Ông nội vui vẻ quá, vì ông bỗng sực
nhớ lại những câu hò của thế hệ người tiên phuông đi khai thác
đất hoang ở miền Nam, mà ngày nay thế hệ tràm không hát nữạ Ông
cất giọng khàn khàn lên:
Hò... ơ... Rồng chầu ngoài
Huế,
Ngựa tế Đồng Nai
Nước sông trong sao cứ chảy
hoài,
Thương người xa xứ lạc loài
đến đây."
(Bình Nguyên Lộc)
Tuy vậy, bài văn có nhắc đến món ba
khía và bồn bồn. Bồn bồn ở miệt Cà Mau rất nhiều, người ta
duuu`ng làm dưa, gọi là dưa bồn bồn. Còn ba khía và còng được
làm mắm. Trong tinh thần văn chương ẩm thực về các món mắm,
những đặc thù của vùng đất miền Nam, bài viết sẽ lạm bàn về mắm,
và dỉ nhiên trong tầm hồn yêu mắm.
Theo nhà văn Sơn Nam thì ở vùng đồng
bằng sông Cửu Long có rất nhiều loại mắm: mắm cá lóc, cá rô đồng,
cá trê vàng ở miệt rừng U Minh, Cà Mau, mắm Thái Châu Ðốc, tôm
chua Gò Công... Ta có thể kê khai những thổ sản đặc sắc của miền
Nam như Mắm còng, mắm tôm chà, ba khía,... Hãy nói về ba khía đi
nhé.
Ba khía:
Ba khía là
loại sinh vật sống ở bến bãi, sông rạch trong rừng ngập mặn,
hình dạng giống con cua; lớn hơn con còng, trên cái yếm màu nâu
sẫm của nó có ba cái khía, tức 3 gạch nên người ta cho nó cái
tên cúng cơm là ba khía.
Từ miệt Sóc
Trăng về Bạc Liêu xuống tận mũi Cà Mau, men theo những cánh rừng
mắm đen mọc giáp biển là những vùng có lắm ba khía. Từ tháng tám
trở đi, lúc mùa màng đã xong, người quê lại rủ nhau chèo ghe đi
bắt ba khía. Người bắt ba khía phải canh theo con nước, lúc nước
lớn, ba khía bám đầy thân cây mắm, như Bình Nguyên Lộc đã đề cập
ở trên. Vào khoảng tháng mười là mùa ba khía sinh sản nhiều vô
số kể. Đi bắt ba khía rất vui vì phải đi ban đêm, bởi vào tối
khuya ba khía di chuyển chậm chạp, mình thò tay là chộp dính
ngay vài chú thiếm ba khía. Mỗi bận đi bắt như vậy ghe trở về
với những khạp đầy ba khía. Người biết rành về còng và ba khía
thì tháng năm hàng năm thì ba khía cái có trứng đeo đầy sau yếm,
các thiếm ba khía mập mạp, đô con va chắc thịt.
Ba khía mang về đem ngâm nước, rửa thật
sạch đất bùn. Sau đó mới gỡ bỏ mai, bẻ đôi thân ba khía, cả càng,
gọng cũng bẻ rời, đem trộn tất cả vào gia vị như tỏi, ớt, đường,
chanh hoặc dùng khóm bằm nhuyễn, xong ngâm hổn hợp một buổi cho
ba khía thật thấm. Khi vị ba khía được đầy đủ độ mặn, chua, ngọt thì
ba khía sẽ ngon và dịu khi ta thưởng thức. Cách ăn ba khía là
tách yếm làm đôi rồi bẻ nhỏ ngoe, càng ba khía ra để chiêm
ngưỡng gạch son, rưới lên cơm phần nước đã có trong yếm trộn
chung. Vắt thêm ít chanh tươi trước khi ăn, mà ăn ba khía phải
ăn với cơm nguội mới đúng điệu đồng quê, và đừng quên nhai thêm
vài trái ớt hiểm, vài tép tỏi, vài lát gừng sống vừa nhai cho âm
ấm bụng - huhu... để mắt nhòa lệ vì nồng độ cay cay dâng tràn bờ
mi quyện vào mùi thơm nhớ đời ba khía.
