Phú
Thọ, một làng quê trong vùng Ḥn Khói, nơi tôi sinh ra và lớn lên. Trên
con đường từ Ninh Ḥa - Ḥn Khói, Phú Thọ nằm tại ngả hai đường ra Xóm Rớ
(bên tay trái) dẫn đến các thôn Thạnh Danh, B́nh Tây, Đông Hà và đường ra
Xóm Biển (phía tay phải) đi đến các thôn Bá Hà, Ngân Hà, Thủy Đầm. Từ
thành phố Nha Trang ra đến Ninh Ḥa, cũng cùng con đường trên t́m đến Dốc
Lết, một trung tâm du lịch của tỉnh Khánh Ḥa, du khách đi ngang qua Phú
Thọ.
Đa
số dân trong thôn làng tôi làm ruộng muối vào mùa nắng ráo. Đến mùa mưa,
một số người dân làm ruộng lúa. Đất đai kém màu mỡ, cằn cỗi. Những năm
thời tiết không thuận lợi, mùa màng thường bị thất thu. Gặp những năm hạn
hán, mất mùa, đói kém. Gần vùng nước mặn và kế cận gần vùng núi đồi nên
đất đai phải chịu cảnh “ …, đất cày lên sỏi đá “, lại c̣n thêm “nước
mặn, đồng chua…” Gần vùng biển, Phú Thọ, cũng cùng chung số phận với
dân miền Trung, c̣n phải hứng chịu thiên tai băo lụt hằng năm. Ruộng lúa ở
đây làm theo mùa mưa, v́ không có mương đập “dẫn thủy nhập điền”. Đa số
dân làng thuộc thành phần lao động, làm thuê, buôn gánh bán bưng. Một bài
hát rất quen thuộc đă nói lên cái nghèo khó của người dân miền Trung “
Quê em nghèo lắm anh ơi, …… Mùa đông thiếu áo, …. hè thời thiếu ăn,….
Thời Pháp thuộc, các đồng ruộng muối tại Ḥn Khói do Sở Thương Chánh của
Pháp quản lư. Đến khi quân đội Pháp trở lại Việt Nam lần thứ hai, ruộng
muối vẫn trở lại dưới quyền kiểm soát của Pháp.
Lúc
bắt đầu đi học, tôi mới biết bao quanh phía bên ngoài thôn làng có con
sông đào nước mặn. Lúc bấy giờ, ghe chở muối từ các đồng ruộng muối ra kho
chứa muối tại Xóm Rớ trên con sông đào này. Tôi c̣n nhớ, mỗi buổi trưa đi
học, những ngày nắng ráo, tôi thường đi học sớm để ra cầu Bá Hà, cùng
nhiều học sinh khác trong thôn làng tắm sông và bơi lội. Chiếc cầu gỗ này
bắt qua sông nối liền trên đường từ Phú Thọ ra xóm Biển. Từ dạo ấy, tôi
cũng đă thấy hai bên đường dẫn vào làng, có hai hàng cây bàng cao to tỏa
cành lá rậm rạp. Một cái chợ khiêm nhường, nơi đây là tụ điểm bán buôn của
dân làng, nằm giữa ngả hai đường rẻ. Thường chợ đông vào buổi sáng. Hai
bên góc chợ có hai cây bàng cao tỏa cành lá che bóng mát một phần khu chợ.
Bên phía trong, qua khỏi chợ, là một ngôi nhà khá rộng, xây gạch lợp ngói,
dùng nơi hội họp của dân làng, và cũng là trụ sở của ban hương quản.
Những
buổi trưa hè, được nghỉ học, các trẻ con trong làng thường tụ năm tụ ba
dưới những gốc cây bàng dày lá xanh rợp bóng mát. Một số, chia hai phe,
đánh bi, đá đáo. Một số khác t́m mọi cách hái những trái bàng chín trên
cây. Vài chú bé đua nhau t́m lượm những trái bàng chín rụng hoặc dơi ăn
rơi xuống đất.. Những trái bàng vàng óng được sắp ra trên lớp lá bàng xanh
trải trên mặt đất. Rồi lũ trẻ cùng nhau dự tiệc. Trên cành cây kẻ lá, chim
chóc từ đâu cũng tụ về reo vui ríu rít.
