Tháng 5 năm1990, Chris McCandless, 22
tuổi, vừa tốt nghiệp Đại học Emory University, Atlanta và sắp sửa bước vào
trường Luật. Cậu học giỏi lại có nhiều tài về âm nhạc, thể thao và thuộc
một gia đ́nh rất khá giả vùng Virginia. Cha mẹ vui mừng đề nghị cho cậu
một chiếc xe mới và hứa giúp đỡ trả tiền học Luật nếu quỷ để dành đại học
của cậu không đủ. Xe mới, cậu không nhận. Tiền học, cậu cũng không màng.
Nào ai biết rằng sau đó không lâu, cậu đă kư ngân phiếu biếu hết số tiền
24 ngàn c̣n lại trong quỷ cho một hội từ thiện chống đói.
Gia đ́nh, cha mẹ, bạn bè không ai
biết cậu đang nghĩ ǵ trong đầu khi tuyên bố một câu là ḿnh sắp sửa biến
dạng một thời gian. Mà quả thật, khoảng cuối tháng 6, từ nhà trọ học ở
Atlanta, cậu đi đâu mất biệt với chiếc xe củ mèm. Cậu không c̣n thích đời
sống văn minh, đầy tiện nghi, thừa thải. Cậu khao khát một cuộc đời mới,
một ḿnh, hoàn toàn tự do, không g̣ bó, không luật lệ, để có thể tiếp nhận
những kinh nghiệm mới mẽ thuần chất nhất trong thiên nhiên. Đoạn tuyệt
cuộc đời đă qua gắn liền với tên Chris McCandless, cậu lặng lẽ đặt cho
ḿnh một tên mới Alexander Super- tramp, người sẽ đi lang thang cùng khắp
đó đây.
Khởi hành lái xe từ Atlanta, cậu đi
về hướng tây tới công viên quốc gia Lake Mead ( Arizona ). Cậu dừng chân
cắm lều gần hồ. Thế rồi, một trận mưa như thác đổ làm xe cậu, đang đậu
trái phép ở một nơi, hết nổ máy. Cậu không kêu cứu sợ lộ tông tích nên
phải bỏ xe. Thay v́ lo âu, cậu đă thấy trận nước lũ vừa qua như là một dịp
để cậu trút gánh nặng bên đường. Cậu tước bảng số xe, chôn dấu khẩu súng
săn nai và vài đồ mà cậu sẽ lấy lại sau này. Rồi bao nhiêu tiền c̣n lại
trong túi 123 đô la, cậu đánh que diêm đốt thành tro khói. Sở dĩ người ta
biết được nhiều chi tiết trong chuyến du hành là nhờ cậu đă ghi lại trong
nhật kư và chụp h́nh mà một số được gởi lại nơi người quen trên đường
phiêu bạt cất giữ.
Thế rồi cậu tự tạo cho ḿnh một cuộc
đời mới từ con số không, đi lang thang dần lên hướng bắc, khi cần th́ xin
quá giang xe trên đường lộ, nhảy lén xe lửa chở hàng, chịu làm thuê làm
mướn để kiếm sống qua ngày như một người cùng đinh trong xả hội. Với tên
mới Alex, cậu đă đi qua nhiều nơi, lănh hội biết bao kinh nghiệm sống và
thử thách trong thiên nhiên, làm quen với một số người địa phương và rất
được thương mến. Chính nhờ những người này mà về sau Jon Krakauer, tác giả
quyển “ Into The Wild” viết về đời cậu, mới ḍ dẫm và truy ra được lộ
tŕnh hai năm đi t́m hạnh phúc trong mạo hiểm của cậu.
C̣n cha mẹ th́ không sao biết con
ḿnh đă ở đâu, làm ǵ, cho đến khi thân xác thối rửa của cậu được t́m thấy
ở Alaska, trên chiếc xe bus bỏ hoang dọc Stampede Trail, nơi vùng núi rừng
hoang dă tận cực Bắc, bởi một đám người săn thú vào tháng 9 năm 1992.
