
Trâu tại Ninh Ḥa - Ảnh:
Sử Xương Hải

1. Khái
quát về kho tàng ca dao tục ngữ:
Ở trên đời
này nói ǵ th́ nói, nhưng nói cho cùng “t́nh yêu” vẫn là cái ǵ bất
hủ, bất diệt, tồn tại với thời gian. Kể từ khi con người hiện hữu trên
trái đất già nua đến nay đă hàng vạn năm nhưng t́nh yêu không già, t́nh
yêu vẫn trẻ, mới lạ, hấp dẫn, mê hồn và người ta vẫn c̣n đang bâng khuâng
tự hỏi:
“Làm
sao cắt nghĩa được t́nh yêu?” - Xuân Diệu
Chính v́ thế
mà văn hào Pháp Voltaire đă nói:
“Chân
lư cuối cùng trên cơi đời vẫn là t́nh yêu.”
Tôi vẫn
nghĩ rằng nếu không có kho tàng văn chương b́nh dân th́ thật khó để mà
biết đích xác trái tim của người VN xưa ra sao? Bởi văn chương bác học cổ
điển từ khi h́nh thành đến đầu TK 20 đă trải qua hơn một ngh́n năm, nhưng
trên thi đàn hầu hết các thi gia đều chăm chú làm thơ ngâm vịnh, xướng họa,
bày tỏ ư chí, hướng về t́nh yêu thiên nhiên, cha me, vợ chồng, bằng hữu,
đất nước, giống ṇi, không đả động ǵ đến t́nh yêu đôi lứa - một đề tài có
vẻ như bị cấm kỵ, kiêng dè, nhất là những chuyện “kín” trong pḥng the.
Nếu có nói đến - như trong Kiều, Chinh Phụ Ngâm, Cung Oán Ngâm Khúc, Lục
Vân Tiên chẳng hạn, th́ những lứa đôi ấy đều xuất thân từ giới quyền quư
và quê quán dường như không phải ở VN mà ở tận bên Tàu. T́m đâu ra h́nh
ảnh một cô gái VN đi trên con đường làng rợp bóng tre xanh hay đi lễ trong
các lễ hội Mùa Xuân mặc y phục VN, như bốn câu sau đây của Nguyễn Nhược
Pháp (thời tiền chiến) mô tả một cô gái cùng thầy mẹ đi Chùa Hương:
Khăn
nhỏ đuôi gà cao
Lưng đeo
dăi yếm đào
Quần
lĩnh, áo the mới
Tay
cầm nón quai thao
Cũng như hai
câu trong bài thơ Chân Quê của Nguyễn Bính (cũng thời tiền chiến):
Nào đâu cái áo tứ thân
Cái
khăn mỏ quạ, cái quần vải đen?
Những h́nh ảnh “chân quê” ấy rất khó t́m
thấy trong thi ca bác học cổ điển trừ Hồ Xuân Hương - là một trường hợp
đặc biệt. Nữ sĩ đă phác họa chân dung, t́nh yêu và sức sống của người con
gái VN như sau:
- Thân em vừa trắng lại vừa tṛn
- Lược trúc chải cài trên mái tóc
Yếm đào trể xuống dưới nương long
Đôi g̣ bồng đảo sương c̣n ngậm
Một lạch đào nguyên suối chửa thông
- Chành ra ba góc da c̣n thiếu
Xếp lại đôi bên thịt vẫn thừa
- Mười bảy hay là mười tám đây
Cho ta yêu dấu chẳng rời ta
- Thân em như quả mít trên cây
Vỏ nó sù ś múi nó dầy
Quân tử có thương th́ đóng cọc
Xin đừng mó máy nhựa ra tay
- Bốn mảnh quần hồng bay phất phới
Hai hàng châu ngọc duỗi song song
- Càng nóng bao nhiêu th́ càng mát
Yêu đêm không phỉ lại yêu ngày
- Nâng niu ướm hỏi người trong trướng
Ph́ phạch trong ḷng đă sướng chưa?
Qua thơ Bà,
họ là những cô gái VN trẻ đẹp, xao xuyến, rực lửa trước t́nh yêu say đắm,
họ đă yêu tha thiết, táo bạo, không chút e dè, sợ sệt, giấu diếm. Họ sống
hồn nhiên, thoải mái, không bị ràng buộc, câu thúc bởi một thế lực nào.
Tác giả Nguyễn Lộc đă nhận xét về trường hợp đặc biệt của bà Hồ Xuân Hương
như sau:
“Hồ Xuân
Hương nghiêng về b́nh dân hơn là bác học. Nhà nữ thi sĩ này dường như
mượn của văn học bác học cái phần trang sức bên ngoài để tŕnh làng, c̣n
nén chặt bên trong đến tràn ứ lại là cái phần hồn dân gian đầy xức sống
của ḿnh.”
Chính v́
thế mà nội dung thơ Bà, rất gần gũi với ca dao tục ngữ. Những h́nh ảnh
chân thật, sống động, đầy say mê hấp dẫn của t́nh yêu đôi lứa qua thơ Bà
khó t́m thấy trong thi ca bác học cổ điển nhưng lại đầy dẫy trong kho tàng
ca dao tục ngữ.
