em cày cấy mặc ḷng em lo!

 

  Chính v́ thế mà ngày xưa, trước khi dựng vợ gă chồng, cả chú rễ lẫn cô dâu đều được hai bên “coi mắt” kỹ lưỡng:
             
- Mua trâu xem vó, lấy vợ xem ṇi
             
-
Trai th́ cày ruộng khiển trâu
               
Gái th́ phải biết bổ cau têm trầu

 

   V́ tập tục cưới gả ngày xưa thường đặt nặng vấn đề “môn đăng hộ đối” và thói đời thường “tham phú phụ bần” nên đă làm tan ră nhiều t́nh duyên đôi lứa:

            - Công anh chăn nghé đă lâu
               Bây giờ nghé đă thành trâu ai cày?

            - Trời mưa cho ướt lá khoai

               Công anh làm rễ đă hai năm tṛn

             - Công anh xúc tép nuôi c̣

               Đến khi c̣ lớn c̣ ḍ c̣ bay

            - Tiếc công vót nứa đan lờ,

         Để cho con cá vượt bờ nó đi

       - Anh thương em từ thuở má hồng

         Bây giờ em lớn, lấy chồng bỏ anh.

 

    Đọc lên nghe năo ḷng! Bây giờ nàng đă sang ngang rồi th́ có nước “đi kiện củ khoai” chứ kiện ai? Do đó chàng chỉ c̣n một cách để giải tỏa nỗi đau là cứ nói phét lên, cứ nói phóng đại lên cho bỏ ghét:

- Con kiến mày kiện củ khoai,
  Mày chê tao khó lấy ai cho giầu.
  Nhà tao chín đụn mười trâu,
  Lại thêm ao cá bắt cầu rửa chân

  Cầu này là cầu ái ân
  
Một trăm con gái rửa chân cầu này
  
Có rửa th́ rửa chân tay
  Đừng rửa chân mày, chết cá ao anh

 

   Trên đời không thiếu những anh sàm sỡ, suồng să, có máu dê máu tham, hễ thấy gái là cứ tươm tướp xáp tới, hai con mắt đẫn đờ, miệng nói lảm nhảm, hai tay quờ quạng… trông nham nhở, mất lịch sự nên đă bị các nàng lên lớp phản đối triền miên khói lửa:

         - Anh đánh th́ tôi chịu đ̣n

           Tánh tôi hoa nguyệt mười con chẳng chừa

           Anh đánh th́ tôi xin thưa

           Tánh tôi hoa nguyệt chẳng chừa được đâu

           Ăn quen chừa được chẳng lâu

           Lệ làng làng bắt, mất trâu mặc làng

         - Bươm bướm mà đậu cành hồng
            Đă thương cô chị, lại bồng cô em

          - Con công tố hộ trên rừng

            Đă yêu cô chị lại bồng cô em

          - Em là con gái đêm hôm

            Anh đừng lui tới mà nam nồm tội em!

          - Anh ở hà xứ đâu ta

            Cớ sao anh biết vườn hoa chị tàn

            Hoa tàn nhưng nhụy chưa tàn

            Muốn xem chị sẽ vén màn cho xem

     - Thôi thôi buông áo em ra,

       Đặng em đi bán kẻo hoa em tàn

     - Anh về mắc vơng nuôi con,

       Đừng nên tơ tưởng trái chanh non cuối mùa

      - Anh có thương th́ thương cho trót

       Có trục trặc th́ trục trặc luôn

       Đừng làm theo thói ghe buôn

       Nay về, mai ở cho buồn dạ em

      - Anh thương em thương quấn thương quít

        Bồng ra gốc mít, bồng khít gốc chanh

        Bồng quanh đám sậy,  bồng bậy vô mui

        Bồng lui sau lái, bồng ngoái trước mũi

      - Anh thương nói thiệt em nhờ

        Xin  đừng nói gạt em chờ hết duyên

            - Ai đem em đến chốn này?

