Tuy vậy, bài văn có nhắc đến món ba khía và bồn bồn. Bồn bồn ở miệt Cà Mau
rất nhiều, người ta duuu`ng làm dưa, gọi là dưa bồn bồn. Còn ba khía và
còng được làm mắm. Trong tinh thần văn chương ẩm thực về các món mắm,
những đặc thù của vùng đất miền Nam, bài viết sẽ lạm bàn về mắm, và dỉ
nhiên trong tầm hồn yêu mắm.
Theo nhà văn Sơn Nam thì ở vùng đồng bằng sông Cửu Long có rất nhiều loại
mắm: mắm cá lóc, cá rô đồng, cá trê vàng ở miệt rừng U Minh, Cà Mau, mắm
Thái Châu Ðốc, tôm chua Gò Công... Ta có thể kê khai những thổ sản đặc sắc
của miền Nam như Mắm còng, mắm tôm chà, ba khía,... Hãy nói về ba khía đi
nhé.
Ba khía:
Ba khía là loại sinh vật sống ở bến bãi, sông rạch trong rừng ngập
mặn, hình dạng giống con cua; lớn hơn con còng, trên cái yếm màu nâu sẫm
của nó có ba cái khía, tức 3 gạch nên người ta cho nó cái tên cúng cơm là
ba khía.
Từ miệt Sóc Trăng về Bạc Liêu xuống tận mũi Cà Mau, men theo những
cánh rừng mắm đen mọc giáp biển là những vùng có lắm ba khía. Từ tháng tám
trở đi, lúc mùa màng đã xong, người quê lại rủ nhau chèo ghe đi bắt ba
khía. Người bắt ba khía phải canh theo con nước, lúc nước lớn, ba khía bám
đầy thân cây mắm, như Bình Nguyên Lộc đã đề cập ở trên. Vào khoảng tháng
mười là mùa ba khía sinh sản nhiều vô số kể. Đi bắt ba khía rất vui vì phải đi
ban đêm, bởi vào tối khuya ba khía di chuyển chậm chạp, mình thò tay là
chộp dính ngay vài chú thiếm ba khía. Mỗi bận đi bắt như vậy ghe trở về
với những khạp đầy ba khía. Người biết rành về còng và ba khía thì tháng
năm hàng năm thì ba khía cái có trứng đeo đầy sau yếm, các thiếm ba khía
mập mạp, đô con va chắc thịt.
Ba khía mang về đem ngâm nước, rửa thật sạch đất
bùn. Sau đó mới gỡ bỏ mai, bẻ đôi thân ba khía, cả càng, gọng cũng bẻ rời,
đem trộn tất cả vào gia vị như tỏi, ớt, đường, chanh hoặc dùng khóm bằm
nhuyễn, xong ngâm hổn hợp một buổi cho ba khía thật thấm. Khi vị ba khía
được đầy đủ độ mặn, chua, ngọt thì ba khía sẽ ngon và dịu khi ta thưởng
thức. Cách ăn ba khía là tách yếm làm đôi rồi bẻ nhỏ ngoe, càng ba khía ra để
chiêm ngưỡng gạch son, rưới lên cơm phần nước đã có trong yếm trộn chung.
Vắt thêm ít chanh tươi trước khi ăn, mà ăn ba khía phải ăn với cơm nguội mới
đúng điệu đồng quê, và đừng quên nhai thêm vài trái ớt hiểm, vài tép tỏi,
vài lát gừng sống vừa nhai cho âm ấm bụng - huhu... để mắt nhòa lệ vì nồng
độ cay cay dâng tràn bờ mi quyện vào mùi thơm nhớ đời ba khía.
Mắm còng:
Bàn về món mắm còng, theo
Giáo sư Trần Văn Chi viết trong bài "Hương vị Miền Nam: Mắm Còng", đất rẫy
là đất vào mùa khô bị ngập mặn bởi nước biển tràn vào, chỉ làm ruộng hay
trồng trọt được vào mùa mưa, như vùng ven biển Gò Công, Bến Tre. Con còng
ở Gò Công kêu là “còng quều”, thuộc loại cua, rạm, ba khía, cua đồng...