Alaska từ lâu được coi như một điểm
thu hút đối với những người thích mạo hiểm, chẳng hạn Chris McCandless,
mộng ảo đến một thế giới thiên nhiên hoang sơ, huyễn hoặc, được thêu dệt
qua văn chương cầu kỳ của nhà văn Jack London. Hơn thế nữa, cậu là người
thán phục và chịu ảnh hưỡng của đại văn hào Nga nổi tiếng Leo Tolstoy,
người mà cuối đời đă từ bỏ sự giàu sang, vinh dự để sống lang thang trong
thiếu thốn. Cậu muốn t́m cảm giác mới mẻ, toại nguyện nhất mà cậu nghĩ
rằng không bao giờ có trong cuộc sống xả hội văn minh. Có thể nói, trong
khía cạnh nào đó, cậu đi t́m hạnh phúc trong tâm hồn giữa thiên nhiên, mạo
hiểm.
Từ Atlanta, du hành xuyên qua các
tiểu bang, qua Mexico để đi một ḿnh vào miền hoang dă phía bắc ngọn núi
Mt. McKinley ở Alaska, Alex đă dấn thân vượt nhiều trắc trở, ghềnh thác vô
cùng nguy hiểm. Có lúc sống bờ sống bụi, ăn uống thiếu thốn, đôi khi phải
ăn cây rừng để sống, cậu ốm đi nhiều nhưng tinh thần th́ phấn chấn,toại
nguyện lắm. Khi mệt mỏi cậu cũng tạm dừng chân ở vải thành phố lớn như Las
Vegas, lây lất sống ngủ bên đường phố với đủ hạng người “homeless” trong
vài tuần trước khi đi tiếp.
Mùa đông tới, cậu lưu lại hơn hai
tháng ở Bullhead City thuộc Colorado,vào thành phố kiếm việc làm. Ở
McDonald’s, những người làm việc c̣n nhớ đến cậu như một người kỳ lạ, khi
nói chuyện th́ chỉ thích nói đến cây cối, thiên nhiên và những cái không
ai hiểu. Lúc mới đến làm, chân đi giày không vớ, người th́ lúc nào cũng có
mùi hôi. Điều đó không tốt cho tiệm nên cậu được nhắc nhở. Khi người ta
muốn giúp đỡ hỏi cậu có cần xà pḥng để tắm không th́ cậu giận lên.Đó là
lúc cậu chưa có chổ tạm trú, vẫn c̣n cắm lều sống trong sa mạc ven thành
phố mà dấu không cho ai biết.
Bullhead City, địa điểm cậu ở lại
lâu nhất trong cuộc du hành trước khi tới Alaska, vùng núi Mt. Mckinley
với ư định sống vài tháng trong thiên nhiên hoang dă, không dấu vết văn
minh, một ḿnh.Ở những nơi khác dừng chân, cậu cũng kiếm được chổ ở và làm
việc cho người mới quen qua các chuyến quá giang. Cậu đă gặp những ngưởi
tốt và vẫn tiếp tục liên lạc với họ qua thơ từ. Cậu đă tâm t́nh, chia xẻ
niềm hân hoan về những thành công vượt qua thử thách trên con đường mạo
hiểm.
C̣n người thân, gia đ́nh ? Cậu không
gởi một chữ. Cậu vốn có thành kiến từ lâu là cha mẹ sống giàu sang nhưng
đạo đức giả. Năm 18 tuổi, cậu khám phá ra là trong khoảng thời gian đầu
lấy mẹ cậu và sinh ra cậu và người em gái, ông cha vẫn lén lút sống với
người vợ trước, tiếp tục có con và kéo dài t́nh trạng này, không dứt khoát
ly dị vợ củ để chính thức cưới mẹ cậu. Mặc dầu đó là chuyện đă qua và ba
cậu là một người rất tài giỏi, biết tạo dựng sự nghiệp gia đ́nh, nhưng cậu
nhất định không tha thứ và có thái độ khép kín, thờ ơ, làm ǵ cũng không
cho gia đ́nh biết.
Cha mẹ cậu đă nhờ cảnh sát tại
Virginia truy t́m nhưng vô vọng.Chỉ một lần duy nhất cuối tháng 8,1990 gia
đ́nh nhận được tin tức về cậu qua thơ cảnh sát gởi từ California đ̣i tiền
phạt v́ tội “hitchhiking” (đón đường xin quá giang ) gần Willow Creek. Cơ
quan chuyên nghiệp cố t́m cậu nhưng phải chịu thua. Sau này người ta mới
biết lúc bị phạt, cậu lúng túng đành phải khai nhà cha mẹ v́ cảnh sát đ̣i
biết địa chỉ thường trực của cậu. Khi xin việc làm ở McDonald’s, cậu phải
khai tên thật và số an sinh xả hội. Thế mà thám tử được mướn bởi cha me
cậu đă không biết.