Giới b́nh
dân VN đă sáng tạo liên tục, bền bỉ, được truyền khẩu, sàng lọc qua hai
ngh́n năm lịch sử, nhờ thế mà ngày nay chúng ta có một kho tàng ca dao tục
ngữ vô cùng phong phú về chất lượng và đồ sộ về số lượng. Họ là ai? Là
tuyệt đại đa số dân VN, những người dân b́nh thường thấp cổ bé miệng, tầng
lớp nghèo khổ thua thiệt trong xă hội, hầu hết sống trong các lũy tre làng,
đa số không biết chữ nhưng trời thương đă ban cho họ một tâm hồn thi sĩ dễ
dàng rung động trước ngoại cảnh, dễ dàng trắc ẩn, thương tâm trước những
cảnh đời éo le ngang trái và cũng dễ dàng “xuất khẩu thành thơ”. Họ làm
thơ lục bát dễ như đi cày, dệt cửi, chăn trâu, thổi sáo, thả diều, ḥ hát…
Lục bát trở thành mạch sống tâm hồn của dân tộc. Ba câu lục bát biến thể
sau đây phát ra từ cửa miệng tự nhiên như lời nói mà thành thơ - giữa cảnh
trời nước mênh mông đọc lên nghe sảng khoái vô cùng:
- Thuyền đi
trước cho tôi lướt đến cùng
Kẽo đến
khúc quành bờ bụi mông lung
Nếu phải
duyên trời định th́ chúng ḿnh gặp nhau
Có hai ông
già thuộc thế hệ cha tôi, sống tại làng Xuân Hoà quê ngoại tôi, một người
chỉ biết đọc biết viết, c̣n người kia hoàn toàn không biết chữ, nhưng họ
đă từng đọc cho tôi nghe những vần thơ lục bát của họ sáng tác, suốt hai
tiếng đồng hồ vẫn chưa hết, thơ cất trong bụng chứ không chép ra giấy. Hôm
nay họ đă ra người thiên cổ và thơ họ, tôi chỉ thuộc được dăm câu, có
“truyền khẩu” cho một số bạn bè nghe. Từ đó tôi có suy nghĩ, kho tàng thi
ca b́nh dân VN hôm nay đă sưu tầm được một số lượng lớn có thể dày bằng
một cuốn tự điển nếu in ra, thật ra đó cũng chỉ là một hạt cát trong sa
mạc, bởi qua thời gian dài cả ngh́n năm, bộ óc con người không tài nào nhớ
hết và đă “thất truyền” rất là nhiều. Hiện tại trong dân gian việc hô bài
cḥi, hát đối, hát ru em, v.v… không c̣n thịnh hành như xưa nhưng cũng
may, từ khi có chữ quốc ngữ và việc in ấn được dễ dàng, người ta bắt đầu
nghĩ tới việc sưu tầm ca dao tục ngữ để in thành sách truyền lại cho con
cháu mà Cụ Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc là người tiên phong. Ngày nay trên
Internet đă có nhiều trang Web tiếp tục làm công việc đó, trong số đó có
Ông Hà Phương Hoài đă chắt chiu, gom góp, sàng lọc, hệ thống trên 25 ngàn
câu ca dao tục ngữ suốt hơn ba năm để đem lên trang Web của ông năm 2004.
Đến hôm nay th́ chúng ta đă có được một số lượng ca dao tục ngữ càng đồ sộ
hơn nữa. Xin trích vài câu về t́nh yêu đôi lứa:
- Trèo lên
cây bưởi hái hoa
Bước xuống
vườn cà hái nụ tầm xuân…
- Hỡi cô tác
nước bên đàng
Sao cô múc
ánh trăng vàng đổ đi
- Sáng trăng
giă gạo giữa trời
Cám bay
phất phưởng thương người xứ xa
- Sáng
trăng sáng cả đêm rằm
Anh đi qua
ngơ em nằm không yên
Nghe thật là
trữ t́nh, lăng mạn, ướt át, nhưng lại thiếu vắng trong thi ca bác học cổ
điển.
2. T́nh
yêu đôi lứa trong ca dao tục ngữ nói về
trâu cùng những câu ca dao tục ngữ
chọn lọc khác:
Trong 12 con
giáp có 2 con đầu là Tư, Sửu đuợc ca dao tục ngữ nhắc đến khá nhiều, nhưng
nhiều nhất là trâu. V́ VN là nước nông nghiệp lâu đời, “con trâu là đầu cơ
nghiệp” nên con trâu đă được người b́nh dân yêu quư đến nỗi được cúng tế,
như cúng Tết Trâu tại xứ Ninh quê tôi và tại một số địa phương khác. Năm
nay là năm Kỷ Sửu, nên bài này được dành ưu tiên cho trâu trong việc tuyển
chọn ca dao tục ngữ.
Ca dao tục
ngữ dính dáng đến con trâu có rất nhiều nhưng ở đây chúng tôi chỉ chọn
những câu đặc biệt nói về t́nh yêu đôi lứa. Tuy nhiên để thêm phần sáng tỏ,
đầy đủ, chúng tôi có tuyển chọn thêm một số câu ca dao tục ngữ nổi tiếng
dù không dính dáng đến con trâu, nhưng có cùng một ư nghĩa.
Chúng ta
thấy h́nh ảnh con trâu tuy đen đúa, cục mịch, ḿnh mẫy lấm lem bùn đất
nhưng khi đưa vào thơ th́ trở nên đẹp đẽ lạ thường như câu sau đây:
-
Con gái mười bảy bẻ găy sừng trâu
H́nh ảnh một cô thôn nữ trẻ đẹp có thân
h́nh nảy nở, cân đối, tràn đầy sinh lực hiện ra trước mắt người đọc trông
thật duyên dáng, quyến rũ, dễ thương làm sao!
Sừng trâu mà
em c̣n bẻ găy th́ đối với một chàng trai mới lớn, em sợ chi mà chẳng tấn
công? Vâng, đúng như thế! Không phải chàng trai mà chính cô gái đă táo bạo
tỏ t́nh trước qua những câu duyên dáng ư nhị sau đây:
- Trâu
kia kén cỏ bờ ao
Anh kia không vợ đời nào có
con
Người
ta con trước, con sau
Thân
anh không vợ như cau không buồng
Cau
không buồng như tuồng cau đực
Trai
không vợ cực lắm anh ơi
Người
ta đi kép về đôi
Thân anh đi lẻ, về loi một
ḿnh
- Tiện đây xơi một miếng
trầu
Gọi là nghĩa cũ về sau mà chào
Trầu này trầu quế, trầu hồi
Trầu loan, trầu phượng, trầu tôi, trầu ḿnh
Trầu này trầu tính, trầu t́nh
Trầu nhân, trầu ngăi, trầu ḿnh với ta
Trầu này têm tối hôm qua
Giấu
cha giấu mẹ
đem ra cho chàng
Trầu này không phải trầu hàng
Không bùa, không thuốc sao chàng không ăn ?
