Nhập đề:
Hàng năm Tết về người ta không quên lịch sử Việt
Nam có chiến thắng ngoại xâm của vua Quang Trung nhân mùa Xuân Kỷ Dậu oanh
liệt vào năm 1789. Trong binh pháp ngày xưa, người dân dùng vơ thuật và
mưu trí ǵn giữ bờ cơi. Bởi vậy khi các em nhỏ hỏi tôi là vơ học Việt Nam
có từ bao giờ, và trong phạm vi vơ đường Kienando th́ bài viết này cố gắng
biên đôi ḍng gợi ư cho các em một khái niệm, có thể không đầy đủ, nhưng
chỉ là bước đầu giúp các em chút nào ư tưởng khi khoác vơ phục và hănh
diện v́ ḿnh học vơ Việt bên cạnh càc môn sinh từ những quốc gia, những
nguồn gốc khác. Vơ thuật hay vơ học bắt nguồn v́ lư do ǵ nếu không phải
là để sinh tồn trước thiên nhiên, con người có thể tự vệ chống lại những
hoàn cảnh nguy khốn đe dọa sự an toàn cho con người. Rồi từ đó con người
tạo ra những phương thức pḥng vệ, những chiêu thức chiến đấu căn bản của
loài người được triển khai ra, sau này những bài bản được hệ thống hóa trở
nên quy củ hơn. Khi xă hội được h́nh thành quy củ th́ vơ thuật cần thiết
cho con người lấy vơ bảo vệ trật tự xă hội và bảo vệ giang sơn.
A/ Việt Nam với Quốc Tổ Hùng Vương:
Với tổ tiên của chúng ta là Quốc Tổ Hùng Vương.,
mà hằng năm nhớ đến tổ tiên có công dựng nước,
chúng ta làm lễ tri ân và tưởng nhớ. Những buổi lễ như vậy thường kèm theo
những màn vơ thuật Việt Nam, v́ chính nhờ vơ thuật như phương giúp đỡ
chúng ta duy tŕ và mở mang xứ sở từ thuở xa xưa.
Theo triết gia Kim Định kể về lễ giỗ tổ Hùng
Vương th́ Ngày giỗ Tổ của Việt Nam có thể gọi được là ngày sinh nhật của
con người mà Hùng Vương là một điển h́nh, một mẫu mực cổ sơ tức một mô
thức phổ biến của con người Đại Ngă Tâm Linh được Việt Nho quan niệm như
là "nơi quy tụ đức của Trời cùng Đất", “nhân giả kỳ thiên địa chi đức”, có
ư nghĩa nói là một vật lưỡng thể sống do cả hai yếu tố: tâm lẫn vật. V́
thế nên vua Hùng Vương được sinh ra từ mẹ Tiên và cha Rồng tức là đức Trời
Đất đă bao hàm ư nghĩa là ngay từ trong thân mẫu. Đến ngày sinh th́ được
an định vào mồng 10 tháng 3 cùng một ư đất trời lưỡng hợp v́ mồng mười là
thập thiên can chỉ đức trời, c̣n tháng ba là cung dần, chỉ đức đất. Tại
sao lại lấy cung dần? Thưa dần là con vật mạnh nhất trong thập nhị địa
chi, nên có tên là Hùng cùng loại dần đều hàm ngụ sức mạnh vô biên v́ bao
quát được cả đức trời lẫn đất, nhờ đó mà vượt được hai đợt xiềng xích
thường trói buộc tâm trạng con người được chỉ thị bằng cưỡng hành và lợi
hành để vươn tới đợt an hành thuộc tâm linh, tức vượt đến giai đoạn mà con
người không c̣n làm v́ sợ trời đánh thánh vật, hay v́ trục lợi cầu danh mà
thấy đáng làm th́ làm, đó là đợt độc lập tâm linh.
Đầu năn nay (2008) Hội Cao Niên Á Mỹ tại niền
Nam California đă tổ chức lễ Giỗ Tổ Hùng Vương thật trọng thể. Môn phái
Kienando cùng vài môn phái bạn được Hội mời tham dự biểu diễn vơ thuật.
Trong tinh thần "Uống nước nhớ nguồn", các vơ sinh trẻ Kienando được học
hỏi về lịch sử lập quốc của tổ tiên và văn hóa cổ truyền.