Còng nhỏ hơn cua biển, cỡ ngón tay cái người lớn, có màu tìm sậm...
Còng ở Gò Công thì nhiều vô kể. Trời bắt đầu “mưa già” một chút thì còng
không biết ở đâu xuất hiện ở ruộng rẫy nhiều vô số, thấy phát sợ... Nhiều
người Gò Công nghe nói tới mắm còng là phải chảy nước miếng! Và cũng không
ít dân Gò Công chưa ăn món mắm còng, hoặc chưa biết, chưa nghe tên món mắm
còng, dầu đó là món ngon độc đáo, đã nổi tiếng là “món ngon tiến cung, với
tên gọi gắn liền với địa danh Gò Công. Con còng lột đem làm mắm gọi là mắm
còng, chỉ có ở Gò Công và Bến Tre và đã từ lâu món nầy được lưu truyền
trong dân chúng, được liệt kê vào bản món ngon quý hiếm từ thời bà Từ Dũ.
Cứ vào mùa Tết Ðoan Ngọ thì con còng bắt đầu bỏ lớp vỏ cứng, lột xác thành
con còng lột. Mỗi năm chỉ có một lần, vào đúng ngày mùng 5 tháng 5 Âm Lịch,
còng lột rộ, người địa phương gọi là ngày hội còng lột.
Còng sau khi được rửa đi rửa lại bằng nước sạch; phải chích bỏ yếm, bỏ
miệng và mắt, lấy cho hết “bọng cứt”... nghĩa là các chất dơ trong bụng
còng, thì con mắm mới ngọt, nước mắm mới trong. Nhớ phải cho còng “uống
rượu”, nghĩa là ngâm với rượu đế, khử mùi tanh.
Vớt còng ra, để cho ráo rồi nhẹ tay, mẹ tôi sắp từng con còng vào hũ thật
đầy và gài chặt bằng lớp lá vông và mấy que ổi.... Mắm cuối cùng được chan
bằng nước mắm ngon nấu với đường, để nguội. Trời Tháng Năm nắng gắt, phơi
độ trên mươi ngày là hũ mắm bắt đầu nghe mùi thơm, có thể ăn được rồi...
Mở nắp hũ nghe mùi thơm độc đáo không thể tả, nhìn lớp bọt li ti nổi trên
mặt, màu nước mắm trong veo, màu con mắm còng tím sậm... bạn sẽ biết được
hũ mắm ngon cỡ nào.
Trúc hũ mắm ra thau, trộn thêm phu gia như tỏi, ớt, đường và khóm bằm
nhuyễn. Khóm là chất xúc tác giúp cho gia vị thấm vào con mắm và làm cho
mắm còng mặn mà dịu và ngon như ý. Nhớ mắm trộn xong gia vị phải để “cách
nhựt”, ngày hôm sau, mắm mới thấm, và ăn mới ngon.
Theo Giáo sư Xuân Tước kể về Đặc Sản Quê nhà, ông đề cập về món mắm còng
như sau:
Người ở vùng sông Cửu Long thường hát:
"Gió đưa gió đẩy, về rẫy ăn còng,
Về sông ăn cá, về giồng ăn dưa."
Rẫy là một
vùng đất miền nước mặn. Ở các vùng Gò Công, Bến Tre, Trà Vinh, người ta
thường làm rẫy, trồng nhiều loại rau cải, thơm khóm, và cũng là vùng sinh
sống lý tưởng cho các loại còng...