Hay chàng chê khó chê khăn
Xin chàng đứng lại mà ăn miếng trầu
- Thiên duyên kỳ ngộ gặp
chàng
Khác ǵ như thể phượng
hoàng gặp nhau
Tiện đây ăn một miếng
trầu
Hỏi thăm quê quán ở đâu
chăng là
Xin chàng quá bước vào
nhà
Trước là hỏi chuyện sau
là nghĩ chân
- Thoạt tiên trải chiếu
ra ngồi
Trầu cau ăn đoạn hỏi
người thủy chung
Em hỏi chàng có yêu cùng
Tiếng tăm em chịu, thẹn
thùng em mang
Ví dù chàng có ḷng
thương
Th́ em chẳng quản ǵ
đường xa xôị
Chàng về chàng cứ cho
tươi
Chàng đừng héo ủ người
cười đến ta
Anh
chàng đâu chịu thua, cũng
nhanh trí
tung
ra những lời tán tỉnh
táo bạo không kém:
- Cô kia bỏ tóc
đuôi gà
Nắm
đuôi cô lại, hỏi nhà cô đâu?
Nhà em ở dưới đám dâu
Ở
bên đám bắp đầu cầu ngó qua
Ngó
qua dám đậu trổ hoa
Đám
dưa trổ nụ đám cà trổ bông
- Em
thời vác cuốc thăm đồng
Anh th́ giả
cách mang lồng chọi chim
V́ em anh
phải đi t́m
Xưa nay
anh biết chọi chim là ǵ
- Cô kia cắt cỏ một ḿnh
Cho anh cắt với chung t́nh làm
đôi
Cô c̣n cắt nữa hay thôi
Cho anh cắt với làm đôi vợ
chồng!
-
Một rằng ḿnh quyết lấy ta
Ta về bán cửa bán nhà mà đi
Ta về bán núi Ba V́
Bán chùa Hương Tích, Phật đi làu làu
Ta về bán hết ngựa trâu
Bán hột thầu dầu, bán trứng gà ung
Bán ba mươi sáu Thổ công
Bán ông Hành Khiển, vợ chồng Táo Quân
Bán từ giờ Ngọ giờ Dần
Giờ Tư giờ Sửu giờ Thân giờ Mùi
Ta về bán cả que cời
Bán tro đun bếp bán trăm khêu đèn
Ta về bán
trống bán kèn
Có ǵ bán hết, lấy tiền cưới em.
Tại
sao cô gái b́nh dân VN dám vượt qua hàng rào luân lư lễ giáo Nho giáo đă từng
thống trị xă hội VN suốt 1.000 năm, điều
ít xảy ra trong thi ca bác học cổ điển? (ví dụ như trong
cuốn Lục Vân Tiên, chàng Vân Tiên vừa gặp nàng Nguyệt Nga đă nói: “Thôi
thôi ngồi đó chớ ra, Nàng là phận gái ta là phận trai”).
Bởi
v́ theo học giả Kim Định, VN tự ngh́n xưa đă h́nh thành một nền văn minh
“nhân chủ làng xă”. Ở làng xă người dân sống tương đối tự do, mọi việc
trong làng do họ tự lo liệu gần như tự trị, không bị lệ thuộc chi phối
nhiều bởi triều đ́nh, nên mới có câu:
-
Phép vua thua lệ làng
Dĩ nhiên họ
cũng không bị chi phối, lệ thuộc nặng nề bởi quan niệm, kinh điển Nho giáo
như giới quư tộc,
Nho sĩ. Họ nh́n đời bằng con mắt b́nh dị, phóng khoáng, tự do, thoải mái
hơn nhiều. Ngay đến các hàng Vua chúa, quan lại, Nho sĩ vẫn bị họ châm
biếm:
- Con
vua th́ đuợc làm vua
- Quan nhất thời dân vạn đại
- Tôi là con
gái đồng trinh
Tôi đi bán
rượu qua dinh ông Nghè
Ông Nghè
sai lính ra de
Bẩm lạy ông
Nghè tôi đă có con
Có con th́
mặc có con
Thắt lưng
cho tṛn mà lấy chồng quan
- Ai ơi đừng lấy hủ nho
Dài lưng tốn vải ăn no lại nằm…
- Quan thấy
kiện như kiến thấy mỡ
- Quan trên
ơi hỡi quan trên,
Hiếp dân,
ăn chặn, chỉ biết tiền mà thôi
- Cậu cai buông áo
em ra,
Đặng em đi bán
kẻo hoa em tàn
Chợ trưa dưa sẽ
héo đi
Lấy chi nuôi mẹ,
lấy ǵ nuôi con
Qua ca dao tục ngữ,
“chân dung”
người
con gái VN xưa được
khắc họa rơ nét:
đẹp cả về
thể xác lẫn tâm hồn:
- Thấy em nhỏ thó lại có
duyên ngầm,
Anh phải ḷng thầm hơn
mấy năm nay.
- Thấy cô yếm thắm, răng
đen
Nam mô Đà Phật lại quên
mất chùa
- Áo gài năm nút hở
bâu
Em c̣n cha mẹ dám đâu
tự t́nh
- Áo em, anh bận
lấy hơi,
Nón em, anh đội che
trời nắng mưa.
- Áo đơm năm nút con rồng
Ở xa con phụng, lại gần
con quy
- Áo nâu ai
mặc nên xinh
Cho duyên em lịch, cho
t́nh ai say
- Áo tứ thân em treo
trên mắc
Đêm anh nằm anh đắp lấy
hơi
- Ai xui em có má
hồng
Để người quân tử đem
ḷng nhớ thương
- Thấy em g̣ má hồng
hồng
Phải chi em đừng mắc cỡ
anh bồng anh hôn
-
Ḿnh nhớ ta như cà nhớ muối
Ta
nhớ ḿnh như cuội nhớ trăng
Ḿnh
về ḿnh nhớ ta chăng
Ta
về ta nhớ hàm răng ḿnh cười
- Trầu say vương vất
vân ṃng
Nh́n
môi em đỏ khiến ḷng anh say
- V́ chưng ăn miếng
trầu anh
Cho
nên má đỏ tóc xanh đến giờ
- Dao cau rọc lá trầu vàng
Mắt anh anh liếc, mắt nàng nàng
đưa
-Trúc
xinh trúc mọc đầu đ́nh
Em xinh em đứng một ḿnh cũng xinh...