Ngược ḍng thời gian vào những năm 257-207 BC (trước
Tây lịch), vua Hùng Vương thứ 18 bị Thục Phán An Dương Vương cướp ngôi và
đổi tên nước Văn Lang thành nưóc Âu Lạc. Lănh thổ nước ta dưới thời Thục
Phán đă mở rộng lên phía Bắc gồm một phần đất Tượng Quận của tỉnh Quảng
Tây (nay thuộc xứ Tàu). Những chứng tích lịch sử vẫn c̣n lưu lại. Ví dụ
tại tỉnh Phúc Yên (Bắc Việt) vẫn c̣n di tích thành Cổ Loa đă được xây dựng
dưới thời An Dương Vương, một công tŕnh xây cất mang những nét đặc thù cổ
kính và quân sự.

Hưng Đạo Vương dẹp quân Nguyên
Mông
B/ Càc triều đại lịch sử nổi bật về vơ học:
Đến cuối đời vua Hùng-vương, ở huyện Từ-liêm,
quận Giao Chỉ có một người tên là Lư-Thân, ông có thân h́nh to lớn, vạm vỡ
và mạnh khỏe phi thường. Lư Thân giỏi vơ thuật. Khi vua Tàu là Tần
Thủy-Hoàng muốn xâm chiếm nước Âu-lạc. Vua ta là An Dương Vương phải cho
Lư Thân sang Tàu cầu ḥa. Thấy Lư Thân to lớn khỏe mạnh, lại rất tài giỏi
vơ nghệ, Vua Tần cho đấu với các vệ sĩ Tàu. Lư Thân vung chiêu lần lượt
đánh ngă từng địch thủ trước sự chứng kiến của vua Tần.
Tần Thủy Hoàng ngưỡng mộ tài nghệ của Lư Thân,
và ra lệnh giữ Lư Thân lại để phong chức trấn giữ vùng đất Lâm Thao. Như
tài năng, sức mạnh và thân h́nh cao lớn, Lư Thân đă khiến cho rợ Hung Nô
phương Bắc khiếp sợ không dám đến quấy nhiễu. Vua Tần phong cho Lư Thân
làm Vạn Tín Hầu. V́ xa quê hương, nhớ cố quốc nên Lư Thân xin trở về nước
Âu Lạc. Khi vắng bóng Lư Thân, rợ Hung Nô lại kéo đến quấy nhiễu biên
cương nhà Tần. Tần Thủy Hoàng liền khẩn triệu Lư Thân sang, nhưng kỳ này
Lư Thân không muốn sang đất Tàu nữa. Triều đ́nh An Dương Vvương phải trả
lời là Lư Thân đă chết. Vua Tần thương tiếc, nên cho đúc tượng Lư Thân
bằng đồng và ban hiệu là Lư Ông Trọng. Khi đẩy tượng này ra biên-ải, rợ
Hung Nô khiếp vía khi trông thấy tượng đồng, lầm tưởng là Lư Thân c̣n
sống nên bỏ chạy rút quân về. Câu chuyện này cho thấy người Việt giỏi vơ
nên vị vua nổi tiếng của Tàu phải cậy nhờ đến. Lịch sử Việt Nam đă ghi
nhận danh nhân Lư Ông Trọng đă góp công giúp Tần Vương đánh đuổi được rợ
Hung Nô, măi cho tới khi nhà Tần bị nhà Hán tiêu diệt.
Sau khi Triệu Đà là một quan úy ở Quận Nam Hải,
đă dùng mưu mô cho con trai là Trọng Thủy sánh duyên cùng Mỵ Châu con gái
của An Dương Vương, đă đánh tráo nỏ Thần Kim Qui và đem quân sang đánh An
Dương Vương cướp được ngôi. Rồi sáp nhập Nam Hải và Hợp Phối (tức thuộc
Quảng Đông ngày nay) vào Âu Lạc lập nên một nước tự chủ và đặt tên nước là
Nam Việt. Trị v́ truyền ngôi được 5 đời cho đến năm 111 BC trước Tây lịch,
nhà Hán bên Tàu đem quân đánh chiếm Nam Việt, cải tên nước Nam Việt thành
Giao Chỉ Bộ (tức Giao Châu) đặt quan cai trị như là một quận của nước
Trung Hoa. Nước ta đă lâm vào cảnh ngoại thuộc.
Ôn lại từ ngày Hồng Bàng lập quốc cho đến nay,
nước Việt Nam đă có gần năm ngàn năm lịch sử, tính từ năm Nhâm Tuất 2879
trước Công Nguyên, trải qua mười tám đời vua Hùng Vương cho đến các triều
đại Ngô, Đinh, Lê, Lư Trần, Nguyễn,... nước Việt Nam đă chịu nhiều nỗi
thăng trầm lịch sử của các thời thịnh trị, cũng như bị trị và loạn lạc để
ông cha ta vẫn giữ vững đất nước, tự vệ chống ngoại xâm phương Bắc và mở
mang bờ cơi lấn chiếm về phương Nam, tổ tiên ta đă khôn khéo phối hợp các
tài năng văn ôn vơ luyện của các tướng sĩ, nói đến vơ luyện th́ những tinh
hoa vơ xưa đó cũng đă ảnh hưởng đến bao đời sau này.