Hai
hàng phượng vĩ, độ hè về, trỗ bông đỏ rực rỡ hai bên con đường dẫn đến
đ́nh làng. Tiếng ve sầu cũng ngân vang vang đó đây, dậy lên không khí của
những ngày nắng hạ. Những cánh hoa phượng rơi trên mặt đường trải một thảm
hồng dày màu xác pháo. Bọn trẻ chúng tôi cùng nhau đùa nghịch, dùng hai
chân cày lên tấm thảm hồng ấy làm tung tóe các cánh hoa phượng tứ tung.
Trong những ngày nắng ráo, các chú học sinh chúng tôi thường lui tới những
gốc cây sầu đông cao to bên vệ đường, gở nhựa sầu đông làm keo dán trong
giờ học thủ công tại lớp. Biết bao kỷ niệm của tuổi học tṛ đă gắn bó với
những cảnh vật đổi thay cùng thời gian trong thôn xóm.
Rồi
những tàn cây bàng xanh lá chuyển sang màu vàng báo hiệu cho mùa thu đến.
Lá vàng bắt đầu rơi mỗi cơn gió thoảng. Lá càng rụng nhiều. Những cành cây
bàng trơ lá, khẳng khiu, đón chờ những ngày mưa gió của mùa đông rét mướt.
Bên vệ đường, những cây sầu đông cũng đua nhau đổ lá. Nhựa cây sầu đông
chảy dài xuống gốc cây mà chẳng có một chú học sinh nào ḍm ngó. Các gốc
cây bàng cũng chịu cảnh cô liêu hiu quạnh. Không một cánh chim lai văng.
Vào
bên trong làng, hầu hết các nhà đều có vườn cau. Những cây cau cao vút
thẳng tắp uốn ḿnh nghiêng theo chiều gíó, mỗi khi có cơn gíó nhẹ thổi
qua.. Dưới mỗi gốc cau, dây trầu ôm thân cau, khiêm nhượng, ngóc ngọn ḅ
vươn lên. Bên cạnh mỗi nhà, có một vườn rau xanh mướt. Rau đủ loại. Đến
mùa, cải lên hoa, cà trỗ nụ. Ong bướm khoe sắc chập chờn, bay lượn. Điểm
đặc biệt là xung quanh làng có con sông đào nước mặn, nhưng trong làng hầu
hết nhà nào cũng có giếng nước trong veo trông nh́n thấy đáy giếng. Nước
dùng để ăn uống, tắm rửa, tưới vườn rau và cây cối xung quanh nhà.
Từ
đầu trên thôn làng, mọi người đă nh́n thấy cây đa cao ở góc đ́nh xóm dưới.
Gốc cây đa to đến hai người ôm không xuể. Nhiều rễ phụ mọc chằng chịt từ
trên xuống quanh gốc cây trông rất vững vàng, thiết nghĩ không một cơn
cuồng phong nào có thể làm lay chuyển nổi. Không biết cây đa đă có từ bao
lâu rồi mà cành cây vươn lên cao, tỏa rộng, bao phủ cả mái đ́nh làng. Bên
cạnh ngôi đ́nh, tàn cây đa trải lá rợp bóng mát một khoảng đất rộng mênh
mông.
Theo
tục lệ, hằng năm có những ngày cúng tế ở đ́nh làng, một lễ hội lớn của
thôn làng. Toàn bộ sân đ́nh làng được che rạp bằng những tấm trần đan bằng
lá. Rạp che nắng để làm sân khấu cho bầu hát bộ và cũng là hội trường tạm
thời để mọi người dân trong làng tụ tập, ăn uống trong những ngày lễ hội.
