
Vùng đất Quảng Ngăi được xem như địa linh nhân kiệt, nơi mà nhân
tài thơ văn khá nhiều, ư nghĩ đó đúng với ngày xưa cũng như sau này. Trong
bài viết ngắn này chúng tôi xin được mạn bàn về hai khuôn mặt tiêu biểu
của phố Thu Xà, là Thinh Quang và Bích Khê. Đề tài được cô đọng trong cái
nh́n của nhà văn Thinh Quang, phụ thêm những nhận xét của Việt Hải và Lan
Nhi về thơ Bích Khê.
Nhân đọc bài viết "Ngày
Xuân, Đọc Thơ Bích Khê" của nhà văn Thinh Quang cho chúng tôi có dịp đào
sâu vào vườn thơ của Bích Khê nhiều hơn. Thinh Quang duyệt qua tiểu sử của
Bích Khê như sau:
"Bích Khê, tên thật là Lê Quang Lương, sinh ngày 21 tháng 2 năm
Bính Th́n tức ngày 24-3-1916. Thân sinh ông là Lê Mai Khê – một bậc túc
nho nổi tiếng thanh bạch và cang cường. Thân mẫu là bà Phạm Thị Đoan thuộc
ḍng danh gia vọng tộc. Bích Khê là người con nhỏ nhất trong số chín anh
chị em, v́ là con út nên được thân mẫu chiều chuộng. Thuở ấu thơ Bích Khê
học trường sơ học Thu Xà, sau đó ra Đồng Hới theo học hết bậc tiểu học,
thi đậu thủ khoa lấy mảnh bằng tiểu học Pháp Việt. Chàng được thân mẫu gửi
vào học tại trường trung học Pellerin tại Huế. Cầm mảnh bằng Brevet
Elémentaire Bích Khê ra Hà Nội theo học ban triết tại một trường đại học."
Chúng tôi được biết Thinh Quang là bạn láng giềng của Bích Khê tại
phố Thu Xà, khi xưa thuộc vùng đất nhượng địa cho người Pháp cai quản, nên
thời tuổi trẻ của hai ông dược theo học trường Pháp, văn hóa Pháp, sách vở
Pháp, văn chương, thi phú của người Pháp ảnh hưởng vào tuổi thiếu thời của
hai ông va bạn bè cùng trường không ít. Thi nhân Quách Tấn như luyến tiếc
trong nhận xét nếu Bích Khê đừng theo thơ mới th́ vườn hoa thơ cổ điển,
nhất là thơ Đường sẽ phong phú thêm. Thinh
Quang
viết tiếp:
"Năm 12 tuổi Bích Khê đă biết làm thơ Đường luật nhưng măi đến năm
lên 15 tuổi mới thấy đăng tải trên các tuần báo trong nước. Thơ Bích Khê
đột ngột xuất hiện làm cho Hàn Mặc Tử, Quách Tấn cũng như Đông Hồ hết sức
ngạc nhiên và nhiệt liệt tán thưởng. Tiếng tăm của Bích Khê bắt đầu được
loan truyền cùng khắp trong làng thơ. Ngoài Hàn Mặc Tử, Quách Tấn, Đông Hồ,
Bích Khê c̣n được cả Chế Lan Viên, Tam Ích, Hoàng Trọng Miên,... đều xem
chàng chẳng khác nào như một viên ngọc quư hay đúng hơn là một ngôi sao
rực sáng giữa ṿm trời.
Bích Khê vốn dĩ là một nhà thơ “khuôn vàng thước ngọc”– thế có
nghĩa là một nhà thơ chịu đóng khung đúng theo quy luật của Đường Thi. Thơ
Đường của Bích Khê không kém Đông Hồ và Quách Tấn. Chính Quách Tấn đă thốt
lên nếu chàng thi sĩ Bích Khê của xứ sở Núi An Sông Trà này không bước đi
thêm bước nữa th́ vườn tao đàn cổ phong sẽ sum suê hơn nữa những cánh hoa
tuyệt kỷ rộ nở đầy hương lẫn sắc. Cái ư nghĩa “bước đi thêm bước nữa” của
nhà thơ cổ điển Quách Tấn muốn nói giả dụ Bích Khê đừng từ bỏ cái “khuôn
vàng thước ngọc” của Đường luật th́ vườn Thượng Uyển của những bậc vương
giả sẽ được rực rỡ thêm những cánh hoa tuyệt kỹ."