Trong số những người Alex quen biết
có một ông già 80 tuổi Ronald Franz, ở Salton City thuộc California, người
cho quá giang trong khi cậu đang cắm lều dừng chân ở vùng sa mạc
Anza-Borrego, gần đám dân bụi đời, hút xách nghiện ngập. Franz là một
người Công giáo rất ngoan đạo, phần lớn cuộc đời ông sống trong quân ng ủ,
đóng ở Thượng Hải và Okinawa. Vào ngày cuối năm 1957, trong lúc đang ở xa,
vợ và đứa con trai duy nhất sắp sửa tốt nghiệp trường thuốc đă bị chết bởi
tai nạn xe hơi do một người nghiện rượu lái.
Sáu tháng đầu ông t́m quên trong men
rượu, sau đó bỏ rượu, sống cuộc đời đơn độc trong nhiều năm trước khi bắt
đầu nhận những đứa trẻ hiếu học ở Okinawa làm con nuôi không chính thức.
Tính ra ông đă lo cho 14 đứa trong đó đứa lớn nhất đang học trường thuốc ở
Philadelphia và một đứa khác cũng như thế đang học ở Nhật.
Gặp nhau khởi đầu từ tháng giêng
1992, họ đă có nhiều th́ giờ tṛ chuyện, ngay cả sau khi rời nơi này, Alex
vẫn gởi thư cho ông. Alex kể hết cho ông nghe mọi việc từ chuyện lộn xộn
trong gia đ́nh, kinh nghiệm trong mạo hiễm, ư định đến Alaska vào mùa xuân,
quan điểm về cuộc đời … Franz cũng đă truyền hết cho Alex cái tinh vi nhất
của ông trong nghề làm da thuộc của ḿnh. Sau nầy, trong số những vật tinh
xảo, đầy sáng tạo do chính tay cậu làm ra c̣n để lại, là cái dây nịt bằng
da có chạm trổ ghi khắc lại những chữ, những h́nh ảnh đánh dấu quá tŕnh
cậu đă trải qua trên bước đường mạo hiểm.
Franz rất thương và căm kích sự
thông minh, khéo léo của Alex. Cha mẹ ông, đều là con một, sinh ra chỉ một
m ́nh ông, rồi đứa con duy nhất của ông cũng không c̣n nữa. Ông có tiền.
Ông muốn nhận cậu làm cháu nuôi. Cậu miễn cưỡng hứa hẹn sẽ nghĩ đến sau
khi mạo hiễm ở Alaska trở về. Một ông già từng trải, kinh nghiệm đời như
thế, tạo được một thân t́nh với cậu như thế, mà vẫn không làm sao khuyên
được cậu bỏ đi cái tính ngông cuồng, sống bờ sống bụi. “ Ông Franz, ông
không cần phải lo lắng cho tôi. Tôi có giáo dục đại học. Tôi không thiếu
thốn. Tôi đang sống như thế này là do tôi chọn lựa.”
Franz trơ trọi cô đơn. Ông bám víu
vào t́nh cảm sâu đậm dành cho Alex. Thay v́ thuyết phục được cậu trai trẻ
chưa có tuổi đời kinh nghiệm, ông đă bị cậu thuyết phục ngược lại. Sau khi
cậu ra đi, ông đă làm theo lời khuyên của cậu. Bỏ nhà mướn. Ông mua một xe
van, trang bị đầy đũ, cắm lều ngay nơi cậu đă ở hồi trước trong vùng sa
mạc. Thế rồi ngày ngày ngồi nh́n ra đường lộ mong đợi có một ngày chàng
trai trẻ với túi hành lư lớn trên lưng, Alex, trở lại với ḿnh.
Cứ như thế hơn tám tháng, cho đến
một hôm sau Christmas 1992, trên đường quay về sa mạc sau khi tới Salton
City để kiểm hộp thư, ông cho hai người quá giang. Trên xe, ông đề cập đến
Alex và cuộc mạo hiễm Alaska. Không ngờ một người đă báo cho ông biết
người bạn trẻ của ông đă chết, nhờ đọc tin tức trên báo Outdoor magazine.