Trong kho tàng thi phú người ta nhớ câu thơ:
"Văn quan cầm bút an thiên hạ,
Vơ tướng đề đao định thái b́nh"
Triều đ́nh Việt Nam vốn tuyển những sĩ phu giỏi
văn hoặc vơ, hay cả hai cho mẫu người lư tưởng.
Ǵn giữ được dăy sơn hà gấm vóc, th́ điều này
chứng tỏ rằng người dân trong xă hội xa xưa chẳng những học văn mà c̣n chú
trọng đến việc rèn luyện vơ thuật để chống giặc ngoại xâm, dẹp nội loạn,
nhằm mang lại thanh b́nh cho xứ sở. Xét về những giai đoạn lịch sử tranh
đấu của dân tộc Việt Nam th́ nền vơ học đă đóng một vai tṛ hệ trọng mà
phần trên đă đề cập đến, nên ta thấy phần nhiều những vị anh hùng dân tộc
đều xuất thân từ giới vơ học, đă tiên phong mang tài thao lược vơ dũng và
vơ trí để góp công vào cuộc lập quốc và kiến quốc.

Vua Quang Trung đại phá quân Thanh
Vào năm 542, Lư Bôn, một vị anh hùng dân tộc đă
đứng lên đánh đuổi quân Tàu để làm vua, dựng nên nghiệp nhà Tiền Lư. Đến
năm 602, Lư Phật Tử thuộc hậu Lư Nam Đế v́ thế yếu nên xin hàng phục vua
nhà Tùy. Kể từ đó, Giao Châu lại lệ thuộc nước Trung Hoa lần thứ ba. Măi
cho đến năm 939 sau Công Nguyên, người Việt mới dành lại được quyền tự chủ.
Vào thế kỷ thứ hai th́ nền văn minh Việt Nam
chịu ảnh hưởng của Tam giáo quan trọng của Đông phương là Phật, Khổng, và
Lăo giáo, nên nền vơ học từ Ấn Độ và Trung Hoa cũng được các vị thiền sư,
đạo sĩ mang đến từ hhai quốc gia to lớn và lâu đời này, qua hai con đường
thủy và đường bộ được các sách ghi nhận lại như sau:
V́ những lần binh biến ở xứ Tàu th́ các đạo sĩ
Tàu chạy sang đất Giao Châu (Bắc Việt Nam) để lánh nạn v́ năm 189 sau Công
Nguyên, khi vua Hán Linh đế mất, nước Tàu lâm vào hoàn cảnh loạn lạc. Dịp
này có rất nhiều vị đạo sĩ giỏi vơ công cũng như những lư thuyết lư tôn
giáo như đạo Khổng và Lăo vào lối sống dân gian của xă hội đại chúng.
Trong số các đạo sĩ phải nói đến ngài Mâu Bác (Meou-Po) rất tinh thông
uyên bác về tam giáo, cuối đời th́ ngài quyết định đi tu, phát tâm theo
Phật giáo.
Ngoài nhánh từ Trung Hoa th́ nhánh do các vị
thiền sư Ấn Độ sang đất Giao Châu (Bắc Việt Nam) để truyền bá đạo Phật,
hoặc có một số ghé ngang qua Giao Châu, trên đường du hành sang Trung Hoa
vào thế kỷ thứ ba. Trong số các vị thiền sư Ấn Độ nổi bật được ghi nhận
như ngài Chí Cương Lương (Tche-Kiang Leang), Khương Tăng Hội (K'ang Seng
Houei), và Ma Ha Kỳ Vực (Marjivaka ha La Jivaka). Vào năm 247, vua Ngô Tôn
Quyền thấy ngài Khương Tăng Hội thi triển nhiều phép lạ đem ḷng tín phục
và xây chùa ở thành Kiến Nghiệp (Nam Kinh bây giờ) để ngài tu tŕ và giảng
dạy Phật học. Trong sách "Cao Tăng Truyện" có ghi nhận là ngài Ma Ha Kỳ
Vực gốc ở Ấn Độ, đi du hành truyền bá đạo giáo sang các nước Châu Á, đến
Founan theo đường Giao Châu và Quảng Châu (ngày nay là Bắc Việt và Quảng
Đông), đến mỗi nơi th́ ngài đều làm phép lạ. Khi đến Tương Dương, ngài
muốn qua đ̣ nhưng người lái đ̣ thấy ngài quần áo tả tơi, như kẻ bần cùng
nên không cho xuống. Nhưng đến khi đ̣ ngang cập bến, mọi người đều lấy làm
kinh ngạc v́ thấy ngài đă ở bên này sông rồi. Điều này chỉ có thể giải
thích theo vơ thuật kiếm hiệp như phi thân phi thường.