- Cô kia má đỏ hồng
hồng
Cô
chưa lấy chồng c̣n đợi chờ ai
- Một
thương tóc bỏ đuôi gà
Hai thương ăn nói mặn
mà có duyên
Ba thương má lúm đồng
tiền…
Năm thương
cổ yếm đeo bùa
Sáu thương
nón thúng quai tua dịu dàng
- Em là con gái nhà ai
Thắt lưng
nhiễu bạch, hai tai đeo trầm
Lại đây
cho anh hỏi thăm
Nhung kia
mà sánh với trầm nên chăng?
- Mày th́ cong tợ trăng non
Mặt thuôn trứng ngỗng, ngó ṃn
lông nheo
- Ai làm cái
nón quai thao
Để cho anh thấy cô nào cũng xinh
-Tóc em dài
em cài hoa thiên lư,
Thấy em hiền anh để ư anh thương
-
Em là con gái đồng chiêm
Lấy dao
cắt cỏ, lấy liềm bổ cau
Quần màu
nâu, áo màu nâu
Cái thắt
lưng láng đứng đâu cũng gịn
-
Cổ tay em trắng lại tṛn
Để
cho ai gối nó ṃn một bên?
Qua đó, chúng ta thấy
vóc dáng nàng không hẳn
là “ḿnh hạc xương mai, liễu yếu đào tơ, tuyết
nhường màu da” như vẫn
thường
được nhắc đến trong thơ ca bác học,
mà mặn mà, đằm thắm,
giản dị, rắn chắc,
cân đối,
khoẻ mạnh, nhanh nhẹn, đầy
sinh lực,
bởi trên đồng ruộng hay bên khung cửi, nàng đă từng
lao động nặng nhọc:
- Thân em vất vả trăm bề
Sớm
đi ruộng lúa, tối về ruộng dâu
Có
lược chẳng kịp chải đầu
Có
cau chẳng kịp têm trầu mà ăn
- Trầu
lên nửa nọc trầu vàng
Thương
cô áo chẹt vá quàng nửa lưng
Năm
canh th́ ngủ lấy ba
Hai
canh coi sóc cửa nhà làm ăn
Biết
đâu nàng
cũng luyện tập vơ nghệ như
“nam nhi chi chí”:
- Ai về B́nh Định mà coi
Đàn bà con gái múa roi đi quyền
Giả
sử nếu tất
cả phụ nữ VN về thể xác
đều
gầy
nhom
như “cánh vạc bay” của Trịnh Công Sơn, về
tinh thần th́ bạc nhược suốt đời
chỉ biết
khép ḿnh trong “kín cổng
cao tường”
để làm “t́ thiếp” người như Bà Triệu đă cảnh giác xưa kia, th́ thử
hỏi suốt 4 ngh́n năm lịch sử
làm sao bảo tồn được ṇi giống,
bảo vệ
được đất
nước tồn
tại
đến ngày nay? Cho nên trở
về với ca dao tục ngữ là trở về với cội nguồn dân tộc, trở về với tinh hoa,
t́nh tự của giống ṇi: tinh thần tự chủ, tự do, lạc quan, thực tế, bi trí
dũng, mạnh khoẻ, năng động… chống lại tinh thần bạc nhược, bệnh hoạn, “ăn
no lại nằm”, nô lệ, vong bản, phù phiếm, vọng ngoại… vốn là liều thuốc độc
vô h́nh đă và đang đầu độc làm suy yếu dân tộc gống ṇi dẫn tới diệt chủng,
mất nước, vô t́nh thực hành chính sách “di dân- đồng hoá” tầm ăn dâu,
trường kỳ mai phục, năm mủi giáp công vô cùng độc hiểm của chủ nghĩa bành
trướng bá quyền Trung cộng:
- Phấn son tô điểm sơn hà
Làm cho rỡ mặt đàn bà nước Nam
- Giặc
đến nhà đàn bà phải đánh
- Anh ơi,
hăy giữ việc công
Để em cày
cấy mặc ḷng em lo!
Chính v́ thế mà ngày xưa, trước khi dựng vợ gă chồng, cả
chú rễ lẫn
cô dâu đều được hai bên “coi mắt” kỹ lưỡng:
- Mua trâu xem vó, lấy vợ xem
ṇi
-
Trai th́ cày ruộng khiển trâu
Gái
th́ phải biết bổ cau têm trầu
V́
tập tục cưới
gả
ngày xưa thường
đặt
nặng
vấn
đề
“môn đăng hộ đối” và thói đời
thường “tham phú phụ bần” nên đă làm tan ră nhiều t́nh
duyên đôi lứa:
-
Công anh chăn
nghé đă lâu
Bây giờ nghé đă thành trâu ai cày?
- Trời mưa cho ướt lá khoai
Công anh làm rễ đă hai năm tṛn
- Công anh xúc tép nuôi c̣
Đến khi c̣ lớn c̣ ḍ c̣ bay
- Tiếc công
vót nứa đan lờ,
Để cho con cá
vượt bờ nó đi
- Anh thương em từ
thuở má hồng
Bây giờ em lớn,
lấy chồng bỏ anh.
Đọc lên nghe năo ḷng! Bây giờ nàng đă sang
ngang rồi th́ có nước “đi kiện củ khoai” chứ kiện ai? Do đó chàng chỉ c̣n
một cách để giải tỏa nỗi đau là cứ nói phét lên, cứ nói phóng đại lên cho
bỏ ghét:
- Con kiến
mày kiện củ khoai,
Mày chê tao khó lấy ai cho giầu.
Nhà tao chín đụn mười trâu,
Lại thêm ao cá bắt cầu rửa chân
Cầu này là cầu ái ân
Một
trăm con gái rửa chân cầu này
Có
rửa th́ rửa chân tay
Đừng
rửa chân mày, chết cá ao anh
Trên đời không thiếu những anh sàm sỡ,
suồng să,
có máu dê máu tham,
hễ thấy gái là cứ tươm tướp xáp tới, hai con mắt đẫn đờ,
miệng nói lảm nhảm, hai tay quờ quạng… trông nham nhở, mất lịch sự nên đă
bị các
nàng lên lớp phản đối triền miên khói lửa:
- Anh đánh th́
tôi chịu đ̣n
Tánh tôi hoa nguyệt mười con chẳng chừa
Anh đánh th́ tôi xin thưa
Tánh tôi hoa nguyệt chẳng chừa được đâu
Ăn quen chừa được chẳng lâu
Lệ làng làng bắt, mất trâu mặc làng
-
Bươm bướm mà đậu cành hồng
Đă thương cô chị, lại bồng cô em
-
Con công tố hộ trên rừng
Đă
yêu cô chị lại bồng cô em
-
Em là con gái đêm hôm
Anh
đừng lui tới mà nam nồm tội em!