Mắm Còng món
ăn thượng hảo hạng của xứ Gò Công. Gò Công là một vùng đất nằm theo vùng
biển và miệt sông Cửa Tiểu. Xứ Gò Công rất nổi danh vì đây là vùng quê cha
của đại thần nhà Nguyễn là ông Phạm Đăng Hưng. Nhà họ Phạm gã con gái cho
vua Thiệu Trị về sau này là Thái Hậu Từ Dũ, mẹ của vua Tự Đức. Vì ở gần
biển nên các vùng đất Gò Công là nơi sinh sống của nhiều loại còng. Nhưng
đáng giá nhất là còng đỏ. Loại còng này thân đỏ, chân và càng cũng màu đỏ
ửng xanh. Chúng lớn bằng chừng chân cái của chúng ta và là nguồn sản xuất
mắm còng, một loại mắm đặc sản của các vùng biển và rất hiếm có. Không
phải nơi nào cũng có thể làm mắm còng. Hai nơi quan trọng là vùng biển Gò
Công và Bến Tre, nhưng Gò Công có nhiều còng đỏ hơn Bến Tre.
Không phải
mùa nào cũng có thể làm mắm còng. Thấy còng nằm đỏ bãi sông, nhưng không
ai bắt còng chắc mà làm mắm, chỉ bắt còng lột mà thôi. Và mỗi năm còng chỉ
lột có một lần vào ngày mùng 5 tháng 5 âm lịch. Đến ngày này, người dân Gò
Công đi bắt còng lột. Mà là những trũng nước nhỏ để còng vùi mình xuống đó
mà lột. Người ta quậy nước muối sẵn, rồi chống xuồng theo bờ sông, bờ lạch,
nhìn chỗ nào có còng là ghé lại, bắt một con còng mềm nằm dưới. Còng lột
được bỏ vào nước muối có pha đường để ngâm. Khi còng đã thấm mặn thì người
ta đem phơi nắng. Thường có hai cách để làm mắm còng:
-Còng lột
được rửa sạch, đong 10 chén còng thêm 1 chén tỏi ớt. Cho vào cối quết cho
dập, sau đó nhận vào hũ, trộn thêm rượu để cho hết mùi khai nồng. Đem phơi
chừng 3 ngày cho được nắng, rồi lấy nước cốt còng đem phơi cho quánh lại
thì dùng được. Lúc dọn ra ăn thì trộn còng với chanh, khóm, đường, tỏi, ớt.
-Còng lột
được rửa sạch để cho ráo nước, trụng với nước sôi nếu muốn khử trùng, đong
hai chén còng, một củ tỏi, mười trái ớt. Tất cả trộn chung rồi cho vào hũ,
đem phơi nắng cho thấm đều. Muốn ăn, nêm chanh, khóm, đường, tỏi ớt.
Từ miền quê Gò Công, Bến Tre đến các vùng chợ,
mắm còng được mọi người ái mộ. Ở đâu muốn ăn mắm còng cho ngon, cũng phải
trộn với thịt ba rọi hay thịt nướng và ăn với nhiều rau sống, như: húng
cây, húng lũi, tía tô, kinh giới, dấp cá, quế, gừng và ớt. Mắm còng mà ăn
với bún thì ngon tuyệt. Ở vùng quê hay các vùng chợ thuộc miền Nam Việt
Nam, mắm còng còn có hương vị đậm đà của quê hương. Màu bún trắng, mắm
còng màu thâm, tía tô màu tím, rau húng màu xanh.. trộn với một chút mắm
còng thơm phức, người ta thưởng thức được hương vị đậm đà của quê hương.
Mắm tôm chà:
Nghề làm mắm tôm chà xuất hiện từ đầu thế kỷ 19. Lúc sinh thời, bà hoàng
Từ Dũ cùng gia đình đã chế biến và giới thiệu món này cho triều đình nhà
Nguyễn. Bà Từ Dũ nhủ danh Phạm Thị Hằng - con gái của Quốc sử quán Tổng
tài Phạm Đăng Hưng được tiến cung năm 1824 và sau đó đã trở thành đức Thái
hậu Từ Dũ, vợ của vua Thiệu Trị, mẹ của vua Tự Đức. Do hương vị đặc trưng
từ Gò Công của Hòang thái hậu mà được triều đình Huế thường dùng để tiếp
đãi khách trong các buổi yến tiệc, những dịp lễ lạc. Món mắm tôm chà đã
chào đời vào
khoảng 200 năm.