Đến năm 580, vị thiền sư Ấn Độ tên là T́ Ni a
Lưu Chi (Vinitaruci) từ Tây Trúc đă chính thức mang đến Việt Nam ngành đạo
thiền tông đầu tiên tại Việt Nam, tại chùa Pháp Vân ngày nay thuộc tỉnh
Bắc Ninh, đă truyền đạt lại được qua 19 đời (580 - 1216). Năm 820, vị cao
tăng Trung Hoa là ngài Vô Ngôn Thông đến chùa Kiến Sơ thuộc tỉnh Bắc Ninh
lập nên thiền phái thứ hai, truyền được 14 đời (820 - 1221).
Kế tiếp sau đó th́ các môn vơ lâm cổ truyền xuất
phát từ nhánh Ấn Độ cũng như các môn Thiếu Lâm Nam phái hay Bắc phái của
ngài Bồ Đề Lạt Ma từ Trung Hoa bắt đầu xuất hiện tại Việt Nam.
Do đó các tướng sĩ Việt Nam giỏi vơ từ các triều
đại Ngô, Đinh, Lê, Lư, Trần, Nguyễn đă dùng kỹ
năng vơ thuật trong việc điều hành, bảo vệ và mở mang xứ sở.
Năm 939, vơ tướng Ngô Quyền thắng vẻ vang trận
Bạch Đằng, đánh đuổi được quân Nam Hán và giết được Thái Tử Hoằng Thao,
Ngô Quyền đă giải phóng người dân Việt khỏi ách ngàn năm đô hộ của giặc
Tàu.
Năm 1010, Lư Công Uẩn tiếp nối nghiệp đế của nhà
Lê để khai sáng nhà Tiền Lư, truyền ngôi được chín đời. Lư Công Uẩn là vị
vua nổi tiếng rất giỏi vơ thuật, xuất thân từ cửa thiền ngay từ nhỏ đă
theo nhà sư Lư Khánh Vân làm con nuôi, ngài được học vơ lâm và đạo thiền
tại chùa Cổ Pháp. Khi lớn lên nhờ tài văn vơ song toàn mà được nhà tiền Lê
bổ nhiệm chức Quân Tả Thần Vệ Viện Tiền Chỉ Huy Sứ. Khi lên ngôi, vua Lư
Thái Tổ rất trọng đăi giới tu hành, và thời đại mà Phật giáo được xem là
quốc giáo, song song với Thiền tông, nhà vua cũng phát động việc huấn
luyện môn vơ lâm cổ truyền cho các quan viên, quân sĩ, cũng như các hoàng
tử đều phải luyện tập vơ lâm ngay từ thuở nhỏ. Khi lớn lên, các hoàng tử
đều giỏi vơ lâm và cách điều khiển và vận dụng binh lính theo binh pháp vơ
thuật. Muốn được phong vương các hoàng tử đều phải đích thân cầm binh đánh
giặc để lập chiến công.
Sự phối hợp đặc biệt của triều Lư về vơ học và
vơ đạo đă đem lại sự thịnh trị ổn định khá lâu dài cho đất nước trong suốt
9 triều đại dài suốt 115 năm (1010 – 1225).
1/
Danh tướng Lư Thường Kiệt:
Sự kiện danh tướng Lư Thường Kiệt và Tôn Đản đem
quân đánh Khâm Châu, Liêm Châu (tức Quảng Đông), Ung Châu (tức Quảng Tây)
của nhà Tống thật đáng cho dân Việt hănh diện và ghi nhớ công ơn nhà Lư.