Alex không bao giờ trở lại! Ông tâm
sự với Jon Krakauer, tác giả “ Into The Wild” : sau khi Alex từ giă dể đi
Alaska, ông đă cầu nguyện. Ông đă kêu gọi Thượng đế phù trợ cho cậu v́ đó
là đứa con trai rất đặc biệt. Nhưng sau khi biết tin Alex chết, ông đă
chối bỏ Thượng đế. Ông không c̣n là một thành viên của nhà thờ và trở
thành một người vô thần. Ông không thể nào tin được ở một Thượng đế đă để
cho chuyện ghê gớm sảy đến với cậu nhỏ như Alex. Ông quá đau khổ.
Tính ra, bốn tháng từ ngày 28 tháng
4 năm 1992, nhảy xuống xe quá giang cuối cùng, Alex đă một ḿnh đi mất
biệt vào hoang dă của Alaska. Cậu muốn chứng tỏ với chính cậu là cậu có
thể sống được ở đó, không cần một trợ giúp nào. Rủi thay, cậu đă chết v́
đói [1] vào khoảng ngày 18 tháng 8 tại nơi đó, 19 ngày trước khi 6 người
Alaska đi săn t́nh cờ ngang qua xe bus, đọc miếng giấy với lời kêu cứu
S.O.S của cậu dán ở cửa xe rồi khám phá thi thể cậu trên đó, cuộn trong
chiếc sleeping bag mẹ cậu đă may cho. Lúc đó cậu mới 24 tuổi.
Những thành công trong mọi lănhvực
lúc c̣n đi học, trên bước đường mạo hiểm trước khi đến Alaska đă khiến cậu
quá tự tin, thiếu chuẩn bị thích đáng, trang bị quá sơ sài cho một chuyến
dự định sống lâu trong rừng hoang vào một mùa xuân không thích hợp. Tuyết
tan, nước lũ ngăn chặn lối đi, gió mưa làm cậu bị “mắc cạn” đành lẩn quẩn
sống quanh vùng xe bus bỏ hoang, không địa bàn, không bản đồ, không đồng
hồ, không đầy đủ lương thực mang theo. Cậu săn bắt thú, hái cây rừng, ăn
bất cứ thứ ǵ để sống, chờ đợi ngày có thể quay về.
Cậu đâu ngờ rằng chổ cậu đang ở cũng
không xa lắm với vài trạm có thể giúp cậu qua khỏi khó khăn. Đáng lẻ cậu
không đến nổi chết đói, có một lần cậu “trúng mối”, bắn ngă được một con
hưu to nhưng v́ không biết cách để dành thịt rừng cho khỏi hư nên đành
nhường hết cho ruồi nhặng và chó sói. Nhật kư được viết trên những trang
giấy trống của sách mà cậu mang theo đọc, những lời khắc đẻo trên gổ,
những h́nh ảnh tự chụp đă cho thấy tâm trạng và đời sống của cậu nơi đó.
Phải đợi đến khi đói khổ bệnh hoạn cô quạnh cậu mới hiểu rằng “
Happiness only real when shared” ( hạnh phúc chỉ có thật khi
được san sẻ ). Chỉ ở giây phút ấy cậu mới thấm hiểu được giá trị của
gia đ́nh, xả hội.
Có lẻ trong tấm thân bệ rạc, nơi
rừng hoang âm u, thờ ơ đến tàn nhẫn, cậu đă nhớ đến gia đ́nh, đến người mẹ
hiền. Có lẻ trong hôn mê, cậu đă gọi mẹ? Vào tháng bảy 1992, hai năm sau
khi Chris rời Atlanta, ba tháng sau khi cậu sống thiếu thốn trong rừng,
một đêm bà giật ḿnh thức giấc giữa khuya, đánh thức ba cậu. “ Tôi chắc
chắn tôi nghe Chris gọi tôi.” Bà nhấn mạnh, nước mắt đầm đ́a. “Tôi không
biết làm cách nào để quên được chuyện này. Tôi không mơ, Tôi không tưỡng
tượng. Tôi nghe tiếng nó nói mà.! Nó van xin : mẹ ơí hảy cứu con! Nhưng
tôi không thể giúp con tôi v́ tôi không biết nó đang ở đâu. Đó là tất cả
những ǵ nó đă nói: Mẹ ơi hảy cứu con!”.