Mắm tôm chà khi biến chế người ta dùng tôm đất hay tôm bạc thẻ ở sông, hay
có thể thế bằng tôm sú (tôm vùng biển) miễn còn tươi, nếu còn sống càng
tốt, cho vào thau ngâm với rượu đế khử mùi tanh chừng 5, 7 phút. Sau đó
vớt ra để ráo rồi bỏ vào máy xay thật nhuyễn, sau đó đem chà trên ray có
lỗ thật nhỏ để chắc lấy nước, phần vỏ và thịt được bỏ đi. Nước tinh chất
của tôm được đệm thêm vào đường, muối, ớt bột, tỏi rồi đem phơi ít nhất
một tuần dưới ánh nắng để cho sản phẩm đặc kẹo lại mới dùng được. Thông
thường thì cứ ba ký tôm mới làm ra được 1 ký mắm tôm chà mịn màng thơm dịu.
Mắm tôm chà có thể dùng nguyên chất hoặc có
thể pha thêm tỏi, ớt băm nhuyễn, đường, chanh tùy khẩu vị và được dùng với
bún, thịt luộc, rau sống, khế, dưa leo, chuối chát, xoài sống thái lát.
Khi ăn quệt thịt, soài lát vào hổn hợp mắm tôm cùng bún và rau.
Trong
Thú ăn chơi
Tản Đà tiên sinh đã viết: "Tôi có qua chơi vùng nhà quê Long Xuyên, cùng
ăn bữa cơm nhà một ông Chánh tổng, nhiều thứ mắm thiệt ngon". Do vậy, xin
kể ra vài loại mắm đặc trưng nữa:
*Mắm cá linh:
Cá linh còn có thể làm mắm. Cá làm sạch, cho vào hũ ướp muối, ba ngày sau
dùng vỉ tre gài chặt xuống. Một tháng sau, vớt ra trộn thính vào rồi cho
vào hũ gài chặt như trước. Một tháng sau, lại vớt ra cho đường vào , rồi
đổ vào hũ gài chặt lại. Thêm một tháng nữa là mắm có thể dùng được.
Mắm cá linh có thể ăn vơi bún hoặc cơm, hay làm mắm kho với cá, tôm, thịt
ba rọi thái mỏng và cà tím.
* Mắm cá trèn:
Mắm cá trèn được xem ngon hơn mắm cá linh. Mắm cá trèn ăn vơi bún, thịt ba
rọi luộc và rau sống.
* Mắm thái:
Mắm thái được làm bởi cá lóc loại to, thịt nhiều được thái filet. Cá được
ngâm muối. Mắm ngon thông thường là mắm có mùi thơm dịu, thịt ửng hồng
không cứng quá cũng không mềm nhũng. Trung bình mất khoảng 6 tháng đến 1
năm. Sau đó mắm được chao đường, chọn đường thốt nốt thắng cho có chỉ rồi
thêm gia vị là lúc màu sắc, hương vị được định độ ngon của con mắm. Dùng
mắm lóc filet bỏ da, tách xương, thái thành sợi, màu thính phải tươi, hạt
thính nhuyễn, đường thắng kẹo sệt có màu vàng đỏ. Đu đủ trộn với mắm phải
là đu đủ mới, còn xanh, bỏ vỏ và hột, bào thành sợi mỏng, muối mặn để
khoảng 10 ngày cho hết mùi, xả sạch. Tỷ lệ thịt và đu đủ 50/50, sao cho
sợi mắm không bị nhão, có vị bùi của mắm, vị ngọt, dòn của đu đủ.