Rạp cũng là nơi mọi người ngồi xem hát. Trong ngày tế lễ, các vị thân hào
nhân sĩ, toàn thể dân chúng tề tựu về đ́nh làng dự lễ. Sau lễ cúng, mọi
người trong thôn xóm luân phiên dự tiệc, ăn uống linh đ́nh. Trẻ con trong
làng cũng có dịp reo vui trong mấy ngày lễ hội. Sau ngày cúng tế, những
ngày tiếp theo, có đám hát bộ tŕnh diễn trong mấy ngày liền. Lễ hội kéo
dài khoảng hơn tuần lễ.
Trong
những ngày lễ hội, nhiều xe bán hàng ăn uống đủ loại, sắp thành hàng, chia
từng lô, ngăn nắp dưới bóng mát cây đa. Những tṛ chơi cũng được bày ra
dưới tàn cây mát. Vài hàng “bầu, cua, cá, cọp” thu hút được nhiều khách
hàng mọi lứa tuổi. Nam thanh nữ tú cũng có dịp gặp gỡ nhau sau những tháng
ngày làm lụng vất vả. Họ tụ năm tụ ba, chuyện tṛ rất vui nhộn. Các cô gái
mới lớn, e thẹn, bẽn lẽn, nấp theo sau các bà mẹ, cũng đến dự lễ hội. Ban
đêm người tụ họp càng đông hơn. Các tṛ chơi được bày ra ngoài trời. Thuở
ấy, các xe bán hàng dùng đèn “măng sông” đốt bằng dầu hỏa. Quang cảnh
trong sân đ́nh, quanh đ́nh làng thật vô cùng náo nhiệt của những ngày lễ
hội.
Khi
quân đội Pháp trở lại Việt Nam lần thứ hai, những đoàn quân xâm lược phải
lội bộ theo đuờng từ Ninh Ḥa xuống Ḥn Khói. Lúc bấy giờ, lính du kích
Việt Minh đắp mô, đào đường lộ, đặt nhiều chướng ngại vật trên mặt đường
nên xe cộ không thể lưu thông trên đường được. Tiếp theo, quân Pháp đóng
đồn ở Sở Thương Chánh tại Đông Hà (xóm Rớ). Sau đó, quân Pháp chiếm một
ṭa nhà lớn trên một khoảnh đất khá rộng, nằm tại trung tâm thôn làng, bên
cạnh chợ. Đây là ngôi nhà của ông Bảy Dương, một diêm điền chủ trong làng.
Lúc bấy giờ, bác Bảy Dương tham gia kháng chiến chống Pháp. Quân Pháp xây
thành đắp lũy, biến ngôi nhà sang trọng thành một đồn đóng quân, tại làng
Phú Thọ. Đồn Pháp chiếm toàn khu vực khu chợ và nhà nhóm họp của dân làng.
Từng hàng hàng lớp lớp dây kẽm gai giăng chằng chịt, trải rộng làm chướng
ngại vật, trên một vùng đất mênh mông, quanh đồn lũy. Một số nhà gần khu
chợ cũng phải dời đi nơi khác để tránh làn tên mũi đạn. Dân làng phải t́m
một khoảng đất trống chật hẹp gần phía trên, tạm thời làm nơi nhóm chợ.
Hai
hàng cây bàng rợp bóng hai bên đường dẫn đến chợ và những cây bàng tỏa lá
xanh tươi che mát khu chợ đều hạ xuống “khai quang” cho đồn bót vừa mới
dựng lên. Những vườn cau, những hàng dương liễu hai bên đường, trong thôn
xóm, đều đốn xuống. Các cây cổ thụ trong làng đều bị tàn phá. Một số mang
về đồn xây dựng đồn lũy; một số cây bị hạ xuống “khai quang” để “địch quân”
khó bề len lỏi tấn công đồn bót. Cây đa đầu đ́nh, hai hàng phượng vĩ cũng
cùng chung số phận “khai quang”. Miếu thờ trong làng cũng bị đập phá lấy
vật liệu xây cất các tháp canh trong đồn bót. Chỉ c̣n lại ngôi đ́nh làng
nằm trơ, khép ḿnh đơn độc một bên khoảng đất mênh mông cô quạnh dưới nắng
trong những ngày hè oi ả.