Cuốn sách viết về Chris McCandless “
Into The Wild” của Jon Krakauer ra đời năm 1996 đă nổi tiếng nhưng phải
đợi đến 10 năm sau, để chắc chắn có sự đồng ư từ gia đ́nh McCandless, cuốn
phim cùng tên mới ra đời năm 2007, do Sean Penn, chồng củ của cô Madonna
đạo diển, tài tử Emile Hirsch thủ diển, và hoàn toàn được quay tại chổ cậu
đă sống qua. Trong phần mở đầu cuốn phim, có một điểm đặc biệt là nhân vật
Jim Gallien, người Alaska đă cho Chris quá giang xe tới địa điểm cuối cùng,
đă cho đôi giày đi tuyết bằng cao su trước khi cậu mất biệt trong rừng sâu,
lại chính là Jim Gallien thứ thiệt ngoài đời.
Câu cuối cùng cậu viết để lại: I
have had a happy life and thank the Lord. Goodbye and may God bless all” (
Tôi có một cuộc đời hạnh phúc, cám ơn Thượng đế. Xin chào và cầu xin
Thượng đế ban phước lành cho tất cả”).
Trong xă hội cũng có một số người
như McCandless, chỉ cảm thấy hạnh phúc khi họ chiến thắng được một thử
thách nào đó mà những người khác không làm được. Những nhà thám hiểm, dấn
thân vào vùng hoang dă, hiểm độc hay leo lên những đỉnh núi cao nhất đầy
nguy cơ và bảo táp. Biết bao người đă chết cứng thành băng trên những điểm
cao độ của núi và thân xác vĩnh viễn lấp vùi trong bảo tuyết cô đơn, để
lại cho thân nhân một nổi buồn đau đớn.
Cuộc đời nhiều mâu thuẩn. Là con nhà
giàu địa vị, khôi ngô,thông minh, học giỏi, tài cao, có thể nói đó là một
con người được sinh ra hoàn hảo nhất, có tất cả những ǵ mà thanh niên mới
lớn đều ao ước để hạnh phúc và vươn lên trong xả hội. Vậy mà Chris đă t́m
cách xóa bỏ, khinh miệt nó, để trở thành một người đi lang thang, t́m hạnh
phúc trong những bấp bênh, mạo hiễm, không kể ǵ đến thân xác có bị dập
vùi, thương tổn như mấy lần leo xe lửa chở hàng đi “ ké” bị bắt gặp, bị
đánh, bị chĩa súng vào mặt. Đầu năm 1991, sau khi mạo hiễm lén qua biên
giới Mexico rồi trở về lại Mỹ bằng thuyền nhỏ rất nguy hiễm, cái chết
trong gang tấc, cậu cảm thấy vô cùng phấn chấn với sự thành công của ḿnh
dù hốc hác và mất hết 25 pounds. Đối với cậu “How important it is in life
not necessarily to be strong but to feel strong”. (Cái quan trọng trong
cuộc đời không nhất thiết là mạnh mà là cảm thấy mạnh ).
Chris McCandless, ngay khi c̣n ở
trung học đă cho thấy tính vốn cẩn thận, biết suy nghĩ, tính toán, nhưng
v́ bướng bỉnh, quá lư tưởng, quá tự tin nên đă có những quyết định mà cậu
phải trả một giá quá đắt bằng mạng sống của ḿnh. Khao khát xa vời, nhiều
mộng tưởng và chịu ảnh hưởng môt số sách đọc, cậu đă bỏ quên hiện tại để
đi t́m kiếm những hạnh phúc trong khó khăn, ngăn trở. Tuy nhiên, xét cho
cùng, đó là quyền chọn lựa của cậu, người làm chủ vận mệnh của ḿnh.
Mười tháng sau khi nhận được tin
Chris McCandless đă chết, cha mẹ cậu quyết định đi thăm nơi cậu đă nằm
xuống vĩnh viễn. Một bản tưởng niệm với ṿng hoa được dựng ngay phía trong
cửa xe. Mẹ cậu ngồi xuống chổ cậu đă nằm, ngắm những vật dụng thân yêu mà
con ḿnh đă đụng tới. Ở đầu xe bus, bà đă nhặt chiếc quần jean vá rách
rưới áp lên mặt “ Nó vẫn có mùi như Chris”, bà đau đớn mĩm cười. “Chris
chắc phải rất can đăm và rất mạnh mẽ trong tinh thần tới phút cuối, chứ
không tự giết ḿnh”.
