Những
ngày tháng chạp hàng năm là chúng ta được thấy ngoài Bolsa, các quày sách
trưng bày báo xuân đủ loại. Mỗi tờ báo hàng ngày hay hàng tuần, phát hành
bằng tiếng Việt, đến cuối năm là tập trung sức vào một tờ Xuân để làm dáng
và cũng để quảng cáo cho thương vụ văn hóa mà họ đang phụ trách! Năm nay
hình dáng con trâu được đưa lên làm đề tài biểu hiện một “nhiệm kỳ” Trâu
trong vòng một năm trời! Với hình dáng nặng nề, sừng gạt dềnh dàng nhưng
hiền lành và chịu đựng của các bạn Trâu bò, năm nay hứa hẹn một năm “cày”
mệt nghỉ và cũng “chậm chạp” như chàng Trâu với dáng nhàn hạ nằm nhai lại…!
Năm
2009, nếu tính qua năm âm lịch, là năm con trâu - Kỷ Sửu! Trong mười hai
con giáp, con trâu được người Á Đông nói chung, Việt Nam ta nói riêng, vô
cùng quí mến. Trâu là con vật không thể không có trong bất cứ gia đình nào
sống về nghề nông từ cổ đại đến bây giờ. Nói rộng ra, họ nhà nhai lại –
Trâu, bò - đều là những gia súc quí giá của nhà nông! Hình ảnh con trâu và
cái cày gợi ta nhớ thời vàng son “trên đồng cạn dưới đồng sâu”; bóng dáng
chiếc xe trâu xe bò hay dùng sức mạnh của chúng vào những việc mà con
người yếu đưối không đảm trách được là một quá trình tiến hóa lâu đời. Quả
thật kể từ khai thiên lập địa, con người đã biết lợi dụng trí thông minh
của mình để huấn luyện và điều khiển loài vật, dùng chúng như là phương
tiện cải thiện cuộc sống cho loài nguời.
Bóng
dáng anh chàng Trâu trong văn học dân gian Việt cũng đậm nét, tiêu biểu
cho sự nghiệp nhà nông và các dân tộc chưộng nghề Nông như Việt Nam ta! Ở
nộng thôn Việt, nguời ta lấy hình ảnh con trâu cỏng chú mục đồng trên lưng
với tiếng sáo diều trên cánh đồng lúa vàng bao la…là hạnh phúc, là sung
túc, là thanh bình…! Ca dao tục ngữ Việt cũng bàng bạc đâu đó hình ảnh
thân thương với cái dáng nặng nề của người bạn trung thành lúc nào cũng có
mặt với con người:
Trâu ơi ta bảo trâu nầy
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta
Cái cày vốn nghiệp nông gia
Trâu đây ta đấy ai mà quản công
Bao giờ ngọn lúa còn bông
Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn
Đôi
khi người còn tôn bạn trâu lên hàng quan trọng trong sự nghiệp của mình:
“Sai con toán bán con trâu” là một câu nhắc nhở người nông dân mỗi khi
tính toán không đúng thì việc bán trâu là tai họa kinh khủng. Mà nghĩ cho
cùng, cả mấy anh chàng làm nghề buôn bán hay các nghề khác đều phải thuộc
lòng câu trên. Trâu là sự nghiệp nhà nông:
Tậu trâu, lấy vợ, làm nhà
Trong ba việc đó lựa là khó thay!
Đây
là ba công việc chính của kẻ nào muốn giàu có qua nghề nông. Người ta đưa
việc có con trâu trong nhà cũng bằng với việc có vợ hay có được cái nhà để
ở. Mấy câu sau đây nói lên được sức trâu cần thiết cho nông gia thời chưa
có máy cày bừa : “làm ruộng mạnh có trâu- làm dâu mạnh có chồng” Nhưng tại
sao lại “muốn làm giàu thì nên nuôi trâu cái”? Vì chị trâu cái sẽ đẻ ra
trâu con, trâu cháu…Trong một thời gian rất ngắn. Trâu cái mới tám tháng
tuổi là động đực, sau khi sanh, chỉ ba tháng sau là lại có bầu. Vốn liếng
sẽ tăng lên trong quá trình chăm sóc ruộng đồng và đàn trâu sinh nở!...
Hình
ảnh chú trâu trong dân gian rất đậm nét và lúc nào cũng gần gũi với cuộc
sống nông thôn. Trong “Lục Súc Tranh Công” người ta đã làm nổi bật tính
nhẫn nại, cần cù của trâu:
Lóng canh gà vừa mới gáy tan
Chủ đã gọi thằng chăn vội vả
Dạy rằng đuổi trâu ra thảo dã
Cho nó ăn ba miếng đỡ lòng
Chưa bao lâu thoát đã rạng đông
Vừa đến buổi cày bừa bua việc
Trước cổ đã mang hai cái niệt
Sau đuôi thêm kéo một cái cày
Miệng đã dàm, mũi lại dòng dây
Trên lưng ruồi bu dưới chân đỉa cắn
Trâu mệt đà thở dài thở vắn
Người còn hầm hét, mắng ngược mắng xuôi….