Những
di tích xưa cổ trong làng hầu như không c̣n nữa. Rồi chiến tranh kéo dài.
Quân Pháp lùng bắt nam thanh niên bổ sung vào quân đội của họ. Mặt khác,
họ lục soát khủng bố dân trong làng và các làng lân cận.. Một số người, đa
số là những người khá giả, bị bắt hoặc mất tích. Mọi người t́m nơi thoát
nạn, kẻ móc nối với Việt Minh chạy vào bưng biền, người thoát hiểm lên
thành phố. Chiếc cầu Bá Hà bắt qua sông đào nước mặn trên đường từ Phú Thọ
- Bá Hà, nơi đây, lúc c̣n học trường làng, bọn nhóc học sinh chúng tôi
thường tắm sông bơi lội mỗi buổi trưa trước giờ đi đến trường. Cũng tại
trên chiếc cầu này, quân Pháp đă lùa bắt một số dân trong các làng lân cận
tập họp tại đây. Rồi một tên lính vô ư làm nổ súng. Hoảng hốt, mọi người
trong đám bung ra chạy.
Thế là những loạt súng xả vào đám người. Một số người chết rơi
xuống sông, máu nhuộm đỏ cả một đọan sông dài, xác người trôi lềnh bềnh
trên sông. Một số người khác bị thương. Quân Pháp mang số người bị thương
này đi đâu, không ai biết (?!).
Ruộng
đất ở các vùng xa, gần ven núi, đều bỏ hoang. Dân trong làng chỉ làm được
ruống muối vào mùa nắng ráo và một số ít đất đai gần quanh làng khi đến
thời vụ gieo trồng.. Ban ngày làm ăn lam lủ, đêm đêm, tất cả dân chúng c̣n
lại trong thôn làng đều phải tập trung ngủ quanh đồn của Pháp. Đời sống
dân quê thật là khốn đốn vô cùng. Người dân đă trải qua bao khổ cực do
nghèo, do thiên tai, do chiến tranh, nhưng với sức chịu đựng, ḷng kiên
nhẫn, sự cần cù, họ vẫn cố bám vào mảnh đất quê để lây lất sống.
Xưa
kia, Phú Thọ theo truyền thống với khuôn mẫu các làng thôn quê, cũng có
cây đa đầu làng, có đ́nh, có miếu, có hàng phượng vĩ nở rộ hoa dịp hè về,
có tế lễ hằng năm. Rồi mùa thu đến, những cây bàng xanh tươi, cùng những
cây sầu đông, lá vàng đỗ xuống, trơ cành để đón những ngày lạnh lẻo của
mùa đông. Những h́nh ảnh ấy vẫn luôn gợi lại trong tôi mỗi lần nhắc đến
thôn làng. Rồi chiến tranh kéo đi hết những di tích xưa cổ thân yêu ấy.
Măi
đến sau giữa thập niên 50, một ngôi Tam Bảo mới được xây dựng lên. Trước
đó, các phật tử trong thôn làng đi lễ các ngày lễ vía Phật tại các Khuôn
hội Bá Hà hay Thạnh Danh. Số phật tử trong thôn xóm ngày càng đông đ̣i hỏi
một nơi cúng dường tại địa phương. Các cụ cao niên cùng Cha tôi bàn đến
việc cần xây dựng một ngôi chùa tại thôn xóm.