-
Anh ở hà xứ đâu ta
Cớ sao anh biết vườn hoa chị tàn
Hoa tàn nhưng nhụy chưa tàn
Muốn
xem chị sẽ vén màn cho xem
- Thôi thôi buông áo
em ra,
Đặng em đi bán kẻo
hoa em tàn
- Anh về mắc vơng
nuôi con,
Đừng nên tơ tưởng
trái chanh non cuối mùa
- Anh có thương th́
thương cho trót
Có trục trặc th́
trục trặc luôn
Đừng làm theo thói
ghe buôn
Nay về, mai ở cho
buồn dạ em
- Anh thương em
thương quấn thương quít
Bồng ra gốc mít,
bồng khít gốc chanh
Bồng quanh đám
sậy, bồng bậy vô mui
Bồng lui sau lái,
bồng ngoái trước mũi
- Anh thương nói
thiệt em nhờ
Xin đừng nói gạt
em chờ hết duyên
- Ai đem em đến chốn này?
Bên kia là núi, bên này là sông
Đôi khi v́ hoàn cảnh trái ngang khiến
nàng phải buông xuôi theo định mệnh:
-
Bước xuống ruộng sâu, em mảng sầu tấc dạ
Tay em ôm bó mạ, lụy ứa hai
hàng
Ai làm lỡ chuyến đ̣ ngang
Cho loan với phượng đôi hàng
biệt ly
Hậu quả một phần cũng do anh
chàng quá rụt rè, nhút nhát, chần chờ không quyết định:
-
Em như ngọn cỏ phất phơ
Anh như con nghé ngơ ngơ giữa đồng
- Ba đồng một mớ trầu cay
Sao anh không hỏi những ngày
c̣n không?
Bây giờ em đă có chồng
Như chim vào lồng, như cá mắc
câu…
Ngày xưa việc
cưới gả do cha mẹ quyết định theo quan niệm tứ đức tam ṭng: “tại gia ṭng
phụ”. Tuy nhiên
không phải hoàn toàn do “cha
mẹ đặt
đâu con ngồi đó” có nhiều cô cũng có đầy đủ bản lĩnh, ư chí, nghị lực,
không để bị câu thúc, ràng buộc đă dám sống trọn vẹn cho t́nh yêu:
- Chàng đi làm
ruộng nơi đâu
Để em dẫn nghé, dắt
trâu theo chàng
- Yêu nhau ruột héo xương
ṃn
Yêu nhau đến thác vẫn
c̣n yêu nhau.
Quê anh ở tận nơi đâu?
Để em may áo viền bâu
gởi về.
- Yêu nhau chẳng quản
đường xa.
Đá vàng cũng quyết phong
ba cũng liều.
- Anh đấng làm trai nam
nhi chi chí
Em phận làm gái, nhi nữ
quần thoa
Thấy đàn cá nhảy khỏi sa
Ưng không tại bậu, cha mẹ
già biết đâu?
- Anh đi làm
thợ nơi nao?
Để em gánh đục gánh bào
theo anh
- Anh ơi! chớ liệu, đừng
lo
Dù ai cấm chợ ngăn đ̣,
có em.
- Anh ơi! đường chẳng bao
xa
Anh không bước tới,
pḥng hoa em chờ
- Anh về cho em về
theo
Tiền cưới mặc họ, tiền
cheo mặc làng
- Anh về sắm nón sắm quai
Sắm giường sắm chiếu
ngày mai em về
-Trời cao bể rộng mông
mênh
Ở sao cho trọn tấm t́nh
phu thê.
Trót đà ngọc ước vàng thề
Dẫu rằng cách trở sơn khê
cũng liều
-Thiếp
trao chàng câu ân, câu ái
Chàng trao thiếp câu ngăi,
câu nhân
Cả bốn câu hợp lại Tấn
với Tần nên duyên
- Yêu nhau con
mắt liếc qua
Kẻo chúng bạn biết, kẻo
cha mẹ ngờ
Gần thời chẳng bán duyên
cho
Xa xôi cách mấy lần đ̣
cũng sang.
- Quạ kêu nam
đáo nữ pḥng
Người dưng khác họ đem
ḷng nhớ thương
Chỉ điều ai khéo vấn
vương
Mỗi người mỗi xứ mà
thương nhau đời
- Anh với
em như mía với gừng
Gừng cay mía ngọt ngát
lừng mùi thơm
Anh với em như nước với
non
Non xanh nước biếc duyên
c̣n dài lâu
- Anh ơi! nôm
cá xong chưa?
Xuồng em neo
đợi chờ trưa anh về
- Anh ơi! đi
lại cho dày
Thầy mẹ không
gả em bày mưu cho
-
Anh về sương gió lạnh lùng
Ở
đây chung gối chung mùng với em
-
Anh về em nắm cổ tay
Em
dặn câu này anh chớ có quên
Đôi ta đă
trót lời nguyền
Chớ xa xôi
mặt mà quên mảng ḷng
- Một yêu em gửi miếng trầu
Hai yêu em gửi áo nâu về nhà
Ba yêu em gởi áo hoa
Bốn yêu em gửi thư nhà cho anh
Năm yêu em gởi quạt xanh
Sáu yêu em gửi một cành kim thoa
Bảy yêu em gửi khăn là
Tám yêu em gửi cành hoa cho chàng
Chín yêu em gửi lạng vàng
Mười yêu em chỉ lấy chàng mà thôi
-
Đói ḷng ăn nửa quả sim,
Uống lưng
bát nước đi t́m người thương
Người thương
ơi hỡi người thương
Đi đâu mà để
buồng hương lạnh lùng
- Chàng về sắm sửa loan
pḥng
Thiếp xin điểm phấn tô
hồng thiếp theo
- Ai về đằng
ấy hôm mai
Gửi dăm cái nhớ, gửi vài cái thương
Gửi cho đến chiếu đến giường
Gửi cho đến tận buồng hương chàng nằm
- Trách gà
vội gáy tàn canh
Không lâu
tí nữa cho t́nh thở than
- Vắng chàng
em vẫn hỏi thăm
Nơi ăn đă vậy, nơi nằm làm sao?