Mắm còng:
Bàn về món mắm còng, theo
Giáo sư Trần Văn Chi viết trong bài "Hương vị Miền Nam: Mắm Còng", đất
rẫy là đất vào mùa khô bị ngập mặn bởi nước biển tràn vào, chỉ
làm ruộng hay trồng trọt được vào mùa mưa, như vùng ven biển Gò
Công, Bến Tre. Con còng ở Gò Công kêu là “còng quều”, thuộc loại
cua, rạm, ba khía, cua đồng... Còng nhỏ hơn cua biển, cỡ ngón
tay cái người lớn, có màu tìm sậm...
Còng ở Gò Công thì nhiều vô kể. Trời
bắt đầu “mưa già” một chút thì còng không biết ở đâu xuất hiện ở
ruộng rẫy nhiều vô số, thấy phát sợ... Nhiều người Gò Công nghe
nói tới mắm còng là phải chảy nước miếng! Và cũng không ít dân
Gò Công chưa ăn món mắm còng, hoặc chưa biết, chưa nghe tên món
mắm còng, dầu đó là món ngon độc đáo, đã nổi tiếng là “món ngon
tiến cung, với tên gọi gắn liền với địa danh Gò Công. Con còng
lột đem làm mắm gọi là mắm còng, chỉ có ở Gò Công và Bến Tre và
đã từ lâu món nầy được lưu truyền trong dân chúng, được liệt kê
vào bản món ngon quý hiếm từ thời bà Từ Dũ.
Cứ vào mùa Tết Ðoan Ngọ thì con còng
bắt đầu bỏ lớp vỏ cứng, lột xác thành con còng lột. Mỗi năm chỉ
có một lần, vào đúng ngày mùng 5 tháng 5 Âm Lịch, còng lột rộ,
người địa phương gọi là ngày hội còng lột.
Còng sau khi được rửa đi rửa lại bằng
nước sạch; phải chích bỏ yếm, bỏ miệng và mắt, lấy cho hết “bọng
cứt”... nghĩa là các chất dơ trong bụng còng, thì con mắm mới
ngọt, nước mắm mới trong. Nhớ phải cho còng “uống rượu”, nghĩa
là ngâm với rượu đế, khử mùi tanh.
Vớt còng ra, để cho ráo rồi nhẹ tay, mẹ tôi sắp từng con còng
vào hũ thật đầy và gài chặt bằng lớp lá vông và mấy que ổi.... Mắm
cuối cùng được chan bằng nước mắm ngon nấu với đường, để nguội.
Trời Tháng Năm nắng gắt, phơi độ trên mươi ngày là hũ mắm bắt
đầu nghe mùi thơm, có thể ăn được rồi...
Mở nắp hũ nghe mùi thơm độc đáo không
thể tả, nhìn lớp bọt li ti nổi trên mặt, màu nước mắm trong veo,
màu con mắm còng tím sậm... bạn sẽ biết được hũ mắm ngon cỡ nào.
Trúc hũ mắm ra thau, trộn thêm phu gia như tỏi, ớt, đường và
khóm bằm nhuyễn. Khóm là chất xúc tác giúp cho gia vị thấm vào
con mắm và làm cho mắm còng mặn mà dịu và ngon như ý. Nhớ mắm
trộn xong gia vị phải để “cách nhựt”, ngày hôm sau, mắm mới thấm,
và ăn mới ngon.
Theo Giáo sư Xuân Tước kể về Đặc Sản
Quê nhà, ông đề cập về món mắm còng như sau:
Người ở
vùng sông Cửu Long thường hát:
"Gió đưa
gió đẩy, về rẫy ăn còng,
Về sông
ăn cá, về giồng ăn dưa."
Rẫy là
một vùng đất miền nước mặn. Ở các vùng Gò Công, Bến Tre, Trà
Vinh, người ta thường làm rẫy, trồng nhiều loại rau cải, thơm
khóm, và cũng là vùng sinh sống lý tưởng cho các loại còng...