* Mắm ruột:
Mắm ruột là mắm được làm từ ruột cá lóc. Cá được chọn để chế biến món mắm
phải là loại cá lóc to, ngon nhất là loại cá lóc có trứng mang sắc vàng
ươm. Cá được làm sạch phần bao tử và ruột non của cá. Sau khi làm sạch
ruột cá xong, ruột cá được rửa sạch, ngâm nước muối. Cách pha nước muối
cũng là một kỹ thuật, vì sau khi pha độ 2 – 3 ngày, ruột cá phải thấm mặn
đến tận bên trong để mắm mới không bị hư. Sau đó vớt ruột cá ra để cho
thật ráo nước và đem trộn với thính, rồi cho vào hủ ém thật chặt. Kế đến
chế nước mắm nhỉ lên trên mặt, phải là nước mắm nhỉ mới cho hương thơm đậm
đà. Người ta thường ướp ruột cá và nước mắm trong vòng một tháng, sau đó
đem chao với đường thốt nốt được thắng vàng, đến khi nguội thì hương vị
của món mắm ruột tỏa ra rất thơm. Để có hủ mắm thật ngon, trung bình phải
mất 4 tháng. Nguyên liệu dùng để ăn kèm là xà lách, húng cay, khế, chuối
chát, ớt sừng trâu, đu đủ và củ riềng thái sợi nhỏ, thịt ba rọi luột thái
mỏng, bánh tráng, bún và sau cùng là một chén nước mắm chua chua ngọt ngọt
thật cay. Mắm ruột cũng như mắm lóc thái ăn với bún, hoặc cuốn bánh tráng
tùy sở thích.
* Mắm
xé:
Mắm xé ngon nhất là mắm cá sặt, mắm cá lóc... Ngày xưa khi tôi được
dịp ghé thăm các tỉnh miền tây, bà conn hay ba`nn bè mời ăn món bình dân
nhưng độc dáo này. Bên cạnh dĩa mắm xé có đĩa rau sống, dưa mleo, xoài bằm,
dứa, mít non, khế, chuối lát cắt lát... đừng quên ớt hiểm thật cay vị giác.
Khi ăn vào hổn hợp của vị chua, chát, ngọt, cay thấm vào làm dịu mắm cá.
* Mắm
kho:
Mắm cá sặc hoặc mắm lóc được nấu tan trong nước dậy mùi sả băm, tỏi phi
vàng. Nồi nước lèo được thêm vào thịt heo hay heo quay, cá bông lau hay cá
catfish, tôm, mực, cà tím,... Vị cá mắm thấm ngấm vào cá, tôm, mực và thịt.
Mắm kho ngon nhờ rau ghém như rau sống, rau đắng, bắp chuối, ngó sen, rau
muống chẻ, giá, bông súng, bông so đũa, bông điên điển, soài sống,... Mắm
kho ăn với cơm hoặc bún.
* Lẩu mắm: lẩu mắm như món mắm kho nêu trên về
cách làm. Nước lèo được đặt trên nồi lẩu để giữ độ sôi sục liên tục. Thịt,
cá, tôm, mực là đồ để thực khách nhúng vào nước lèo. Lẩu mắm cần nhiều rau
như các loại ở quê nhà: đọt nhút, rau dừa, bông so đũa, bông súng, bông
điên điển, bắp chuối,... và đậu rồng, đậu bắp, chuối chát, khế, soài chua.
Món này nên ăn với bún, hoặc cuốn bánh tráng
* Mắm ruốc:
Mắm ruốc là mắm làm từ con ruốc, một loại con tép riu, màu đỏ nâu, đặc mịn,
thơm mùi mắm, mắm ruốc có nhiều ở miền trung hay Vũng Tàu. Tuy mắm ruốc
trông giống mắm tôm, nhưng màu sắc và mùi vị không giống mắm tôm. Mắm ruốc
không tanh bằng mắm tôm, có thể pha thêm nước, chanh, đường tỏi ớt khi làm
nước chấm và có thể dùng làm gia vị xào hay nấu, như mắm ruốc xào thịt ba
rọi với sả ớt.
oOo
Trong suốt bài này, mắm được trình bày như món ăn truyền thống đặc sắc của
người miền Nam. Vì các loại mắm được trích dẫn hay bàn luận xuất phát từ
miền đồng bằng sông Cửu Long. Thức ăn hay ẩm thực là một khía cạnh của văn
hóa. Như vậy mắm là một di sản văn hóa dân tộc vậy, nó phản ảnh từ nơi
xuất phát rồi lan đi khắp năm châu, cuốn theo làn sóng và cuộc sống lưu
lạc của người Việt Nam ly hương ngày nay. Thật vậy, mắm là di sản quê
hương.