- Láng giềng đă tỏ đèn đâu?
Chờ
em ăn dập miếng trầu em sang
Đôi
ta cùng ở một làng
Cùng
chung một ngơ vội vàng chi anh?
Em
nghe họ nói mong manh
Dường
như họ biết chúng ḿnh với nhau
- Trầu này trầu tính, trầu
t́nh
Trầu
nhân, trầu ngăi, trầu ḿnh với ta
Trầu
này têm tối hôm qua
Giấu
cha giấu mẹ
đem ra cho chàng
- Thương nhau cởi áo cho nhau
Về nhà mẹ
hỏi qua cầu gió bay
- Chàng về để áo lại đây
Để
khuya em đắp gió tây lạnh lùng
- Chàng về
cho chóng rồi ra
Kẽo em chờ
đợi sương sa lạnh lùng
- Chuột kêu chút chít trong
rương
Anh
đi cho khéo kẽo đụng giường mẹ hay
-
Chuột kêu chút chít trong ṿ
Ḷng anh có muốn th́ ṃ lại
đây
- Anh ơi đă có vợ chưa?
Mà anh ăn nói gió đưa ngọt
ngào
Mẹ
già anh ở nơi nao?
Để
em t́m vào hầu hạ thay anh
Chàng thề
non hẹn biển, dù hoàn cảnh có đưa đẩy thế nào cũng
quyết
một ḷng sống chết với người yêu:
- Anh thương em
trầu hết lá lươn
Cau hết nửa vườn cha
với mẹ nào hay
Dầu mà cha mẹ có hay
Nhứt đánh nh́ đày,
hai lẽ mà thôi
Gươm vàng để đó em ôi!
Chết th́ chịu chết,
ĺa đôi anh không ĺa
- Chân
xiềng cổ lại đeo gông
Chết anh anh chịu chứ không bỏ nàng
- Cha mẹ anh có đánh quằn,
đánh quại
Bắt
anh ra treo tại nhành dương
Biểu
từ ai, anh từ đặng
Chớ
biểu từ người thương, anh không từ
- Nửa đời sương
gió ngang tàng
Trái
tim lụy chỉ v́ nàng đấy thôi
Trước cảnh
người yêu phụ bạc chạy theo giàu có “ruộng mẫu trâu đôi” lên xe hoa
đi lấy chồng xa, chàng chỉ c̣n biết buông lời trách móc, oán than:
- Trâu
đồng ta ăn cỏ đồng ta
Tuy rằng cỏ cụt nhưng mà cỏ
thơm
- Thương
nhau v́ nợ v́ duyên
Trâu đôi chi đó, thổ điền chi đây
- Mất
trâu mất ruộng không màng
Mất cây cuốc mục ra làng kiện thưa
- Trâu
kia chết để bộ da
Người chết
để tiếng xấu xa muôn đời
- Trâu
ta ăn cỏ đồng ta
Đừng ham
cỏ tốt ăn qua đồng người
Hàng ta,
ta bận cũng tươi
Ham chi
hàng ngoại, kẻ cười người chê
- Bao giờ
cho mạ lên non
Một trăm
mẫu đất có con trâu cày.
- Thật thà, cũng
thể lái trâu,
Yêu nhau, cũng
thể nàng dâu mẹ chồng
Chàng cho
rằng chuyện vợ chồng là do duyên nợ chứ đâu phải v́ hai chữ giàu nghèo:
-
Nghĩ xa rồi lại nghĩ gần
Làm thân con nhện mấy lần vương tơ
Về đâu trong đục mà chờ
Hoa thơm mất tiết, nương nhờ vào đâu?
Số em giàu, lấy khó cũng giàu
Số em nghèo chín đụn mười trâu cũng nghèo
Phải duyên phải kiếp th́ theo
Giàu ăn khó chịu, lo ǵ mà lo
-
Trăm năm cơ hội t́nh cờ,
Đàn cầm anh găy, câu thơ anh đề.
Muốn cho thuận nẻo đi về,
Anh sang làm rể, em về làm dâu.
Số giàu lấy khổ cũng giàu,
Số nghèo chín đụn mười trâu cũng nghèo.
Phải duyên phải kiếp th́ theo,
Khuyên em chớ nghĩ giàu nghèo làm chi.
Em ơi! chữ vị là v́,
Chữ dục là muốn, chữ tùy là theo,
Ta đă yêu nhau tam tứ núi cũng trèo,
Thất bát giang cũng lội, tam thập đèo cũng qua.
-
Thương nhau v́
nợ v́ duyên
Trâu
đôi chi đó, thổ điền chi đây
Trước hoàn cảnh khó khăn chàng chỉ biết mượn lời thơ để
tự an ủi:
-
Chẳng qua số phận long đong
Cột trâu, trâu đứt, cột tṛng, tṛng
trôi.
Thời phong
kiến cho phép trai năm thê bảy thiếp, nên phụ nữ đă phải gánh chịu nhiều
thua thiệt cay đắng trong cảnh lấy chồng chung:
- Mật ngọt rớt xuống thau đồng
Những lời anh nói cho ḷng em say
Một trâu anh sắm đôi cày
Một chàng đôi thiếp có ngày oan gia!
Chàng ơi! chàng cho em ra
Nhẽ đâu một ổ đôi gà ấp chung.
- Ai bầy cái cảnh
đa thê
Để cho em phải
nhiều bề khổ đau
Ngày
xưa đối với những chàng trai vào đời chỉ có hai bàn tay trắng không
công danh sự nghiệp
th́ ba việc
sau đây thật là khó “dàn trời”:
-
Mua trâu, cưới vợ, làm nhà
Cả
ba việc ấy đều là khó thay!
Nhưng thời xưa cũng đâu có khác
bây giờ, nhiều người làm nên sự nghiệp là nhờ của cải nhà vợ “chuột sa hũ
nếp” hay là gặp vợ giỏi “sau lưng người đàn ông thành công luôn luôn có
người đàn bà”:
- Làm ruộng
có trâu làm giầu có vợ
Trước hoàn cảnh đẩy đưa, phải biết chấp
nhận thực tế, và thỏa vui với hạnh phúc trong tầm tay:
- Cành đào lá liễu phất
phơ
Đường đi khuất nẻo ai
ngờ gặp nhau
Gặp nhau ăn một miếng
trầu,
C̣n hơn đám cưới mổ
trâu ăn mừng.