              Bên kia là núi, bên này là sông

 

   Đôi khi v́ hoàn cảnh trái ngang khiến nàng phải buông xuôi theo định mệnh:

- Bước xuống ruộng sâu, em mảng sầu tấc dạ
 
Tay em ôm bó mạ, lụy ứa hai hàng
 
Ai làm lỡ chuyến đ̣ ngang
 
Cho loan với phượng đôi hàng biệt ly

 

   Hậu quả một phần cũng do anh chàng quá rụt rè, nhút nhát, chần chờ không quyết định:

           - Em như ngọn cỏ phất phơ

             Anh như con nghé ngơ ngơ giữa đồng

- Ba đồng một mớ trầu cay
 
Sao anh không hỏi những ngày c̣n không?
 
Bây giờ em đă có chồng
 
Như chim vào lồng, như cá mắc câu…

 

   Ngày xưa việc cưới gả do cha mẹ quyết định theo quan niệm tứ đức tam ṭng: “tại gia ṭng phụ”. Tuy nhiên không phải hoàn toàn do “cha mẹ đặt đâu con ngồi đó” có nhiều cô cũng có đầy đủ bản lĩnh, ư chí, nghị lực, không để bị câu thúc, ràng buộc đă dám sống trọn vẹn cho t́nh yêu:

- Chàng đi làm ruộng nơi đâu

  Để em dẫn nghé, dắt trâu theo chàng

- Yêu nhau ruột héo xương ṃn

 Yêu nhau đến thác vẫn c̣n yêu nhau.

 Quê anh ở tận nơi đâu?

 Để em may áo viền bâu gởi về.

- Yêu nhau chẳng quản đường xa.

 Đá vàng cũng quyết phong ba cũng liều.

- Anh đấng làm trai nam nhi chi chí

 Em phận làm gái, nhi nữ quần thoa

 Thấy đàn cá nhảy khỏi sa

Ưng không tại bậu, cha mẹ già biết đâu?

          - Anh đi làm thợ nơi nao?

Để em gánh đục gánh bào theo anh

- Anh ơi! chớ liệu, đừng lo

 Dù ai cấm chợ ngăn đ̣, có em.

- Anh ơi! đường chẳng bao xa

 Anh không bước tới, pḥng hoa em chờ

    - Anh về cho em về theo

Tiền cưới mặc họ, tiền cheo mặc làng

- Anh về sắm nón sắm quai

 Sắm giường sắm chiếu ngày mai em về

-Trời cao bể rộng mông mênh

 Ở sao cho trọn tấm t́nh phu thê.

Trót đà ngọc ước vàng thề

Dẫu rằng cách trở sơn khê cũng liều

           -Thiếp trao chàng câu ân, câu ái

Chàng trao thiếp câu ngăi, câu nhân

 Cả bốn câu hợp lại Tấn với Tần nên duyên

         - Yêu nhau con mắt liếc qua

 Kẻo chúng bạn biết, kẻo cha mẹ ngờ

Gần thời chẳng bán duyên cho

Xa xôi cách mấy lần đ̣ cũng sang.

          - Quạ kêu nam đáo nữ pḥng

 Người dưng khác họ đem ḷng nhớ thương

 Chỉ điều ai khéo vấn vương

 Mỗi người mỗi xứ mà thương nhau đời

- Anh với em như mía với gừng

Gừng cay mía ngọt ngát lừng mùi thơm

Anh với em như nước với non

Non xanh nước biếc duyên c̣n dài lâu

          - Anh ơi! nôm cá xong chưa?