Ảnh hưởng của những bài thơ lăng mạn Pháp đă tạo hướng đi cho Bích
Khê bước vào vườn thơ mới, c̣n được gọi là thơ tân h́nh thức, vốn khác
biệt với loại thơ cổ điển của nền nho học. Thi nhân Hàn Mặc Tử đă ví von thơ
Bích Khê như những ánh kim cương sáng ngời như những vần thơ đầy trữ t́nh của
Paul Valéry, v́ thơ Valéry có những hạt sương mai buổi sáng... Paul Valéry
có “Charmes” – đứa con lung linh ánh kim cương hào nhoáng làm rúng động
bao nhiêu người – th́ Bích Khê có “Tinh Huyết”, đứa con ngọc bích mà ánh
hào quang rực sáng đă khiến cho cả làng thơ phải ngẩn ngơ tưởng chừng như
ḿnh đang lạc lơng giữa chốn thần tiên diễm ảo:
“Dáng tầm xuân uốn trong tranh Tố Nữ
Ôi tiên nương! Nàng lại ngự nơi này?
Nàng ở mô? Xiêm áo bỏ đâu đây?
Đến triển lăm cả tấm thân kiều diễm.
Nàng là tuyết hay da nàng tuyết điểm?
Nàng là hương hay nhan sắc lên hương?
Mắt ngời châu rung ánh sóng nghê thương
Lệ tích lại sắp tuôn hàng đũa ngọc.
Đêm u huyền ngủ mơ trên mái tóc
Vài chút trăng say đọng ở làn môi...
(Tranh Lơa Thể)."
Chúng ta hăy xem tiếp những lời Thinh Quang nhận xét về Bích Khê:
"Với Hàn Mặc Tử th́ Bích Khê là con người dị thường, thoạt trông
th́ chàng có đôi mắt mơ màng đượm màu huyền ảo... nhưng thật ra chàng có
một sức hút như một nhà thôi miên có thể biến thực thành ảo.
“Ồ lạ! Làm sao thương nhớ quá!
Đêm nay trăng ngủ ở bên đường
Hồn chiêm bao hốt mơ trăng lạnh
Để giả vờ như ấp bóng nường!
Họ tưởng tân hôn êm ấm lạ!
Không hay sao ốm lả hoa tàn!
Và đêm nay khóc cho nên mới
Lộ một sông trăng chảy lệ vàng!
Họ tưởng tân hôn êm ấm lạ!
Không hay xuân kín vỡ màn trinh!
Ngoài kia gió lá ḷn qua cửa
Chứng kiến làm sao chuyển đến cành?"
Với nhận xét của nhà thơ Hồng Vũ Lan Nhi (HVLN) sau khi chị đọc bài viết
của
Thinh Quang về
thơ Bích Khê, chị cho tôi ư kiến về Bích Khê qua bài "Huế Đa T́nh", ḍng
Hương giang có đẹp buồn lặng lẽ trữ t́nh,
ô, hay để ḷng lữ khách đa t́nh qua câu thơ cuối cùng...:
"Thu về lạnh sắc tà dương
Hoàng cung chừng đă hơi hương bay dồn
Thuận An khuất bóng hoàng hôn
Gió bao giờ thổi lại hồn tràng giang
Nơi đây rụng đổ lá vàng
Lăng vua xa lắm, dặm đàng hạt xanh
Ḍng Hương in gái nguyên lành
Lá thuyền du khách thanh thanh tiếng đờn
Vỹ Dạ thôn, Vỹ Dạ thôn
Biết che cần trúc không buồn mà say
Non xa trăng đă tṛn đầy
Em ơi để mọc ḷng gây lên mùa... "
Trong bài "Nhạc", Bích Khê tả thơ cho nhạc dâng cung đàn:
"Ô ! nắng vàng thơm... rung rinh điệu ngọc,
Những cánh hồng đơm, -- những cánh hồng đơm
Nhẹ nhàng, nhịp nhàng thở đều trong sương;
Màu trăng không gian như gờn gợn sóng.