Bài thơ sau
đây mới lạ về h́nh thức, có nhiều sáng tạo trong cách gieo vần, đặt câu,
tương tự như thơ mới bây giờ, nội dung cũng mới lạ:
- Ḥn đá
cheo leo,
Con trâu
trèo, con trâu trợn
Con ngựa
trèo, con ngựa đổ.
Anh thương
em lao khổ
Tận cổ chí
kim,
Anh thương
em khó kiếm khôn t́m.
Cây kim
luồn qua sợi chỉ,
Sự bất đắc
dĩ phu mới ĺa thê,
Nên hay
không nên, anh ở em về,
Đừng giao,
đừng kết, đừng thề mà vương
Hẹn lần hẹn
lửa để rồi cũng chỉ là nước chảy mây bay:
-
Tháng tư ngày chẳn tháng dư
Ta lại chần chừ cho đến tháng năm
Tháng năm là tháng trâu đầm
Ta hẹn ḿnh rằng tháng sáu ḿnh lên
Tháng sáu lo chửa kịp tiền
Bước sang tháng bảy lại liền mưa ngâu
Tháng bảy là tháng mưa ngâu
Bước sang tháng tám lại đầu trăng thu
Tháng tám là tháng trăng thu
Bước sang tháng chín mù mù mưa rươi
Tháng chín là tháng mưa rươi
Bước sang tháng mười đă đăi mưa đông
Quanh đi quẩn lại em đă có chồng
Như chim trong lồng, như cá cắn câu
Thách cưới là
tục lệ lâu đời, nếu không ưng th́ cứ thách cho thật cao, thách trên trời
dưới biển, thách cho “thỏa tấm ḷng”:
- Cưới em tám vạn trâu ḅ
Chín vạn dê lợn, nười ṿ
rượu tăm.
Lá đa mặt nguyệt hôm rằm
Răng nanh thằng Cuội,
râu cằm Thiên Lôi
Gan ruồi mỡ muỗi cho
tươi
Xin chàng chín chục con
dơi góa chồng
Thách thế mới thỏa tấm
ḷng
Chàng mà lo
được, thiếp cùng theo chân
Để trả đủa
lại, anh chàng cũng giở giọng ba trời ba đất:
- Cưới nàng
anh toan dẫn voi
Anh sợ quốc cấm nên voi không bàn
Dẫn trâu sợ họ máu hàn
Dẫn ḅ sợ họ nhà nàng co gân
Miễn là có thú bốn chân
Dẫn con chuột béo mời dân mời làng.
Cho
mượn chồng hay không cho mượn là một chuyện mới lạ từ trước đến nay trên
thế giới chưa thấy xảy ra. Thật ra đó cũng chỉ là một cách nói cho vui vậy
thôi, mang tính cách trào phúng dí dơm:
-
Của chua ai nấy cũng thèm
Em
cho chị mượn chồng em vài ngày
Chồng
em đâu phải trâu cày
Mà
cho chị mượn cả ngày lẫn đêm
- Sông dài cá lội biệt tăm,
Phải duyên chồng vợ ngàn năm cũng chờ.
Ruộng ai th́ nấy đắp bờ,
Duyên ai nấy gặp đừng chờ uổng công.
Nếu duyên
không thành th́ chỉ c̣n đó những nuối tiếc, yêu thương và mơ mộng xa xôi:
-
Thấy anh hay chữ em hỏi thử đôi lời
Ngày xưa ông vua Thuấn
cày trâu hay ḅ?
- Trăm năm
c̣n có ǵ đâu?
Miếng
trầu liền với con trâu một vần
-
Em
ôm bó mạ xuống đồng
Miệng ḥ tay cấy mà ḷng nhớ ai?
- Một thương hai nhớ ba
sầu
Cơm ăn chẳng đặng, ăn
trầu cầm hơi
Thương chàng lắm lắm
chàng ơi
Biết đâu thanh vắng mà
ngồi thở than?
-Tay cầm cọng lạt bẻ c̣
Ḷng
thương da diết, giả đ̣ làm lơ
Thương
sao thương dại thương khờ
Trong nhà
không dám khóc, ra bụi bờ khóc than
-
Nhớ ai con mắt lim dim
Chân
đi thất thểu như chim tha mồi
Nhớ
ai hết đứng lại ngồi
Ngày
đêm tơ tưởng một người ở xa
-
Nói lời th́ giữ lấy lời
Đừng
như con bướm đậu rồi lại bay
- Một duyên, hai nợ, ba t́nh
Chiêm
bao lẩn quất bên ḿnh năm canh
Đêm nằm lại nghĩ một ḿnh
Ngọn đèn khêu tỏ bóng quỳnh
bay cao
Trông ra nào thấy đâu nào
Đám mây vơ vẩn ngôi sao mập mờ
Mong người, ḷng những ngẩn
ngơ
-
Nhớ ai nhớ măi thế này
Nhớ
đêm quên ngủ, nhớ ngày quên ăn
-
Một thương, hai nhớ, ba trông
Bốn chờ,
năm đợi, sáu mong duyên nàng
- Nhớ ai
bổi hổi bồi hồi
Như đứng
đống lửa, như ngồi đống than
T́nh yêu đôi lứa thật là t́nh tứ lăng mạn:
- Anh về bán
cặp trâu già
Anh qua anh cưới
biết mà đặng không?
- Tḥ tay mà ngắt ngọn
ng̣
Thương em
đứt ruột giả đ̣ ngó lơ
- Anh kia cắp sách đi đâu
Lại đây em hỏi vài câu
huê t́nh!
- Anh kia gánh lúa
một ḿnh
Cho em gánh với hai
ḿnh cho vui
Anh c̣n gánh nữa hay
thôi
Cho em gánh với làm đôi
nhân t́nh
- Anh thương em
chỉ nói bên ngoài
Sao mà không nói tận
tai mẹ thầy?