Lúc
c̣n sinh thời, Cha thường với vài cụ cao niên trong làng và các ông bạn
thân t́nh như ông Măng cùng ông Hai (ông Hương Bộ Hai) ở xóm giữa chăm lo
Phật sự trong thôn xă. Cha và các cụ đă cùng nhau đi quyên góp tài chánh
từ những nhà hảo tâm để thực hiện một ngôi chùa tại thôn xóm. Các cụ nghe
tiếng Đức Từ Cung ở Huế là người rất tôn sùng đạo Phật. Các cụ đă không
quản xa xôi, cực nhọc, lặn lội ra đến tận miền sông Hương núi Ngự, cầu
mong ḷng hỉ xă của Đức Bà để được thêm khá tài chánh đem về xây ngôi Tam
Bảo tại làng. Ngôi chùa tại làng Phú Thọ được xây dựng với danh hiệu là
“Chùa Phật học - khuôn Long Thọ”, nơi tụ tập toàn thể phật tử để cúng
dường trong các ngày hội, ngày vía của các đức Phật. Mới đầu, một chánh
điện được hoàn thành. Những ngày lễ vía Phật đầu tiên khi chánh điện vừa
được xây xong, các phật tử tụ tập tṛ chuyện dưới mái tranh cạnh chánh
điện trước khi vào lễ. Dần dần vài năm sau, nhà đông, nhà tây mới được xây
dựng tiếp theo. Thật là “vạn sự khởi đầu nan”. Nhưng với thành tâm, mọi
khó khăn cũng vượt qua và những ước nguyện cũng được thành tựu viên măn.
Và
cũng sau khoảng thời gian này, 1954, hầu hết mọi nhà trong thôn xóm đua
nhau trồng dừa trên những vườn cau đă bị đốn phá. Vài ba năm sau, mỗi lần
về quê, từ đầu làng, tôi đă thấy màu xanh tươi mát của các vườn dừa trong
mọi gia đ́nh. Những hàng dừa hai bên đường rẽ vào làng vươn lên cao đầy
sức sống.
Thời
gian chạy Tây, t́m đường thoát nạn, tiếp theo sau những năm đi học xa, tôi
thường về quê trong những dịp Tết và những tháng hè. Những ngày hè không
c̣n mùa phượng vĩ nở rộ trên đường dẫn đến đ́nh làng. Tiếng ve sầu vẫn c̣n
vang lên trên các cành cây kẻ lá. Rồi thời gian sau, một thời gian khá dài,
những ngày tôi đi học ở Sài G̣n, ít thường về quê hơn. Chiến tranh kéo dài
ác liệt hơn cũng khiến cho những người đi xa quê ngại ngùng trở về thăm
quê cũ. Đến năm 1968, một ông bạn cùng khóa, bác sĩ Nguyễn Tấn Trung, biệt
danh là Trung “cà na”, về công tác tại Bệnh viện Quân Dân Y phối hợp tại
Ninh Ḥa. Ông bạn tôi mang biệt hiệu là Trung “cà na” v́ anh, mỗi khi gặp
bạn bè, thường phóng nhiều tin thật là “giật gân” nhưng có phần dí dơm.
Tuy nói nhiều nhưng không làm phiền ḷng một ai. Các bạn đều thích thú khi
gặp Trung. Về công tác tại Ninh Ḥa, ông bạn hiếu kỳ của tôi cũng muốn t́m
hiểu xóm làng của bạn đồng nghiệp ḿnh. Những ngày cuối tuần, sau những
ngày làm việc với người bệnh, ông bạn tôi thong dong về vùng biển Ḥn Khói
để biết qua về Phú Thọ của bạn ḿnh. Và đó cũng là dịp ông bạn tôi thưởng
thức một ít hương vị hải sản ở vùng lân cận.