Khi đoán biết quân nhà Tống chuẩn bị xâm lăng xứ ta. Lư Thường Kiệt chủ
trương đánh phủ đầu địch quân, dùng binh pháp tấn công trước đánh úp bất
ngờ như “Lấy Công Làm Thủ”, trước khi địch quân kịp thời trở tay. Mục tiêu
tối hậu của chiến pháp là tiêu diệt hậu cần quân sự của nhà Tống ngay tại
hai nơi trọng yếu Quảng Đông, Quảng Tây, ngăn chận ư đồ xâm lăng của quân
nhà Tống, kế hoạch đó là đem chiến tranh ra xa khỏi biên cương Việt Nam và
lợi điểm là tạo cho Việt Nam ở thế thượng phong trong việc thương lượng
ngoại giao giữa hai nước về sau. Danh tướng Lư Thường Kiệt để lại câu nói
bất hủ là: "Muốn hoà b́nh ta phải chuẩn bị chiến tranh trước", ngày xưa
tiền nhân ta ư thức được là nguyên tắc chủ động trong đường lối tâm lư vận
dụng chiến tranh chính trị và ngoại giao đối với xứ Tàu. Tướng Lư Thường
Kiệt để lại sự xác định lại vị trí của xứ sở đối với những tham vọng của
ngoại bang qua 4 câu hịch:
"Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư."
Diễn nghĩa:
"Sông núi đất Việt vua Nam ở,
Sách trời phân định rơ ràng thay.
Cớ sao lũ giặc sang xâm lấn,
Chúng bây coi chừng thua trận ngay."
Tưởng cũng nên biết Lư Thường Kiệt nổi danh với
kỹ thuật xử dụng binh khí trường đao.

Lư Thường Kiệt
phá Tống B́nh Nguyên
2/ Cuộc xâm lăng của đạo quân Nguyên Mông:
Quân nhà Nguyên từ Mông Cổ sau khi chiếm trọn
nước Tàu đă dùng quân gốc người Tàu bản xứ để xâm lăng nước ta ba lần. Cả
ba lần tấn công Việt Nam th́ quân Nguyên đều thua thảm bại. Trong ba lần
xâm lấn này, quân Nguyên áp dụng một phương thức tàn ác là đi tới đâu th́
đốt phá nhà cử, chém giết bừa băi. Kế hoạch này của quân Nguyên hữu hiệu
khi dùng để tấn công các quốc gia nằm ở địa thế sa mạc, vùng b́nh nguyên
ít sông ng̣i, rừng rậm.
Ban đầu quân Nguyên đánh giá sai lầm quân Việt
Nam. Giặc Nguyên khi đến Việt Nam gặp chiến trường đặc biệt, rất khó nuốt.
Hệ thống sông ng̣i chằng chịt, những địa thế hiểm trở của đất Việt là mồ
chôn đạo quân Mông. Chiến tranh du kích, và khí hậu, thời tiết oi bức,
thủy thổ của đất Nam làm cho quân Nguyên ở vào thế bị động tại chiến
trường Việt Nam. Kế hoạch phục binh và phản công giặc Mông Cổ, Hưng Đạo
Vương Trần Quốc Tuấn đă soạn ra bộ "Binh Thư Yếu Lược", một cẩm nang tập
hợp các phương pháp vận dụng binh sĩ chiến đấu chống giặc của những chiến
lược gia trên thế giới để huấn luyện cho quân sĩ ḿnh.
Triều đ́nh nhà Trần sáng suốt khi kêu gọi tinh
thần dân tộc bằng việc tổ chức hội nghị Diên Hồng, hội nghị B́nh Than để
tạo tinh thần đồng ḷng chống giặc ngoại xâm. Một khi toàn dân đồng tâm
nhất trí của khối dân tộc một ḷng đoàn kết gây một sự đại bại cho đạo
quân bách chiến bách thắng Nguyên Mông. Đạo quân của Thành Các Tư Hăn và
Hốt Tất Liệt xua quân làm bá chủ gần 2/3 địa cầu từ Âu sang Á châu. Tuy
vậy Đức Trần Hưng Đạo đă ba lần chận đánh giặc Nguyên Mông thảm bại cả ba
lần. Theo các sách sử th́ quân Mông Cổ bị bại trận tại Việt Nam và Nhật
Bản khiến cho quân Mông Cổ mất dần thế bá chủ thượng phong để rồi đi đến
chỗ suy tàn trên khắp thế giới.
Chiến thuật của nhà Trần áp dụng khác với kế
hoạch tấn công trước, đánh phủ đầu địch quân của Lư Thường Kiệt, Trần Hưng
Đạo đợi quân Nguyên tràn vô lănh thổ Việt Nam rồi quân ta mới ra tay đánh.
V́ tới địa thế mới địch quân chưa quen phong thổ, chúng bị bệnh tật hoặc
c̣n mỏi mệt. Khi đó quân ta tung kế hoạch tấn công toàn diện về mọi mặt
như cắt đứt đường tiếp vận, bộ binh, hải quân, bao vây căn cứ của giặc để
tiêu diệt.