           Xuồng em neo đợi chờ trưa anh  về

          - Anh ơi! đi lại cho dày

           Thầy mẹ không gả em bày mưu cho

         - Anh về sương gió lạnh lùng

           Ở đây chung gối chung mùng với em

         - Anh về em nắm cổ tay

           Em dặn câu này anh chớ có quên

Đôi ta đă trót lời nguyền

Chớ xa xôi mặt mà quên mảng ḷng

         - Một yêu em gửi miếng trầu

Hai yêu em gửi áo nâu về nhà
Ba yêu em gởi áo hoa
Bốn yêu em gửi thư nhà cho anh
Năm yêu em gởi quạt xanh
Sáu yêu em gửi một cành kim thoa
Bảy yêu em gửi khăn là
Tám yêu em gửi cành hoa cho chàng
Chín yêu em gửi lạng vàng
Mười yêu em chỉ lấy chàng mà thôi

          - Đói ḷng ăn nửa quả sim,

Uống lưng bát nước đi t́m người thương

Người thương ơi hỡi người thương

Đi đâu mà để buồng hương lạnh lùng

- Chàng về sắm sửa loan pḥng

Thiếp xin điểm phấn tô hồng thiếp theo

- Ai về đằng ấy hôm mai
 Gửi dăm cái nhớ, gửi vài cái thương
 Gửi cho đến chiếu đến giường
 Gửi cho đến tận buồng hương chàng nằm

- Trách gà vội gáy tàn canh

  Không lâu tí nữa cho t́nh thở than

- Vắng chàng em vẫn hỏi thăm
  Nơi ăn đă vậy, nơi nằm làm sao?

- Láng giềng đă tỏ đèn đâu?
  
Chờ em ăn dập miếng trầu em sang
  
Đôi ta cùng ở một làng
  
Cùng chung một ngơ vội vàng chi anh?
  
Em nghe họ nói mong manh
  
Dường như họ biết chúng ḿnh với nhau

- Trầu này trầu tính, trầu t́nh
  
Trầu nhân, trầu ngăi, trầu ḿnh với ta
  
Trầu này têm tối hôm qua
  
Giấu cha giấu mẹ đem ra cho chàng
- Thương nhau cởi áo cho nhau

  Về nhà mẹ hỏi qua cầu gió bay

- Chàng về để áo lại đây
  
Để khuya em đắp gió tây lạnh lùng

- Chàng về cho chóng rồi ra

  Kẽo em chờ đợi sương sa lạnh lùng

- Chuột kêu chút chít trong rương
  
Anh đi cho khéo kẽo đụng giường mẹ hay

            - Chuột kêu chút chít trong ṿ

              Ḷng anh có muốn th́ ṃ lại đây

            - Anh ơi đă có vợ chưa?

  Mà anh ăn nói gió đưa ngọt ngào
  
Mẹ già anh ở nơi nao?
  
Để em t́m vào hầu hạ thay anh

 

   Chàng thề non hẹn biển, dù hoàn cảnh có đưa đẩy thế nào cũng quyết một ḷng sống chết với người yêu:

 

        - Anh thương em trầu hết lá lươn

    Cau hết nửa vườn cha với mẹ nào hay

    Dầu mà cha mẹ có hay

    Nhứt đánh nh́ đày, hai lẽ mà thôi

    Gươm vàng để đó em ôi!

    Chết th́ chịu chết, ĺa đôi anh không ĺa

  - Chân xiềng cổ lại đeo gông
    Chết anh anh chịu chứ không bỏ nàng

  - Cha mẹ anh có đánh quằn, đánh quại
    
Bắt anh ra treo tại nhành dương
    
Biểu từ ai, anh từ đặng
    
Chớ biểu từ người thương, anh không từ

              - Nửa đời sương gió ngang tàng
                
Trái tim lụy chỉ v́ nàng đấy thôi

 

   Trước cảnh người yêu phụ bạc chạy theo giàu có “ruộng mẫu trâu đôi” lên xe hoa đi lấy chồng xa, chàng chỉ c̣n biết buông lời trách móc, oán than:

- Trâu đồng ta ăn cỏ đồng ta
 
Tuy rằng cỏ cụt nhưng mà cỏ thơm

- Thương nhau v́ nợ v́ duyên
  Trâu đôi chi đó, thổ điền chi đây

- Mất trâu mất ruộng không màng
  Mất cây cuốc mục ra làng kiện thưa

- Trâu kia chết để bộ da

  Người chết để tiếng xấu xa muôn đời

- Trâu ta ăn cỏ đồng ta

  Đừng ham cỏ tốt ăn qua đồng người

  Hàng ta, ta bận cũng tươi

  Ham chi hàng ngoại, kẻ cười người chê

- Bao giờ cho mạ lên non

  Một trăm mẫu đất có con trâu cày.