-
Anh như nút, em như khuy
Như mây với
núi, biệt ly không đành
- Thương nhau từ áo mới
may
Bây giờ áo đă thay tay
vá quàng
- Ai về đằng ấy đằng này
Để đêm em nhớ để ngày
em thương
Yêu nhau đi nhớ về
thương
Em về cái chốn buồng
hương em nằm
Thấy chiếu mà chẳng
thấy chăn
Thấy chỗ ḿnh nằm chả
thấy ḿnh đâu
- Áo xông
hương của chàng vắt mắc
Đêm em nằm em đắp lấy
hơi
Gửi khăn, gửi túi, gửi
lời
Gửi cho chàng mạng cho
người đàng xa
V́ mây cho núi nên xa
Mây cao mù tịt, núi
nḥa xanh xanh
- Ai làm cho
cực tấm ḷng
Càng nhắc càng nhớ, càng trông càng sầu
Hễ về nhớ đến lời nhau
Bắc cầu mà chả được cầu ái ân
Dầu xa nhích lại cho gần
Làm thân con nhện mấy lần vương tơ
-
Em ơi! chua ngọt đă từng
Non xanh nước bạc ta đừng quên nhau
- Ai đi
đường ấy hỡi ai?
Hay là trúc đă nhớ mai đi t́m?
T́m em như thể t́m chim
Chim ăn biển Bắc anh t́m biển Đông
T́nh yêu đôi
lứa như chiếc thuyền t́nh lênh đênh trên biển mộng. Sau khi lên tới tột
đỉnh yêu thương đă hướng về tổ ấm, xây dựng hạnh phúc trăm năm:
- Lênh đênh
một chiếc thuyền t́nh
Mười hai
bến nước biết gửi ḿnh nơi mô?
- Anh về
đường ấy mấy cung
Cho em về cùng thăm mẹ
thăm cha
- Anh có thương em th́
trầu rượu đến nhà
Trước cha mẹ biết, sau bà
con hay
-Thương nhau chỉ những
khóc thầm
Đôi ḍng nước mắt đầm
đầm như mưa
Anh về đón khách đ̣ đưa
Đây chưa có vợ, đấy chưa
có chồng
Anh về nhắn nhủ tơ hồng
Xe dây cho
kịp kẻo ḷng nhớ thương.
- Miếng trầu thật tay em
têm
Trầu phú, trầu quư, trầu
nên vợ chồng
Trầu nầy khấn nguyện tơ
hồng
Trầu nầy kết nghĩa loan pḥng
từ đây!
- Em đà
thuận lấy anh chưa?
Để anh đốn
gỗ rừng Nưa đóng thuyền?
Thuyền mang
đôi chữ nhân duyên
Chồng chèo
vợ chống thuyền quyên chẳng vời
- Em
th́ canh cửi việc nhà
Nuôi anh ăn
học đăng khoa bảng vàng
Trước là
vinh hiển tổ đường
Bỏ công đèn
sách lưu hương con nhà
Rước vinh
quy về nhà bái tổ
Ngă trâu
ḅ làm lễ tế vua
Họ hàng ăn
uống say sưa
Hàng tổng
hàng huyện mừng cho ông nghè
-
Em là gái Út trong nhà
Lời ăn
tiếng nói thật thà khoan thai
Miệng cười
như búp hoa lài
Như nụ hoa
quế, như tai hoa hồng
Ước ǵ anh
được làm chồng
Để em làm
vợ, tơ hồng trời xe
-Ước ǵ bướm
được gần hoa
Ước ǵ ḿnh sánh với ta hỡi ḿnh
Ước ǵ t́nh sánh với t́nh
Ước ǵ nhành bích cành quỳnh thành đôi
Ước ǵ lan huệ đâm chồi
Ước
ǵ quân tử sánh ngưới thuyền quyên
Ước ǵ nguyện được như nguyền
Ước ǵ chỉ thắm xe duyên tơ đào.
3. Kết
luận:
Trong chúng
ta ai cũng có một quê hương để nhớ. Đó là nơi chôn nhau cắt rốn, nơi nuôi
dưỡng chúng ta thành người,
là cánh
đồng xanh có lũy tre bao bọc, có con trâu chăm chỉ
kéo cày, có đàn c̣ bay qua ruộng lúa.
Và qua câu ḥ điệu
hát, hai
tiếng quê hương càng thêm
thân thiết
đậm
đà.
Mỗi miền
quê đều có những câu ḥ, điệu hát mang âm hưởng riêng. Tất cả cộng
hưởng
tạo thành nền
dân ca Việt
Nam phong phú đa dạng. Nhờ
dân ca, tục ngữ ca dao được chuyên chở, phổ biến, lưu giữ, tồn tại đến
ngày nay, đă nuôi nấng tâm hồn chúng ta, kêu gọi chúng ta hăy trở về nguồn
cội thiêng liêng ấm áp của ḿnh: quê hương tổ quốc VN thân yêu, nơi t́nh
yêu bàng bạc khắp đất trời. Cho nên là người VN, chúng ta ai chẳng tự hào
về kho tàng ca dao tục ngữ
của ḿnh, đó chính là
tâm hồn của người VN đă đuợc gạn lọc qua hai ngh́n năm để trở thành tuyệt
bút.
Xin trích
bốn câu ca dao dưới đây mà nghệ thuật dùng từ
phải nói là thượng thừa, mô tả t́nh
yêu đôi lứa tuy xa nhau nhưng hai con tim vẫn
cùng chung một nhịp đập yêu thương:
-Thương
nhau trường đoạn, đoạn trường
Lụy lưu, lưu
lụy, dạ dường kim châm
- Một chờ, hai đợi,
ba trông
Bốn
thương, năm nhớ
Tám
chín mong, mười t́m.
-
Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ,
Nhớ ai ai nhớ bây giờ nhớ ai?
- Ai đi
đường ấy xa xa,
Để em ôm bóng
trăng tà năm canh.

Vinh
Hồ
17/1/2009
Tài
liệu sưu tầm:
- Thơ Hồ
Xuân Hương, Nguyễn Lộc tuyển chọn và giới thiệu, NXBVH, 1987
-
http://e-cadao.com/cadaomain.asp
của
Hà Phương Hoài
-
http://vnthuquan.net/diendan/tm.aspx?m=180717