Từ ở phương mô nhạn mang thơ về,
Đàn thơ cơ hồ lên cung âm điệu.
Đây giây trinh bạch khóc mướt trong mơ;
Đây hồn ngọc thạch xanh xao như tờ ?..."
Trong giấc mộng gặp tiên nữ, nhạc lên cung đàn, nhạc say tâm hồn:
"Thơ bay ! thơ bay vô bàn tay ngà,
Thơ ngà ngà say ! thơ ngà ngà say !
Nàng ơi ! đừng động... có nhạc trong giây,
Nhạc gây hoa mộng, nhạc ngát trong mây;
Nhạc lên cung hường, nhạc vô đào động,
Ô nàng tiên nương ! -- hớp nhạc đầy hương."
Nhà thơ HVLN trích dẫn bài "Tóc Xơa Đàn Tơ" cho thấy tâm hồn Bích
Khê say thơ qua vỏn vẹn 4 câu:
"Tóc xơa
đàn tơ rơi lướt thướt
Hồn thu đă hiện khóc thu gầy
Tôi nh́n đôi mắt rưng rưng lệ
Cả mảnh hồn thơ rợn ư say"
Bích Khê có những thi hữu tri âm, phải kể đến 3 nhà thơ một thời
ảnh hưởng trong vườn hoa thi ca như: Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên và Quách Tấn.
Nếu Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên theo trường phái thơ lăng mạn tự do, th́
Quách Tấn thiên về loại thơ cổ điển. So với các bạn BK chủ trương loại thơ mới
táo bạo, thơ tân h́nh thức như trào lưu của Tây phương. Người đọc thơ ông
qua những bài thơ sáng tác thiên về dục tính, phải biết rằng cái thuở tiền
bán thế kỷ 20 quả đi tiên phong trong thơ mới thể hiện sự sáng tạo quyết
liệt, tự do diễn tả cảm nghĩ của ḿnh, vượt qua biên giới của sự thận
trọng của nho giáo cổ điển. Hai tập thơ Tinh Huyết và Tinh Hoa là sự điển
h́nh cho những cỡi trói, bứt phá nề nếp cũ từ chữ nghĩa, âm điệu, thi tính,
h́nh tượng và cấu trúc của thơ.
Trong bài "Lơa Thể" cho thấy "Nàng Thơ" của Bích Khê là một kiều nữ đa dâm.
Chân dung nàng luôn được Bích Khê phác họa ở dạng lơa thể, khỏa thân. Nh́n
vào đó ta nhận diện ra là "Nàng" đẹp như thế nào:
"Nàng là
tuyết hay da nàng tuyết điểm
Nàng là hương hay nhan sắc lên hương
Mắt ngời châu rung ánh sóng nghê thường
Lệ tích lại sắp tuôn hàng đũa ngọc
Đêm u huyền ngủ mơ trên mái tóc
Vài chút trăng say đọng ở làn môi"
(Bài "Lơa Thể")
Bích Khê
táo bạo trong tâm hồn, trong thơ ḿnh, ông làm thơ mơ tiên nữ, ông tự nhận
muốn cướp thể xác của tiên nữ, ông t́m cảm giác mạnh bạo của khoái lạc
trong giấc mộng chiêm bao. Khoái cảm nhục thể của Bích Khê đưa thơ ông đến
mức ngậm cắn đôi môi tiên nữ, cơn khao khát t́nh dục cào cấu lên đôi g̣
bồng đảo của nàng. Hăy xem bài thơ táo bạo có tên là "Xác Thịt":
"Tôi vồ người như một miếng mồi ngon
Miệng ngậm hờn riết chặt lấy môi son
Mắt đổ lửa lườm qua làn sóng sắc...