Chiến thắng được một đại quân lừng danh như Mông
Cổ quân ta có ǵ ngoài tấm ḷng yêu nước cùng gươm, dáo, cung, đao, mác và
vơ thuật
Về cơ cấu tổ chức giáo dục dưới đời nhà Trần th́
vấn đề phối hợp vơ học và vơ đạo được phát huy
qua kích thước quy mô hơn
thời nhà Lư và vơ học và vơ đạo được đưa lên
hàng quốc sách, v́ qua kế sách của vua Trần Hưng Đạo chủ trương khuyến
khích vơ học song hành với văn học. Bằng chứng là Quốc Học Viện tổ chức
những khoa thi Tam Giáo (Khổng, Lăo và Phật) và Thái Học Sinh (tức sinh
viên Quốc Học Viện) song hành với với hệ thống Giảng Vơ Đường. Đây là một
tổ chức được thành lập như một Viện Đại Học chuyên về vơ học, cưỡng bách
việc học sinh tại khắp các nơi, các thành phần đẳng cấp xă hội khàc nhau
nên theo vơ học. V́ tinh thần vơ học bảo vệ xứ sở.
Những tướng lănh nổi danh của đời nhà Trần tiêu
biểu cho sự thành công hiển vinh về chính sách giáo dục này là tướng Trần
Quang Khải xuất thân từ gia thế danh giá hoặc Phạm Ngũ Lăo xuất thân từ
gia đ́nh nông dân, Yết Kiêu, Trần Quốc Toản,...những nhân tài của quốc gia.
3/ Triều đại Lê và Nguyễn:
Vào năm 1428 B́nh Định Vương Lê Lợi lên ngôi vua,
các vị đại thần có công lao lớn theo giúp vua, đáng kể nhất về bên văn là
ông Nguyễn Trăi trong ban tham mưu, về bên vơ có dũng tướng Lê Vấn và nhà
sư Sa Viên lo huấn luyện vơ thuật cho binh sĩ. Sư Sa Viên, thế hiệu là Sơn
Nhân người gốc Sơn La, Bắc Việt, vào năm 1407 ngài theo quy y học đạo tại
chùa Huyền Thiên tại tỉnh Sơn Đông bên Tàu. Năm 1415, ngài về nước theo
pḥ vua Lê Lợi trong việc huấn luyện vơ công cho binh sĩ.
Vào thời Hậu Lê, vơ học được phát triển khắp cả
tầng lớp qúi tộc lẫn b́nh dân. Ngay từ lúc Lê Thái Tổ lên ngôi, việc đầu
tiên mà ông thi hành ngay là ấn định lại quy chế giáo dục, bắt đầu từ quan
văn vơ tứ phẩm trở xuống. Khởi đầu là chương tŕnh huấn luyện và tu nghiệp
: Lập các khóa học và thi mệnh danh là Minh Kinh Khoa, bắt buộc các chức
quan phải học lại, thi lại về cả văn ( kinh sử) và vơ. Chế độ Minh Kinh
Khoa c̣n mở rộng tới các lộ để tuyển dụng nhân tài trong dân dă, và áp
dụng luôn cho cả giới tu sĩ, không phân biệt Phật Giáo hay Đạo giáo. Sự
cưỡng bách giáo dục c̣n đi tới chỗ khắc nghiệt là buộc các tu sĩ nếu bị
loại ra khỏi các cuộc khảo hạch phải hoàn tục. Rơ rệt dụng ư của Lê Thái
Tôn là muốn tái lập và đi xa hơn, chính sách giáo dục đào tạo nhân tài,
Văn Vơ Song Toàn là tiêu chuẩn quy định để công dân phục vụ đất nước hữu
hiệu hơn.
Từ thời kỳ Trịnh Nguyễn phân tranh, năm 1679 trở
về sau ở miền Nam th́ nền vơ học Việt Nam chịu ảnh hưởng nhiều vào các vơ
phái của người Trung Hoa như Thiếu Lâm Nam và Bắc phái, Vơ Đang, Nga Mi,
Không Động, Bạch Hạc, Bát Quái Chưởng,... qua các quan binh của nhà Minh
bất phục tùng nhà Thanh t́m đến Việt Nam xin tá túc, họ đến khai hoang lập
ấp, định cư răi rác trên các vùng đất cận Nam. Do đó, về sau người ta c̣n
được nghe nhắc đến những danh từ như Vơ Tiều, Vơ Hẹ, Vơ Quảng, Vơ Hải Nam,
Vơ Phúc Kiến,... để ám chỉ các môn vơ do các người Tàu, gốc thuộc các địa
phương khác nhau mang sang truyền bá. Những người Tàu này được gọi là Tàu
Minh Hương, tức những người thuộc nhà Minh, họ đă đóng góp nhiều cho việc
h́nh thành miền Nam, nhất là khi chúa Nguyễn đă cho phép các tướng lănh
cùng hơn ba ngàn binh sĩ gốc "phản Thanh phục Minh" đến tỵ nạn, và tiện
dịp dùng họ để khai hoang, lập ấp tại các vùng đất cận Nam hoang vu, rồi
dần dần xâm chiếm các vùng đất của người Chân Lạp. Về sau sự thần phục nhà
Nguyễn để sát nhập vùng đất cực Nam của Mạc Cửu cho thấy khối Hoa kiều ban
sơ đă đồng hóa với người Việt theo thời gian. Ít nhiều những căn bản vơ
thuật của càc môn phái thiếu lâm Tàu cũng được hội nhập vào ḍng chính của
Việt Nam, rồi được căi biến theo nhu cầu và chủ trương từng vơ phái tại
địa phương.