Qua
những vần thơ nầy, chúng ta thấy kiếp trâu phục vụ con người với mọi tình
huống từ trong gian khổ đến khi chủ của nó giàu có…thì nó vẫn là kiếp trâu,
ăn cỏ khô uống nước đục ao tù; quanh năm nằm lăn dưới bùn thở phì nhẫn nại.
Thế cho nên mới có câu “Mài sừng cho lắm cũng là trâu”.

Sách
vở nói về Trâu đầy cả, hơn nữa, năm Kỷ Sửu nầy mấy ông nhà văn nhà báo
sáng tác, sưu tầm, kết hợp không biết bao nhiêu là truyện, văn, thơ, hài,
ca dao tục ngữ nói về anh chàng Trâu, bạn của con người. Thôi thì để góp
vào cái việc làm giàu cho kho văn học Việt, tôi xin kể một câu chuyện liên
quan đến anh bạn Trâu của chúng ta, khi tôi còn ngồi tù miền Bắc Xã Hội
Chủ Nghĩa. Đó là năm một nghìn chín trăm bảy mươi tám, mùa đông miền Bắc
Việt Nam lạnh xé da. Đối với bọn tù chúng tôi, ăn mặc không được đầy đủ
nên lúc nào cũng nghe trong xương sống mình từng luồng khí lạnh làm thân
thể cứ như rung lên, co rúm. Điếu thuốc lào đối với thời gian nầy thật là
quí giá vì nó có thể cứu chúng tôi ra khỏi cái cảm giác lạnh lùng rét buốt.
Trong
trại tù có ba con trâu già, không biết chúng hiện diện nơi đây từ lúc nào.
Khi chúng tôi “tiếp thu” từ những tù hình sự thì ba con trâu cũng đã già
và gầy mòn như những thân hình tù! Đúng là trâu của tù, có nghĩa là tù của
tù. Ba con Trâu có ba cái tên thật độc đáo. Không biết ai đã đặt tên cho
chúng. Đó là con Kennedy, con Nixon và con Johnson. Ba con trâu này được
chúng tôi xử dụng trong việc cày bừa các ruộng trồng rau cho trại tù. Việc
điều khiển chúng cũng chẳng khó khăn lắm vì chỉ khác nhau những khẩu lệnh.
Thay vì trong Nam mình bảo trâu qua phải hay quẹo trái thì hét lên : “Thá
hay dí” đứng lại thì hô “họ”. Miền Bắc quẹo trái hay phải thì hô “vắt, dật…”.
Con Kennedy hay trở chứng khi nó đói. Mà đã gọi là tù của tù thì làm gì no
được! Buổi sáng chúng tôi đến chuồng xỏ dây vào dàm trâu, dắt nó ra, máng
cái cày vào, bắt đầu quất roi bắt nó cày. Đến kẻng nghỉ trưa cột nó lại
một chỗ rồi sắp hàng theo đội về trại. Chiều ra lại bắt nó cày tiếp. Hết
giờ, tù cũng “tranh thủ” chạy đi tắm ngoài suối…Chung cuộc con Kennedy chỉ
đói và đói. Nó được trả về chuồng đầy phân lội đến mắt cá chân. Hai con
Nixon va Johnson cũng cùng số phận.
Có
thể trong thời gian chiến tranh, Hoa Kỳ thả bom Bắc Việt, mấy anh chàng
học đòi căm thù tận xương tủy giặc Mỹ xâm lược nên đặt tên ba vị Tổng
Thống nước Cờ Hoa cho ba con trâu để đánh đập chửi mắng… Nhưng chúng đâu
có biết gì. Số kiếp tù của tù kéo dài đến tháng mười hai giá rét năm một
nghìn chín trăm bảy mươi tám. Vừa đói triền miên vừa bị cơn rét kéo dài,
con Johnson không chịu nổi đành phải qui tiên. Còn lại Nixon và Kennedy
buồn xo đứng trong chuồng đầy phân giá rét ngó bạn mình nằm xuống!
Cái
tin con Johnson chết được loan truyền rất nhanh trong trại. Không một anh
tù nào mà không “hồ hởi phấn khởi” vì biết chắc rằng thịt Johnson sẽ được
chia mỗi người ít lắm là một cục bằng ngón tay và một ít nước dùng. “Lâu
quá mới được chất” đây là câu nói của thằng Bính, nó vừa rít thuốc lào vừa
tuyên bố. “Prô-tê-in đấy quí vị ạ! Bố khỉ,” Con Johnson đáng thương được
xẻ thịt và chặt ra hầm trên chảo. Buổi chiều chúng tôi đi lao động về được
chia mổi đứa đúng một cục thịt to bằng ngón chân cái và nửa chén nước dùng.