      - Thật thà, cũng thể lái trâu,

        Yêu nhau, cũng thể nàng dâu mẹ chồng

 

   Chàng cho rằng chuyện vợ chồng là do duyên nợ chứ đâu phải v́ hai chữ giàu nghèo:

          - Nghĩ xa rồi lại nghĩ gần
Làm thân con nhện mấy lần vương tơ
Về đâu trong đục mà chờ
Hoa thơm mất tiết, nương nhờ vào đâu?
Số em giàu, lấy khó cũng giàu
Số em nghèo chín đụn mười trâu cũng nghèo
Phải duyên phải kiếp th́ theo
Giàu ăn khó chịu, lo ǵ mà lo

          - Trăm năm cơ hội t́nh cờ,
Đàn cầm anh găy, câu thơ anh đề.
Muốn cho thuận nẻo đi về,
Anh sang làm rể, em về làm dâu.
Số giàu lấy khổ cũng giàu,
Số nghèo chín đụn mười trâu cũng nghèo.
Phải duyên phải kiếp th́ theo,
Khuyên em chớ nghĩ giàu nghèo làm chi.
Em ơi! chữ vị là v́,
Chữ dục là muốn, chữ tùy là theo,
Ta đă yêu nhau tam tứ núi cũng trèo,
Thất bát giang cũng lội, tam thập đèo cũng qua.

         - Thương nhau v́ nợ v́ duyên

           Trâu đôi chi đó, thổ điền chi đây

 

   Trước hoàn cảnh khó khăn chàng chỉ biết mượn lời thơ để tự an ủi:
                   - Chẳng qua số phận long đong
                    Cột trâu, trâu đứt, cột tṛng, tṛng trôi
.

     

   Thời phong kiến cho phép trai năm thê bảy thiếp, nên phụ nữ đă phải gánh chịu nhiều thua thiệt cay đắng trong cảnh lấy chồng chung:

                  - Mật ngọt rớt xuống thau đồng
                    Những lời anh nói cho ḷng em say
                    Một trâu anh sắm đôi cày
                    Một chàng đôi thiếp có ngày oan gia!
                    Chàng ơi! chàng cho em ra
                    Nhẽ đâu một ổ đôi gà ấp chung.

       - Ai bầy cái cảnh đa thê

         Để cho em phải nhiều bề khổ đau

 

   Ngày xưa đối với những chàng trai vào đời chỉ có hai bàn tay trắng không công danh sự nghiệp th́ ba việc sau đây thật là khó “dàn trời”:

 - Mua trâu, cưới vợ, làm nhà
   
Cả ba việc ấy đều là khó thay!

 

   Nhưng thời xưa cũng đâu có khác bây giờ, nhiều người làm nên sự nghiệp là nhờ của cải nhà vợ “chuột sa hũ nếp” hay là gặp vợ  giỏi “sau lưng người đàn ông thành công luôn luôn có người đàn bà”:

- Làm ruộng có trâu làm giầu có vợ

 

  Trước hoàn cảnh đẩy đưa, phải biết chấp nhận thực tế, và thỏa vui với hạnh phúc trong tầm tay:

- Cành đào lá liễu phất phơ

  Đường đi khuất nẻo ai ngờ gặp nhau

  Gặp nhau ăn một miếng trầu,

  C̣n hơn đám cưới mổ trâu ăn mừng.

 

    Bài thơ sau đây mới lạ về h́nh thức, có nhiều sáng tạo trong cách gieo vần, đặt câu, tương tự như thơ mới bây giờ, nội dung cũng mới lạ:

- Ḥn đá cheo leo,

 Con trâu trèo, con trâu trợn

 Con ngựa trèo, con ngựa đổ.

  Anh thương em lao khổ

 Tận cổ chí kim,

 Anh thương em khó kiếm khôn t́m.