Trước năm 1975, nói về vơ thiếu lâm, chúng ta
nghe nói đến những môn phái như Thiếu lâm Thất Sơn, Thiếu lâm Phật Gia,
Thiếu lâm Hồng Gia, Thiếu lâm Trung Sơn, Thiếu lâm Tây Sơn, Thiếu lâm Tiên
Long, Thiếu lâm Bạch Long, Thiếu lâm Kiến An,...
(Đoạn sau đây, môn phái Kiến An Vơ Đạo sẽ
được đề cập đến như sự phát triển vào ḍng chính tại Hoa Kỳ.)
C/ Kiến An Vơ Đạo hay Kienando:
Các phái vơ cổ nguồn gốc xa gần với Thiếu Lâm
thường được thấy ngày càng phát triển, riêng với Thiếu Lâm Kiến An sau này
c̣n được gọi là Kiến An Vơ Đạo hay Kiến An Kungfu đă vượt biên giới quê
hương, lan rộng ra hải ngoại.

Hải Nam trong ngọn phi lôi cước ngoạn mục
Theo tập tài liệu của Kienando th́ Kienando là
tên gọi quốc tế của môn phái Kiến An Vơ Đạo. Sự h́nh thành của môn phái
này phát xuất từ thập niên 40 tại Đồ sơn, Hải Pḥng, tỉnh Kiến An. Năm
1954 khi đất nước chia đôi v́ t́nh h́nh thời cuộc đưa đẩy vị Chưởng môn
Nguyễn Lâm của Kienando vào Nam. Năm 1972, ông quyết định mở vơ đường
truyền thụ và phát huy những tinh hoa của Kienando cho xă hội. Vào năm
1995 ông và gia đ́nh sang Mỹ định cư, ông mở lớp vơ đầu tiên tại vùng San
Fernando Valley. Những lớp vơ Việt của ông khiến người Hoa Kỳ chú ư. Sau
các buổi thuyết tŕnh Vơ học và biểu diễn Vơ công tại các Đại học Los
Angellles Pierce College và California State University at Northridge (CSUN),
đến năm 2000 ông được Hội đồng giám định càc môn học của đại học CSUN mời
vào giảng dạy vơ thuật Kienando như môn học được cấp tín chỉ. Các giáo sư
trong ban Giảng huấn như: GS John Schroeder, GS Fujishima Hiroyasu (Karate
& Taekwondo), GS Komori (Aikido), và GS Suzan Snyder (Wutang) đă đề nghị
trường CSUN mời sự cộng tác của GS Nguyễn Lâm phụ trách môn vơ Việt Nam
Kienando. Từ những năm 90 đến nay sự phát triển của môn phái Kienando tốt
đẹp tại Hoa Kỳ. Ngoài những lớp Kienando tại đường tại CSUN và Trung Tâm
Kienando tai Hội Người Việt trên đường Corbin, các vơ sĩ Kienando c̣n tham
dự các buổi lễ văn hóa tại các đại học vvà các cơ quan văn hóa tổ chức như
Ngày Di Sản các Dân tộc Châu Á Thái B́nh Dương tại Hollywood, các Hội Chợ
Tết tại Nam Cali... Các cuộc biểu diễn đạt sự thành công để phát triển nét
đẹp hùng mạnh của vơ thuật văn hóa Việt Nam, nhất là sự khuyến khích giới
trẻ hănh diện về nguồn gốc của dân tộc.