Trước khi rời, bà không quên để lại
dưới gầm giường một va li chứa đầy những thuốc men, dụng cụ cứu cấp, những
lon đồ hộp, nhiều thực phẩm khác để sinh tồn, một mănh giấy có viết lời
kêu gọi những ai t́nh cờ đến đây và đọc được nó th́ “ Hăy gọi cho cha mẹ
bạn càng sớm càng tốt”. Chiếc vali cũng giữ luôn quyển Thánh kinh của
Chris hồi c̣n nhỏ. Dù rằng, bà thố lộ “Tôi đă không cầu nguyện nữa từ khi
chúng tôi mất Chris”.
Tội nghiệp cho những người làm cha
mẹ. Sinh con đâu có sinh ḷng. Khó mà có được sự hoàn toàn, được cái này
th́ mất cái khác. Hăy nh́n lại cậu Chris McCandless th́ hiểu. Có ai ngờ
những ư nghĩ điên rồ trong đầu cậu. Tuổi trẻ thông minh, sáng tạo, nhiệt
huyết nhưng cũng đầy chướng khí, bướng bỉnh, bốc đồng, thích làm những cái
khác lạ hơn người. Khi không đạt được th́ dễ chán chường, nông nổi, tự hại
đời ḿnh, làm khổ cha mẹ.
“ Nước mắt bao giờ cũng chảy xuống”.
Xét cho cùng, mỗi chúng ta đều phải trải qua những chặng quan trọng của
một đời người: trẻ, trung niên, già,chết. Ta có điều không hài ḷng với
con cái th́ cũng giống như ngày xưa, cha mẹ ta đă từng như vậy, chỉ khác
nhau ở chổ: mỗi thời đại có một vấn đề, và thế giới càng văn minh chừng
nào th́ vấn để càng phức tạp chừng ấy. Ngày nay, cha mẹ nhiều khi không
bắt kịp những ngỏ ngách trong tâm hồn con trẻ, không hiểu được nó muốn ǵ
rồi sinh ra thiếu cảm thông và xa cách.
Hăy thương yêu, khuyên nhủ, nâng đỡ
con cái. Hăy ráng kiên nhẩn chịu đựng những tính khí khó thương, cứng đầu
của nó. Nếu không, con chim nhỏ thèm khát tự do sẽ tung cánh bay đi không
bao giờ ngoănh lại. Mỗi đứa trẻ sinh ra đều có một Nghiệp riêng. Hạnh phúc
hay không là do nó định đoạt, qua Nhân Duyên Nghiệp báo, qua thái độ sống.
Ḿnh làm hết sức mà không được th́ thôi. Hăy để đời dạy nó.
Càng về già, qua cuộc đời kinh nghiệm
thăng trầm, con người bớt liều lĩnh hơn, biết lượng sức ḿnh, biết đắn đo
suy nghĩ, ít cao vọng nên dễ t́m thấy hạnh phúc trong những cái b́nh
thường quanh ḿnh. Người trẻ tuổi, mới mẻ trong cuộc sống, thường cao vọng
hơn, ḷng ham muốn c̣n nặng, nên đôi khi khó t́m hạnh phúc trong những cái
hiện có, hay nói đúng hơn họ là những con người măi măi đi t́m hạnh phúc.
Minnesota,
12/08
Sách đọc:
---viết dựa theo sách “ Into The Wild” của Jon Krakauer và phim cùng tên.
---[1]Theo sự khảo nghiệm sau này của các nhà chuyên môn, có thể cậu đă vô
t́nh ăn nhằm hột có chất độc của khoai rừng H. alpinum.Rể cây này ăn được
nhưng hột có chút ít chất độc gián tiếp ngăn trở sự biến dưởng những thức
ăn khác thành năng lượng. Nếu có nhiều chất này trong người, dù bạn có ăn
thật nhiều đồ ăn,bạn vẫn có thể bị chết đói. Đối với t́nh trạng Alex, cơ
thể kiệt quệ v́ thiếu dinh dưởng, thiếu ăn th́ dù chỉ ăn nhằm một ít chất
độc cũng đủ gây nên hậu quả trầm trọng trong khi với người b́nh thường cơ
thể mạnh mẻ, chất độc sẽ được đào thải ra khỏi cơ thể dễ dàng qua nước
tiểu.

Tâm
Đoan