 Cây kim luồn qua sợi chỉ,

  Sự bất đắc dĩ phu mới ĺa thê,

  Nên hay không nên, anh ở em về,

  Đừng giao, đừng kết, đừng thề mà vương

 

   Hẹn lần hẹn lửa để rồi cũng chỉ là nước chảy mây bay:

          - Tháng tư ngày chẳn tháng dư
Ta lại chần chừ cho đến tháng năm
Tháng năm là tháng trâu đầm
Ta hẹn ḿnh rằng tháng sáu ḿnh lên
Tháng sáu lo chửa kịp tiền
Bước sang tháng bảy lại liền mưa ngâu  
Tháng bảy là tháng mưa ngâu
Bước sang tháng tám lại đầu trăng thu
Tháng tám là tháng trăng thu
Bước sang tháng chín mù mù mưa rươi
Tháng chín là tháng mưa rươi
Bước sang tháng mười đă đăi mưa đông
Quanh đi quẩn lại em đă có chồng
Như chim trong lồng, như cá cắn câu

 

  Thách cưới là tục lệ lâu đời, nếu không ưng th́ cứ thách cho thật cao, thách trên trời dưới biển, thách cho “thỏa tấm ḷng”:

- Cưới em tám vạn trâu

  Chín vạn dê lợn, nười ṿ rượu tăm.

  Lá đa mặt nguyệt hôm rằm

  Răng nanh thằng Cuội, râu cằm Thiên Lôi

  Gan ruồi mỡ muỗi cho tươi

 Xin chàng chín chục con dơi góa chồng

 Thách thế mới thỏa tấm ḷng

             Chàng mà lo được, thiếp cùng theo chân

 

   Để trả đủa lại, anh chàng cũng giở giọng ba trời ba đất:

 - Cưới nàng anh toan dẫn voi
   Anh sợ quốc cấm nên voi không bàn
   Dẫn trâu sợ họ máu hàn
   Dẫn ḅ sợ họ nhà nàng co gân
  Miễn là có thú bốn chân
  Dẫn con chuột béo mời dân mời làng.

 

   Cho mượn chồng hay không cho mượn là một chuyện mới lạ từ trước đến nay trên thế giới chưa thấy xảy ra. Thật ra đó cũng chỉ là một cách nói cho vui vậy thôi, mang tính cách trào phúng dí dơm:
           -
Của chua ai nấy cũng thèm
             
Em cho chị mượn chồng em vài ngày
             
Chồng em đâu phải trâu cày
             
Mà cho chị mượn cả ngày lẫn đêm

                    - Sông dài cá lội biệt tăm,
                      Phải duyên chồng vợ ngàn năm cũng chờ.
                      Ruộng ai th́ nấy đắp bờ,
                      Duyên ai nấy gặp đừng chờ uổng công.

 

   Nếu duyên không thành th́ chỉ c̣n đó những nuối tiếc, yêu thương và mơ mộng xa xôi:

           - Thấy anh hay chữ em hỏi thử đôi lời

  Ngày xưa ông vua Thuấn cày trâu hay ḅ?

- Trăm năm c̣n có ǵ đâu?
   
Miếng trầu liền với con trâu một vần

            - Em ôm bó mạ xuống đồng

              Miệng ḥ tay cấy mà ḷng nhớ ai?

- Một thương hai nhớ ba sầu

  Cơm ăn chẳng đặng, ăn trầu cầm hơi

  Thương chàng lắm lắm chàng ơi

   Biết đâu thanh vắng mà ngồi thở than?