Tôi giật nẩy rồi cười lên sặc sặc
Hai tay cào đôi vú trắng như bông"
Trong bài "Xuân Tượng Trưng" Bích Khê diễn tả nét xuân t́nh trên dáng h́nh
hài của kiều nữ khoả thân, thơ ông dùng từ ngữ tả chân đến độ tôi cho là "toạc
móng heo" ở câu 3 và 4 dưới đây như:
"-
Đêm nay xuân đă lại
Thuần tuư là tượng trưng -
Nâng lên núm vú đồi
Sữa trăng nhi nhỉ giọt
Bay qua cụm liễu khơi
Những cườm tay điểm hột
Sương phất phơ lau lách
Khẽ uốn ḿnh giai nhân
Đường non kheo điêu khắc
Những dáng h́nh khoả thân"
Tương tự trong bài "Mộng Cầm Ca", Bích Khê tỏ lộ sự lăng mạn mang nét dục
tính, ông dùng từ ngữ cho sự tượng h́nh rất "hồn nhiên", rất "vô tư" ở câu
hai. Đôi nhủ hoa của người phụ nữ được ông
dùng
nhiều trong các bài thơ khác.
"Đâu đôi mắt mùa thu xanh tợ ngọc ?
Vú non non ? Da dịu dịu, êm êm ?
Đâu hang báu cho người ta phải khóc ?
-- Trên môi son, ta liếc lưỡi gươm mềm !
Đâu đôi mắt mùa thu xanh tợ ngọc ?
-- Lưới lông mi rờn rợn ánh tơ đêm ! "
Hàn Mặc Tử đă phê b́nh chất thơ xác thịt của Bích Khê như sau: “Dây thần
kinh và gân huyết ta rung động say mê bởi những làn khoái lạc của xác thịt
nóng, thơm, ran ran lên cả người”. Tập thơ "Tinh Huyết" của Bích Khê là do
Hàn Mặc Tử đề tựa sau khi đă thách thức Bích Khê hăy sáng tác thi tập hai
và Hàn thi nhân đă ca tụng thi tập này. "Tinh Huyết" gồm có ba phần: Nhạc
và Lệ, Đẹp và Dâm, Cuồng và Ánh Sáng. Thực ra, xét trên phương diện nghệ
thuật của Tạo Hóa th́ cơ thể của người phụ nữ mang nét đẹp tự nhiên, nếu
văn thơ ca tụng vẻ thẩm mỹ như vậy cũng dễ hiểu. Bích Khê cho 2 ḍng thơ
về nét khỏa thân hay thơ lơa thể (nudity) là:
"Thơ lơa thể! Giai nhân tuần trăng mật
Nữ thần ơi! Ta nô lệ bên người"
Sự tương hợp giữa Thơ Mới và Thơ Pháp trong cuộc giao thoa giữa hai văn
hóa Việt Nam và Pháp tiền bán thế kỷ 20 như đă đề cập, Bích Khê đă mở ngơ
cho loại Thơ Mới của Việt Nam theo hệ phái siêu thực khi ông kết cấu thơ
theo cách cảm nhận và sự xúc cảm tự nhiên của ḿnh. Nét Âu hóa đó có thể
do ảnh hưởng Tây học. Những Baudelaire, Rimbaud, Lamartine, Paul Verlaine
hay Jacques Prévert đă ảnh hưởng đến cách đặt thơ qua các yếu tố được vận
dụng như sự mơ mộng, tưởng tượng, cuồng tưởng, qua thị giác, trực giác
thường thể hiện những cảm giác không có trong thực tại, siêu h́nh hay siêu
thực, và những ḍng thơ hiển hiện ra trong nét nhạc tính.
T́nh yêu thực sự là yêu
bằng cả t́nh cảm và t́nh dục. Với Bích Khê thơ đẹp là thơ phải có nét
khiêu ngợi của nét dâm tính, là mộng mơ giao thoa vào sự thực. Điều này
được thể hiện rơ qua sự so sánh giữa hai bài thơ của Bích Khê và Hàn Mặc
Tử, hai người bạn thơ tri kỷ, rất thân thiết và họ đă chia sẻ nhiều điểm
tương đồng. Cả hai bài cùng viết về đề tài tân hôn, nhưng cảm hứng về thơ
th́ khác hẳn.