Mắm Còng
món ăn thượng hảo hạng của xứ Gò Công. Gò Công là một vùng đất
nằm theo vùng biển và miệt sông Cửa Tiểu. Xứ Gò Công rất nổi
danh vì đây là vùng quê cha của đại thần nhà Nguyễn là ông Phạm
Đăng Hưng. Nhà họ Phạm gã con gái cho vua Thiệu Trị về sau này
là Thái Hậu Từ Dũ, mẹ của vua Tự Đức. Vì ở gần biển nên các vùng
đất Gò Công là nơi sinh sống của nhiều loại còng. Nhưng đáng giá
nhất là còng đỏ. Loại còng này thân đỏ, chân và càng cũng màu đỏ
ửng xanh. Chúng lớn bằng chừng chân cái của chúng ta và là nguồn
sản xuất mắm còng, một loại mắm đặc sản của các vùng biển và rất
hiếm có. Không phải nơi nào cũng có thể làm mắm còng. Hai nơi
quan trọng là vùng biển Gò Công và Bến Tre, nhưng Gò Công có
nhiều còng đỏ hơn Bến Tre.
Không
phải mùa nào cũng có thể làm mắm còng. Thấy còng nằm đỏ bãi sông,
nhưng không ai bắt còng chắc mà làm mắm, chỉ bắt còng lột mà
thôi. Và mỗi năm còng chỉ lột có một lần vào ngày mùng 5 tháng 5
âm lịch. Đến ngày này, người dân Gò Công đi bắt còng lột. Mà là
những trũng nước nhỏ để còng vùi mình xuống đó mà lột. Người ta
quậy nước muối sẵn, rồi chống xuồng theo bờ sông, bờ lạch, nhìn
chỗ nào có còng là ghé lại, bắt một con còng mềm nằm dưới. Còng
lột được bỏ vào nước muối có pha đường để ngâm. Khi còng đã thấm
mặn thì người ta đem phơi nắng. Thường có hai cách để làm mắm
còng:
-Còng lột
được rửa sạch, đong 10 chén còng thêm 1 chén tỏi ớt. Cho vào cối
quết cho dập, sau đó nhận vào hũ, trộn thêm rượu để cho hết mùi
khai nồng. Đem phơi chừng 3 ngày cho được nắng, rồi lấy nước cốt
còng đem phơi cho quánh lại thì dùng được. Lúc dọn ra ăn thì
trộn còng với chanh, khóm, đường, tỏi, ớt.
-Còng lột
được rửa sạch để cho ráo nước, trụng với nước sôi nếu muốn khử
trùng, đong hai chén còng, một củ tỏi, mười trái ớt. Tất cả trộn
chung rồi cho vào hũ, đem phơi nắng cho thấm đều. Muốn ăn, nêm
chanh, khóm, đường, tỏi ớt.
Từ miền quê Gò Công, Bến Tre đến
các vùng chợ, mắm còng được mọi người ái mộ. Ở đâu muốn ăn mắm
còng cho ngon, cũng phải trộn với thịt ba rọi hay thịt nướng và
ăn với nhiều rau sống, như: húng cây, húng lũi, tía tô, kinh
giới, dấp cá, quế, gừng và ớt. Mắm còng mà ăn với bún thì ngon
tuyệt. Ở vùng quê hay các vùng chợ thuộc miền Nam Việt Nam, mắm
còng còn có hương vị đậm đà của quê hương. Màu bún trắng, mắm
còng màu thâm, tía tô màu tím, rau húng màu xanh.. trộn với một
chút mắm còng thơm phức, người ta thưởng thức được hương vị đậm
đà của quê hương.
Mắm tôm chà:
Nghề làm mắm tôm chà xuất hiện từ đầu
thế kỷ 19. Lúc sinh thời, bà hoàng Từ Dũ cùng gia đình đã chế
biến và giới thiệu món này cho triều đình nhà Nguyễn. Bà Từ Dũ
nhủ danh Phạm Thị Hằng - con gái của Quốc sử quán Tổng tài Phạm
Đăng Hưng được tiến cung năm 1824 và sau đó đã trở thành đức
Thái hậu Từ Dũ, vợ của vua Thiệu Trị, mẹ của vua Tự Đức. Do
hương vị đặc trưng từ Gò Công của Hòang thái hậu mà được triều
đình Huế thường dùng để tiếp đãi khách trong các buổi yến tiệc,
những dịp lễ lạc. Món mắm tôm chà đã chào đời vào
khoảng 200 năm.