             -Tay cầm cọng lạt bẻ c̣

   Ḷng thương da diết, giả đ̣ làm lơ

   Thương sao thương dại thương khờ

   Trong nhà không dám khóc, ra bụi bờ khóc than

            - Nhớ ai con mắt lim dim
              
Chân đi thất thểu như chim tha mồi
              
Nhớ ai hết đứng lại ngồi
              
Ngày đêm tơ tưởng một người ở xa

            - Nói lời th́ giữ lấy lời
              
Đừng như con bướm đậu rồi lại bay

- Một duyên, hai nợ, ba t́nh
  
Chiêm bao lẩn quất bên ḿnh năm canh
 
Đêm nằm lại nghĩ một ḿnh
 
Ngọn đèn khêu tỏ bóng quỳnh bay cao
 
Trông ra nào thấy đâu nào
 
Đám mây vơ vẩn ngôi sao mập mờ
 
Mong người, ḷng những ngẩn ngơ

            - Nhớ ai nhớ măi thế này
              
Nhớ đêm quên ngủ, nhớ ngày quên ăn

            - Một thương, hai nhớ, ba trông

  Bốn chờ, năm đợi, sáu mong duyên nàng

- Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
 
Như đứng đống lửa, như ngồi đống than

 

   T́nh yêu đôi lứa thật là t́nh tứ lăng mạn:       

             - Anh về bán cặp trâu già

         Anh qua anh cưới biết mà đặng không?

 - Tḥ tay mà ngắt ngọn ng̣

   Thương em đứt ruột giả đ̣ ngó lơ

             - Anh kia cắp sách đi đâu

   Lại đây em hỏi vài câu huê t́nh!

       - Anh kia gánh lúa một ḿnh

  Cho em gánh với hai ḿnh cho vui

   Anh c̣n gánh nữa hay thôi

  Cho em gánh với làm đôi nhân t́nh

       - Anh thương em chỉ nói bên ngoài

   Sao mà không nói tận tai mẹ thầy?

            - Anh như nút, em như khuy

              Như mây với núi, biệt ly không đành

- Thương nhau từ áo mới may

   Bây giờ áo đă thay tay vá quàng

 - Ai về đằng ấy đằng này

  Để đêm em nhớ để ngày em thương

  Yêu nhau đi nhớ về thương

  Em về cái chốn buồng hương em nằm

  Thấy chiếu mà chẳng thấy chăn

 Thấy chỗ ḿnh nằm chả thấy ḿnh đâu

            - Áo xông hương của chàng vắt mắc

  Đêm em nằm em đắp lấy hơi

  Gửi khăn, gửi túi, gửi lời

  Gửi cho chàng mạng cho người đàng xa

  V́ mây cho núi nên xa

  Mây cao mù tịt, núi nḥa xanh xanh

- Ai làm cho cực tấm ḷng
 Càng nhắc càng nhớ, càng trông càng sầu
 Hễ về nhớ đến lời nhau
 Bắc cầu mà chả được cầu ái ân
 Dầu xa nhích lại cho gần
 Làm thân con nhện mấy lần vương tơ

            - Em ơi! chua ngọt đă từng

              Non xanh nước bạc ta đừng quên nhau

              - Ai đi đường ấy hỡi ai?

             Hay là trúc đă nhớ mai đi t́m?

             T́m em như thể t́m chim

             Chim ăn biển Bắc anh t́m biển Đông

 

   T́nh yêu đôi lứa như chiếc thuyền t́nh lênh đênh trên biển mộng. Sau khi lên tới tột đỉnh yêu thương đă hướng về tổ ấm, xây dựng hạnh phúc trăm năm:

- Lênh đênh một chiếc thuyền t́nh

 Mười hai bến nước biết gửi ḿnh nơi mô?

-  Anh về đường ấy mấy cung

 Cho em về cùng thăm mẹ thăm cha

- Anh có thương em th́ trầu rượu đến nhà

Trước cha mẹ biết, sau bà con hay

-Thương nhau chỉ những khóc thầm

 Đôi ḍng nước mắt đầm đầm như mưa

 Anh về đón khách đ̣ đưa

 Đây chưa có vợ, đấy chưa có chồng

 Anh về nhắn nhủ tơ hồng            

 Xe dây cho kịp kẻo ḷng nhớ thương.

- Miếng trầu thật tay em têm

 Trầu phú, trầu quư, trầu nên vợ chồng

 Trầu nầy khấn nguyện tơ hồng

 Trầu nầy kết nghĩa loan pḥng từ đây!        