Sau
đó có lần chúng tôi gặp lại nhau tại Sài G̣n. Ông bạn vỗ vai tôi: “Quê
mày giàu có lắm. Nhà cửa tại đó đều là nhà ngói cả….” Bẳng đi
một thời gian, có dịp tôi trở về quê. Đúng như lời ông bạn tôi
khen tặng quê làng. Trước kia, nhà cửa đa số dân làng, cứ vài ba năm
phải thay lợp lại tranh hoặc rạ. Nhà tranh vách đất là nơi tung hoành của
chuột bọ. Dơ bẩn triền miên, mái tranh lại dễ bị dột nát. Hầu hết những
mái tranh rách rưới cách đây gần một phần tư thế kỷ đă được thay thế bằng
các mái ngói c̣n màu đỏ tươi. Bộ mặt của thôn xóm có phần sáng sủa hơn.
Nhưng một mái ngói chưa đủ để nói lên được sự giàu sang như ông bạn tôi
tưởng. Đời sống của dân làng vẫn c̣n cơ cực lắm. Cuốc sống làm thuê, buôn
gánh bán bưng làm sao cho khá giả được. Tài nguyên tại địa phương đâu có
ǵ mà thay đổi được đời sống đa số người dân. Hoặc là tài nguyên tại chỗ
vốn có mà tŕnh độ con người chưa biết khai thác đúng mức chăng (?!).
Sau
khoảng giữa thập niên 50, một trường Tiểu học được hoàn thành. Tiếp theo,
học sinh trong thôn đă có thêm một trường Trung học cấp 2. Sau thập niên
70, một trường Trung học cấp 3 được xây dựng trên sân vân động giữa hai
thôn Phú Thọ và Thạnh Danh. Học sinh tại thôn xóm đă có trường học tại đia
phương mà không c̣n vất vả lặn lội vào Nha Trang hoặc đi đến các nơi xa
xôi để t́m đường học vấn. Giới trẻ trong thôn làng, vốn đă có truyền thống
hiếu học, cần cù chịu khó, đă cố gắng lập được nhiều thành tích khả quan
trong học tập. Mặc dù lam lũ trong công ăn việc làm hằng ngày, nhiều gia
đ́nh đă ư thức được sự quan trọng và cần thiết của việc học vấn.
Về
y tế, khi bệnh hoạn, dân trong làng đến trạm Y tế Xă nằm giữa hai thôn Phú
Thọ và Bá Hà. Trạm Y tế xă có bác sĩ chăm sóc sức khỏe cho người bệnh.
Những bệnh thông thường được điều trị tại địa phương. Những trường hợp
bệnh nặng, phức tạp hoặc các bệnh cần phẫu thuật phải đưa lên tuyến trên,
bệnh viện Ninh Ḥa hoặc bệnh viện Nha Trang để được điều trị..
Sau
1975, đất đai của dân làng ở những vùng xa và một số ngay trong làng đều
do nhà nước quản lư. Số đất đai này đều bỏ hoang từ dạo ấy. Công việc làm
ăn của dân chúng có phần hạn chế. Không biết đến một ngày nào, dân làng
tôi được thêm nhiều đất đai tự do khai khẩn để cho đời sống được đỡ khổ
hơn.
Trải
qua bao mùa chinh chiến, làng quê tôi bị tàn phá và mất mát đi nhiều thứ,
những h́nh ảnh thân yêu khó quên của thủa học tṛ. Dân làng tôi vẫn sống
chịu đựng, cố bám lấy mảnh đất quê và tuy vẫn c̣n “nghèo tiền, nghèo
bạc”, nhưng dân nghèo của làng tôi rất “giàu”……” giàu chí, giàu
ḷng, giàu sức cần lao”. Họ luôn luôn cố gắng vươn lên, làm việc, xây
dựng xóm làng, để mong cho cuộc sống được sung túc hơn.
Nhưng
c̣n đâu cây đa đầu làng, hàng phượng vĩ nở rộ hoa mỗi độ hè về, những cây
bàng xanh tươi rợp bóng,…. Tất cả những thứ ấy đều thuộc về dĩ văng.

Lê
Phú
Thọ
Trích từ Quê Xưa Đượm T́nh trong tập HỒI KƯ

Trang XUÂN 2009- Văn Học Nghệ Thuật
Và Quê Hương