Triết lư của Kienando phát triển dựa trên nền tảng vơ học thực dụng là
Kiến tạo sức mạnh cùng sự An b́nh cho con người về hai phạm vi thể lực và
tâm hồn, trong một ư nghĩa rộng lớn cho quốc gia, xă hội, nó c̣n bao hàm ư
nghĩa Kiến Quốc An Dân. Trong ư nghĩa lịch sử địa lư của nơi xuât phát như
đă nói trên, Kienando đánh dấu nơi chốn phôi thai nguyên thủy của môn phái
là tỉnh Kiến An, tức Hải Pḥng ngày nay.

Cam Ly trong bài quyền Song Tiết Côn
Trong lư thuyết vơ học Kienando các vơ sinh được
huấn luyện căn bản về thân, trí thật bền bỉ gồm nội lực của cơ thể và tâm
năo cần bén nhậy và sáng suốt khi quan sát các mục tiêu chung quanh khi
ứng chiến. Người vơ sinh lấy chân, thiện, mỹ của cuộc sống làm căn bản cho
vơ đạo, mà theo vơ học Kiennando th́ lấy thân lực và trí lực làm kim chỉ
nam đào tạo vơ sinh. Khá nhiều sinh viên Hoa Kỳ theo thụ huấn các lớp vơ
Kienando tại đại học California State Northridge do giáo sư Chưởng môn
Nguyễn Lâm hướng dẫn. Những sinh viên ngoại quốc cảm thấy hănh diện và
thích thú khi thao đượt và t́m hiểu tường tận nguồn gốc về lư thuyết và
triết lư thực hành vơ thuật của môn phái này. V́ những ích lợi của việc
t́m hiểu nguồn gốc tinh hoa vơ học, các vơ sinh hay các tham dự viên Hoa
Kỳ mặc nhiên chấp nhận tiếng Việt của các thế vơ hay các chiêu đánh trong
tâm thức của họ. Bởi v́ Kienando là môn vơ do người Việt Nam khai sáng và
truyền thụ tại quê nhà cũng như tại Hoa Kỳ sau năm 1995.
Chúng tôi có phỏng vấn các môn sinh ngoại quốc
theo học đă lâu, nay họ là những huyện viên tại hai vơ đường, như các vị
O'Connor McCain, Frank Swenson,Asaad Dalloul, Asushi, Sun Chi Chang,
Megawon Kimberly, Lynelle Millitate, đa số theo đuổi học lên cao với
Kienando v́ Kienando giúp cho họ rèn luyện sức khỏe và thu thập thêm vơ
công trong vơ học như một chuyên môn của sở thích trong cuộc sống. Riêng
với cô Lynelle, một huấn luyện viên trung kiên đă theo học hơn 7 năm, từ
vơ đường CSUN rồi sang vơ đường trung ương Corbin, Lynelle có ước nguyện
trở thành vơ sư cao cấp của môn phái Kienando, bên ngoài kiến thức văn hóa
và tŕnh độ học vấn khá cao, cô thích t́m hiểu về nguồn gốc văn hóa Việt
Nam, mà trong đó vơ thuật Kienando là một khía cạnh đam mê của cô.

Hải Việt trong ngọn phi cước bay bổng nunchaku
Kết luận:
Giới trẻ Việt Nam theo học Kienando đă có nhiều
đợt, nhiều em theo học 6 hay 7 năm, khi lên đại học lại học ở xa, rồi
thỉnh thoảng về lại thăm vơ đường xưa. Ngày nay cấp huấn luyện viên trẻ
đeo hoàng đai (hoàng đai trung b́nh 3 năm, theo hệ thống Kienando trước
khi lên hồng đai cần 10 năm thụ huấn liên tục) gồm Đại Nhân, Cam Ly, Hải
Nam, Hải Việt, Đại Trí, Duy Mộng,... và hai vơ sư nồng cốt phụ trách điều
hành vơ đường là Hồng Ngọc Đại Nghĩa và Trần Phương. Tất cả những người
trẻ này cùng nhau xây dựng những thế hệ trẻ hơn về vơ thuật, để nối tiếp
những cơn sóng lưu truyền, theo h́nh ảnh của ḍng đời từ thượng nguồn xuôi
xuống hạ nguồn, và để tiếp diễn măi. Đó là sự nối tiếp văn hóa cần được
khuyến khích.

Việt Hải * Hoàng Nam
Tham Khảo:
-
Sử kiện trong bài theo tài liệu từ bộ sử của cụ Trần Trọng Kim (Việt Nam
Sử Lược).
-
Sách Thiếu Lâm Kiến An Kungfu Việt Nam và Lôi Vũ Quyền.
Sách
Thiếu Lâm Kiến An Kungfu Việt Nam và Các Môn Vơ Á Châu Lừng Danh

Việt
Hải

Trang XUÂN 2009- Văn Học Nghệ Thuật
Và Quê Hương