- Em đà thuận lấy anh chưa?

 Để anh đốn gỗ rừng Nưa đóng thuyền?

 Thuyền mang đôi chữ nhân duyên

 Chồng chèo vợ chống thuyền quyên chẳng vời

- Em th́ canh cửi việc nhà

 Nuôi anh ăn học đăng khoa bảng vàng

 Trước là vinh hiển tổ đường

 Bỏ công đèn sách lưu hương con nhà

 Rước vinh quy về nhà bái tổ

 Ngă trâu ḅ làm lễ tế vua

 Họ hàng ăn uống say sưa

 Hàng tổng hàng huyện mừng cho ông nghè

- Em là gái Út trong nhà

 Lời ăn tiếng nói thật thà khoan thai

 Miệng cười như búp hoa lài

 Như nụ hoa quế, như tai hoa hồng

 Ước ǵ anh được làm chồng

 Để em làm vợ, tơ hồng trời xe

-Ước ǵ bướm được gần hoa
 Ước ǵ ḿnh sánh với ta hỡi ḿnh
 Ước ǵ t́nh sánh với t́nh
 Ước ǵ nhành bích cành quỳnh thành đôi
 Ước ǵ lan huệ đâm chồi

 Ước ǵ quân tử sánh ngưới thuyền quyên
 Ước ǵ nguyện được như nguyền
 Ước ǵ chỉ thắm xe duyên tơ đào.

 

   3. Kết luận:

   Trong chúng ta ai cũng có một quê hương để nhớ. Đó là nơi chôn nhau cắt rốn, nơi nuôi dưỡng chúng ta thành người, là cánh đồng xanh có lũy tre bao bọc, có con trâu chăm chỉ kéo cày, có đàn c̣ bay qua ruộng lúa. Và qua câu ḥ điệu hát, hai tiếng quê hương càng thêm thân thiết đậm đà. Mỗi miền quê đều có những câu ḥ, điệu hát mang âm hưởng riêng. Tất cả cộng hưởng tạo thành nền dân ca Việt Nam phong phú đa dạng. Nhờ dân ca, tục ngữ ca dao được chuyên chở, phổ biến, lưu giữ, tồn tại đến ngày nay, đă nuôi nấng tâm hồn chúng ta, kêu gọi chúng ta hăy trở về nguồn cội thiêng liêng ấm áp của ḿnh: quê hương tổ quốc VN thân yêu, nơi t́nh yêu bàng bạc khắp đất trời. Cho nên là người VN, chúng ta ai chẳng tự hào về kho tàng ca dao tục ngữ của ḿnh, đó chính là tâm hồn của người VN đă đuợc gạn lọc qua hai ngh́n năm để trở thành tuyệt bút.

   Xin trích bốn câu ca dao dưới đây mà nghệ thuật dùng từ phải nói là thượng thừa, mô tả t́nh yêu đôi lứa tuy xa nhau nhưng hai con tim vẫn cùng chung một nhịp đập yêu thương:

           -Thương nhau trường đoạn, đoạn trường

            Lụy lưu, lưu lụy, dạ dường kim châm

          - Một chờ, hai đợi, ba trông
            
Bốn thương, năm nhớ
             
Tám chín mong, mười t́m.

          - Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ,
            Nhớ ai ai nhớ bây giờ nhớ ai?

          - Ai đi đường ấy xa xa,

       Để em ôm bóng trăng tà năm canh.

 

 

 

Vinh H

17/1/2009

 

 Tài liệu sưu tầm:

- Thơ Hồ Xuân Hương, Nguyễn Lộc tuyển chọn và giới thiệu, NXBVH, 1987

- http://e-cadao.com/cadaomain.asp của Hà Phương Hoài

- http://vnthuquan.net/diendan/tm.aspx?m=180717

 


Ḅ kéo xe tại Ninh Ḥa - Ảnh: Sử Xương Hải

 

 

 

 

 

Trang XUÂN 2009- Văn Học Nghệ Thuật Và Quê Hương