Bích Khê nh́n vào sự thực khi mùa xuân yêu đương của đêm tân hôn cho say
men t́nh, cho vỡ màn trinh...
"Mộng rớt đêm nay như chất ngọc
Người ta say nghiến những men t́nh
Tôi hoan hô - phút giây thần diệu
Chết giả nhưng cười trắng thủy tinh"
Hàn Mặc Tử nghiêng về mộng nhiều hơn, chất thơ e dè, không lộ liễu, không
nói rơ về sự va chạm t́nh dục:
"Cho nên tôi tưởng tối tân hôn
Chưa tới, c̣n xa để được buồn
Để sống trong niềm thương nhớ đă
Để c̣n mường tượng đến giai nhân"
(Tối Tân Hôn, Hàn Mạc Tử)
Tập thơ "Tinh Huyết" xuất bản vào cuối năm 1939, với bài viết tựa của Hàn
Mặc Tử và lời bạt của Trọng Miên. Đến năm 1944, khi
Bích Khê chuẩn
bị cho in tập thơ thứ hai có tên là "Tinh Hoa" nhưng chưa hoàn tất th́ ông mất.
Tập "Tinh Hoa" được người nhà của ông lưu giữ và mới được xuất bản những
năm gần đây. Bích Khê đă để lại cho hậu thế một kho tàng văn học thi ca vô
giá. Ông tạo lập khuynh hướng thơ mới từ lối dùng chữ mà trong đó nó đă
chứa đựng một cái tính chất rất thật của con người ông. Một trong những
bài thơ tôi thích là bài "Tỳ Bà ":
"Vàng sao nằm im trên hoa gầy
Tương tư người xưa thôi qua đây
Ôi! Nàng năm xưa quên lời thề
Hoa vừa đưa hương gây đê mê
Tôi qua tim nàng vay du dương
Tôi mang lên lầu lên cung Thương
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng
T́nh tang tôi nghe như t́nh lang"
Bài thơ tương ḷng khi mang cung Thương để thi nhân nguyện hứa măi măi yêu
nàng. Yêu nàng bao nhiêu trong ḷng ḿnh là yêu nàng bao nhiêu trên bờ môi
thương nhớ. Không phải tất cả thơ
Bích Khê đều
thể hiện nét dục tính lộ liễu, bài thơ này cho thấy nét lăng mạn tương tư
trong t́nh yêu nhớ nhung:
"Yêu nàng bao nhiêu trong ḷng tôi
Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi
Đâu t́m Đào Nguyên cho xa xôi
Đào Nguyên trong ḷng nàng đây thôi
Buồn lưu cây đào xin hơi xuân
Buồn sang cây tùng thăm đông quân
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! Vàng rơi: Thu mênh mông.
Bích Khê"
Chính Hoài Thanh cho rằng đó là "Những câu thơ hay vào bậc nhất trong thơ
Việt Nam". Tôi đồng ư với câu nhận xét này khi xét cách dùng chữ độc đáo ở
hai câu cuối cùng: "Ô!
Hay buồn vương cây ngô đồng, Vàng rơi! Vàng rơi: Thu mênh mông."
Trở lại với nhà văn Thinh Quang, th́ ông là bào đệ của nhà thơ Mộng
Đài, mà gia đ́nh ông và gia đ́nh nhà thơ Bích Khê thân thiết nhau ở phố
Thu Xà. Họ có những sinh hoạt chung về trao đổi văn thơ, chèo xuồng trên
sông Vực hay họp bạn ăn uống. Sự thân thiết trong t́nh bạn khi Bích Khê
giới thiệu cháu ḿnh là Mộng Cầm cho Hàn Mặc Tử. Để rồi mối t́nh oan
nghiệt đó đă măi măi vào âm nhạc và thi ca văn học sử.