Mắm tôm chà khi biến chế người ta dùng tôm đất hay tôm bạc thẻ ở
sông, hay có thể thế bằng tôm sú (tôm vùng biển) miễn còn tươi,
nếu còn sống càng tốt, cho vào thau ngâm với rượu đế khử mùi
tanh chừng 5, 7 phút. Sau đó vớt ra để ráo rồi bỏ vào máy xay
thật nhuyễn, sau đó đem chà trên ray có lỗ thật nhỏ để chắc lấy
nước, phần vỏ và thịt được bỏ đi. Nước tinh chất của tôm được đệm
thêm vào đường, muối, ớt bột, tỏi rồi đem phơi ít nhất một tuần
dưới ánh nắng để cho sản phẩm đặc kẹo lại mới dùng được. Thông
thường thì cứ ba ký tôm mới làm ra được 1 ký mắm tôm chà mịn
màng thơm dịu.
Mắm tôm chà có thể dùng nguyên chất hoặc có thể pha thêm tỏi, ớt
băm nhuyễn, đường, chanh tùy khẩu vị và được dùng với bún, thịt
luộc, rau sống, khế, dưa leo, chuối chát, xoài sống thái lát.
Khi ăn quệt thịt, soài lát vào hổn hợp mắm tôm cùng bún và rau.
Trong
Thú ăn chơi
Tản Đà tiên sinh đã viết: "Tôi có qua chơi vùng nhà quê Long
Xuyên, cùng ăn bữa cơm nhà một ông Chánh tổng, nhiều thứ mắm
thiệt ngon". Do vậy, xin kể ra vài loại mắm đặc trưng nữa:
*Mắm cá linh:
Cá linh còn có thể làm mắm. Cá làm
sạch, cho vào hũ ướp muối, ba ngày sau dùng vỉ tre gài chặt
xuống. Một tháng sau, vớt ra trộn thính vào rồi cho vào hũ gài
chặt như trước. Một tháng sau, lại vớt ra cho đường vào , rồi đổ
vào hũ gài chặt lại. Thêm một tháng nữa là mắm có thể dùng được.
Mắm cá linh có thể ăn vơi bún hoặc cơm, hay làm mắm kho với cá,
tôm, thịt ba rọi thái mỏng và cà tím.
* Mắm cá trèn:
Mắm cá trèn được xem ngon hơn mắm cá
linh. Mắm cá trèn ăn vơi bún, thịt ba rọi luộc và rau sống.
* Mắm thái:
Mắm thái được làm bởi cá lóc loại
to, thịt nhiều được thái filet. Cá được ngâm muối. Mắm ngon
thông thường là mắm có mùi thơm dịu, thịt ửng hồng không cứng
quá cũng không mềm nhũng. Trung bình mất khoảng 6 tháng đến 1
năm. Sau đó mắm được chao đường, chọn đường thốt nốt thắng cho
có chỉ rồi thêm gia vị là lúc màu sắc, hương vị được định độ ngon
của con mắm. Dùng mắm lóc filet bỏ da, tách xương, thái thành
sợi, màu thính phải tươi, hạt thính nhuyễn, đường thắng kẹo sệt
có màu vàng đỏ. Đu đủ trộn với mắm phải là đu đủ mới, còn xanh,
bỏ vỏ và hột, bào thành sợi mỏng, muối mặn để khoảng 10 ngày cho
hết mùi, xả sạch. Tỷ lệ thịt và đu đủ 50/50, sao cho sợi mắm
không bị nhão, có vị bùi của mắm, vị ngọt, dòn của đu đủ.