Có lẽ con trâu tù của tù nầy đã “phấn đấu” bao nhiêu năm nay để “phục vụ”
cho tù, khi chết, nó vẫn có công làm thực phẩm bổ dưỡng cho tù; thịt của
nó dai không chê vào đâu được. Sau khi chia phần thức ăn theo kiểu bốc
thăm quay số, tôi ngồi ăn chung với anh Lộc Thầy Bói. Cục thịt trâu tương
đối to hơn cuống họng của tôi một chút. Thịt dai quá nhai hoài không còn
gì, nuốt hết nước bổ trong cục thịt, nhưng không thể nào xé nhỏ ra hay
nuốt trôi. Tôi cằn nhằn nhã ra phân bua:” thịt gì mà dai quá không nuốt
được đành bỏ thôi, tiếc quá!” Vừa nói tôi vừa bỏ miếng thịt trong miệng ra
thì anh Lộc chụp lại. Một cử chỉ thật nhanh, anh cho ngay vào miệng nhai.
Nhưng cũng như tôi, anh ráng nuốt mà vẫn không tài nào nuốt trôi. Cuối
cùng anh cũng cố gắng cho nó yên bề xuống dạ dày mà mắt trợn ngược. Tôi
tưởng anh bị nghẹt thở, nhưng rồi cũng qua !... Ôi một kỷ niệm về trâu lắm
ưu phiền! Anh Lộc Thầy Bói nay đã ra người thiên cổ sau khi dẫn vợ con qua
xứ Hoa Kỳ. Xin tưởng niệm đến anh về một giai đoạn chúng mình đói khát có
nhau!
Năm
Kỷ Sửu lại về, đã qua cơn bỉ cực; khi ra khỏi trại tù, có ai biết mình
được diễm phúc trời ban; là gia đình được định cư trên đất nước tự do Hoa
Kỳ nầy! Hồi còn ở Việt Nam, con cái không có cơ hội tiến thân, gia đình
túng bấn, không có việc làm, bị trù dập. Hình ảnh con trâu cũng có thể là
hình ảnh những tù nhân chính trị trong các trại tập trung sau 1975.
Vì
thế, tôi ra câu đối nhân dịp năm trâu về, gởi đi trên internet và được bà
con hưởng ứng đối lại xem cũng vui. Sau đây là câu đối tết:
Vế
xuất: “ Nằm nhai cỏ, mài sừng dũa móng, nhớ những ngày đồng cạn đồng
sâu!” Ý câu nầy là anh chàng trâu về già nằm nhớ lại công việc cày bừa
đồng cạn đồng sâu thuở trước. Nhưng cũng là ý nói đến người lính VNCH một
thời vào sanh ra tử, hy sinh mạng sống bảo vệ tổ quốc…Nhưng cơ trời không
theo lòng người nên bây giờ nằm gặm nhấm đau thương; cũng có lúc mài sừng
dũa móng, thề có ngày giải phóng quê hương. Nhưng lực bất tòng tâm đành
phải nuốt hận nằm gặm nhấm, nhớ những ngày xưa thân ái!
Có mấy câu đối gởi từ các email: Xin cảm ơn các quí vị đã hưởng ứng câu
đối Tết Kỷ Sửu:
Vế đối 1 : “Sục tìm mồi, giỏng mắt giương tai, thương bao lúc hủ chìm
hủ nổi (Vntvnd)
Vế đối 2 : “Đứng kéo cày, chống gối chùng vai, trông từng bữa cỏ tươi
cỏ héo ( Nắng Xuân)
Vế đối 3 : “Chạy kiếm cơm, nát gót bong gân, thèm bao bữa chén ngon
chén ngọt (LTĐQB)
Mùa xuân đã về, nắng xuân chan hòa và tiếng hát vui mừng xuân mới. Tuy
người ta vẫn lo lắng cho nền kinh tế toàn cầu đi vào suy thoái, nhưng nghĩ
cho cùng dầu có sống thiếu thốn, nhưng được tự do là thoả mãn lắm rồi.
Để kết luận, tôi xin mượn mấy câu thơ của các bạn gìa gởi đến:
Xuân bất tái lai:
Đất đã nẫy trăm phường đạo tặc
Trời lại hành một trận thiên tai
Chuột dẫu rút, lưu manh còn đó
Trâu đang về vẫn… ách trên vai
Than rằng: Xuân bất tái lai
Một bài thơ đối lại cũng độc đáo:
Xuân tất đáo lai
Dù có bần cùng sinh đạo tặc
Vẫn mong sớm thoát cảnh dân tai
Chuột lùi chắc sẽ sa vô bẩy
Trâu tới hẳn không… ách máng vai
Mừng rằng: Xuân Tất đáo lai
Bonus
Xuân tiêu bất tận lẽ nào sai!
Tác giả LTĐQB

letamanh
Xuân 2009 -Kỷ Sửu

Trang XUÂN 2009- Văn Học Nghệ Thuật
Và Quê Hương