Thinh Quang kể về Mộng Đài, Hàn Mặc Tử và Bích Khê trong bài viết
kể trên như sau:
"Nhà thơ Mộng Đài đă hiệp ư với Hàn Mặc Tử cho rằng Bích Khê có
những ư tưởng thật triết, ư tưởng ngược đời nhưng nó lại là sự thật khi ta
đọc đến những gịng thơ trữ t́nh và huyền diệu...
"Ôi khối mộng của hồn thơ chuếnh choáng!
Ôi buồng xuân hơ hớ cánh đào sương!
Ôi b́nh vàng! Ôi chén ngọc đầy hương!
Ôi hồ nguyệt đọng nhiều trăng lấp loáng!
Ôi thần t́nh người chứa một trời thương!
... Hoa thần bí vấn vương hồn ngọc nữ;
Động đào nguyên chấp chóa ánh lưu li;
Ô! Sắc phàm trên bộ mặt từ bi;
Ô Tiên nương trong t́nh xuân đầy ứ;
...Một khối u sầu d́u dịu cung phi.
Ôi! Sọ người! Sọ người! – Gương phép tắc!
- Ngọc Kiều ơi! Ghé lại ngắm dong nhan.
Ngọc Kiều ơi ta chợt thấy tim nàng
Tim nàng bằng đá,tim nàng bắng sắt
Ngọc Kiều ơi! Hơi độc sắp tràn lan!
Người ngất ngư – Chết trong muôn thế kỷ!
Chạy điên rồ... đứng sựng giữa xương ma.
Người là ai? Người có phải là ta?
(Bài "Sọ Người")
Người mới đọc thơ Bích Khê cứ tưởng, đây là anh chàng thi sĩ có trái tim
bằng đá và tâm hồn luyện tôi thành sắt. Nhưng thật ra, không như vậy. Tâm
hồn của nhà thơ được các nhà phê b́nh thơ xác nhận đúng với đứa con tinh
thần được kết tinh bằng máu lệ đang mang cái tên “Tinh Huyết” của nó. Đừng
nghĩ rằng Bích Khê không c̣n t́nh cảm! Không! Bích Khê có một tâm hồn ủy
mị, một trái tim đam mê da diết. Mối t́nh thầm kín đối với cô gái có mái
tóc đen huyền với làn da trắng mịn đă nói lên điều này. Bích Khê mạnh dạn
lời lẽ trong thơ song chàng nhút nhát sẻ sàng trước mặt một nữ sinh trong
lớp mà chàng thường xuyên gặp gỡ... Chị chàng – bà Ngọc Sương đă viết
trong bài “Người Em: Bích Khê” đă xác nhận như vậy. Mối t́nh đầu ấy lẽ ra
chàng thổ lộ nhưng trái lại chàng lại ấp ủ khép kín trong ḷng... khép kín
luôn cả bài thơ “mang mối hận t́nh” đó đợi đến ngày sắp cho đứa con tinh
thần đầu ḷng mang tên “Tinh Huyết” ra đời mới trang trọng bỏ vào thú nhận
mối t́nh câm của ḿnh:
“Tôi nói làm sao – Cái đẹp câm
Đẹp trong pho tượng xuất ra thần
Một con người mộng – con người mộng
Trễ nải thanh tân biếng nhác thầm.
Muôn sợi đàn tơ buông lơa xơa...
Vẻ ǵ sùm sụp ướt trên mi
Vẻ ǵ dă dượi không lay động
- Cặp mắt mùa thu đương đắm si.
Ôi đẹp đau thương,sáng thiết tha
Hồn ơi! Cặp mắt vỡ men hoa
Hồn ơi! Cặp mắt say thơ mộng
Dần biến ra Châu trắng mịn mà...
Chàng thi sĩ “nhát như cáy” (Câu của Mộng Đài đùa) giờ đă tự thú, dù chữ
“Châu có hai nghĩa...
Nơi phần hai (II) chàng lại càng da diết hơn:
Tôi thấy vàng mơ động khí giời
Mà nàng làm tượng lắng im hơi
Để ra một vẻ đau thần bí
Linh động vang lên chín phẩm ngời...