* Mắm ruột:
Mắm ruột là mắm được làm từ ruột cá
lóc. Cá được chọn để chế biến món mắm phải là loại cá lóc to, ngon
nhất là loại cá lóc có trứng mang sắc vàng ươm. Cá được làm sạch
phần bao tử và ruột non của cá. Sau khi làm sạch ruột cá xong, ruột
cá được rửa sạch, ngâm nước muối. Cách pha nước muối cũng là một
kỹ thuật, vì sau khi pha độ 2 – 3 ngày, ruột cá phải thấm mặn
đến tận bên trong để mắm mới không bị hư. Sau đó vớt ruột cá ra
để cho thật ráo nước và đem trộn với thính, rồi cho vào hủ ém
thật chặt. Kế đến chế nước mắm nhỉ lên trên mặt, phải là nước
mắm nhỉ mới cho hương thơm đậm đà. Người ta thường ướp ruột cá
và nước mắm trong vòng một tháng, sau đó đem chao với đường thốt
nốt được thắng vàng, đến khi nguội thì hương vị của món mắm ruột
tỏa ra rất thơm. Để có hủ mắm thật ngon, trung bình phải mất 4
tháng. Nguyên liệu dùng để ăn kèm là xà lách, húng cay, khế,
chuối chát, ớt sừng trâu, đu đủ và củ riềng thái sợi nhỏ, thịt
ba rọi luột thái mỏng, bánh tráng, bún và sau cùng là một chén
nước mắm chua chua ngọt ngọt thật cay. Mắm ruột cũng như mắm lóc
thái ăn với bún, hoặc cuốn bánh tráng tùy sở thích.
* Mắm xé:
Mắm xé ngon
nhất là mắm cá sặt, mắm cá lóc... Ngày xưa khi tôi được dịp ghé
thăm các tỉnh miền tây, bà conn hay ba`nn bè mời ăn món bình dân
nhưng độc dáo này. Bên cạnh dĩa mắm xé có đĩa rau sống, dưa mleo,
xoài bằm, dứa, mít non, khế, chuối lát cắt lát... đừng quên ớt
hiểm thật cay vị giác. Khi ăn vào hổn hợp của vị chua, chát,
ngọt, cay thấm vào làm dịu mắm cá.
* Mắm kho:
Mắm cá sặc
hoặc mắm lóc được nấu tan trong nước dậy mùi sả băm, tỏi phi
vàng. Nồi nước lèo được thêm vào thịt heo hay heo quay, cá bông
lau hay cá catfish, tôm, mực, cà tím,... Vị cá mắm thấm ngấm vào cá,
tôm, mực và thịt. Mắm kho ngon nhờ rau ghém như rau sống, rau
đắng, bắp chuối, ngó sen, rau muống chẻ, giá, bông súng, bông so
đũa, bông điên điển, soài sống,... Mắm kho ăn với cơm hoặc bún.
* Lẩu mắm: lẩu mắm như món mắm kho nêu
trên về cách làm. Nước lèo được đặt trên nồi lẩu để giữ độ sôi
sục liên tục. Thịt, cá, tôm, mực là đồ để thực khách nhúng vào
nước lèo. Lẩu mắm cần nhiều rau như các loại ở quê nhà: đọt nhút, rau
dừa, bông so đũa, bông súng, bông điên điển, bắp chuối,... và
đậu rồng, đậu bắp, chuối chát, khế, soài chua. Món này nên ăn
với bún, hoặc cuốn bánh tráng
* Mắm ruốc:
Mắm ruốc là mắm
làm từ con ruốc, một loại con tép riu, màu đỏ nâu, đặc mịn, thơm
mùi mắm, mắm ruốc có nhiều ở miền trung hay Vũng Tàu. Tuy mắm
ruốc trông giống mắm tôm, nhưng màu sắc và mùi vị không giống
mắm tôm. Mắm ruốc không tanh bằng mắm tôm, có thể pha thêm nước,
chanh, đường tỏi ớt khi làm nước chấm và có thể dùng làm gia vị
xào hay nấu, như mắm ruốc xào thịt ba rọi với sả ớt.
oOo
Trong suốt bài này,
mắm được trình bày như món ăn truyền thống đặc sắc của người
miền Nam. Vì các loại mắm được trích dẫn hay bàn luận xuất phát
từ miền đồng bằng sông Cửu Long. Thức ăn hay ẩm thực là một khía
cạnh của văn hóa. Như vậy mắm là một di sản văn hóa dân tộc vậy,
nó phản ảnh từ nơi xuất phát rồi lan đi khắp năm châu, cuốn theo
làn sóng và cuộc sống lưu lạc của người Việt Nam ly hương ngày
nay. Thật vậy, mắm là di sản quê hương.