Và chàng muốn được tạ tội câm lặng bằng hơi thở của ḿnh:
Tôi mượn t́nh câm mớm lưỡi răng
Để nghe rũ rượi đă bay lan
Để đưa sanh mạch khơi hơi thở
Hấp hối hờn run hộ vệ nàng
Cái tuyệt vời của từng chữ trong lời thơ Bích Khê có nhiều
lúc khiến nhiều kẻ yêu thơ phải cố t́m hiểu cái nghĩa sau sắc của các mỹ
từ trong mỗi ḍng thơ của chàng:
Có cặp lông mày phớt ráng đêm
Dậy như men rượu gọi mơ thèm
Có ǵ uyển chuyển trên da thịt
Nức một đường thơm một điệu êm...
Nơi phần ba chàng không c̣n tự chế nổi nữa. Bích Khê đă viết “Châu” nhiều
lần:
“Ở trong cặp mắt như Châu ấy
Và biến ra Châu lă chă đầy...
Hay:
Em đă là Châu lệ cũng Châu
Mắt tôi đă khát biết bao sầu...
Hoặc:
“Chao ôi toàn ảnh tuôn ra lệ
Tê tái hồn tôi khóc rấm rây
Châu vỡ nguồn Châu – năo vỡ năo
- Thanh sắc muôn xuân đến đă đầy!
Đây là bài thơ dài nhất của chàng – hàng trăm câu – gần như tất cả
rưng rưng hàng châu ngọc. Mười bốn câu kết của bài thơ “CHÂU” chàng đă đưa
mọi người đi vào chốn mung lung nửa hư nửa thực:
"Tối hôm qua làm văn tế
Tôi khóc sống người giai nhân
Tối hôm nay tôi xuất thần
Tôi muốn nàng đừng có chết
Thần tôi hồi mô mới hết
Thơ tôi đời mô hết đau
Là nàng trở nên sang giàu
Tôi sú cho nguồn Khoái Lạc
Tôi cho ăn toàn Hương Nhạc
Tôi bắt vận toàn Âm Dương
Tôi để vạn miếng Nghê Thường
A vào đôi con mắt ngọc
Nàng dội thiêng liêng lên tóc
Nàng lùa Thanh Sắc vô tay..."
Những nhà thơ từng đến với Bích Khê trong những năm đất nước thanh
b́nh: Hàn Mặc Tử, Đông Hồ, Quách Tấn, Hoàng Trọng Miên, Mộng Đài... và
Thinh Quang – người ghi lại h́nh ảnh của Bích Khê trong bài này! Có lần
Bích Khê đă bảo với tôi: “Anh đă giao môt số thơ chưa hề đăng báo cho Minh
Đức và Ngọc Quới – cất giữ”. Ngọc Quới có xác nhận với tôi điều này, sau
khi Bích Khê qua đời... Nhưng giờ th́ kẻ c̣n người mất, chẳng biết hai
người bạn thơ này có c̣n hay đă mất và lưu lạc phương trời nào.
Hàn Mặc Tử bảo thơ Bích Khê “Một bông lạ nở hương, một thứ hương quư trọng,
thơm đủ mọi mùi phúc lộc”.
Hoài Thanh: trong “Thi Nhân Việt Nam”:
- Tôi đọc thơ Bích Khê ba lần mà như thể tôi chưa đọc”.
Có thể là Hoài Thanh muốn nói:
- “Thơ của Bích Khê thật muôn h́nh vạn trạng, mỗi lần đọc đều có ư nghĩa
và h́nh ảnh khác nhau”.
Chế Lan Viên:
-”Tôi thường so sánh hai bài Ngũ Hành Sơn với bài thơ Chùa Hương của
Nguyễn Nhược Pháp. Chỉ v́ cả hai thi sĩ đều tả cảnh đất nước, cả hai đều
dùng thể ngũ ngôn. Cố nhiên tôi rất yêu Nguyễn Nhược Pháp ở Chùa Hương.
Nhưng tôi xin được phép đánh giá Bích Khê cao hơn Nguyễn Nhược Pháp...”
GS. Lê Đ́nh Ky:
-...Điệu thơ nghe rất lạ, rất mới mà cũng thật gần gũi, với những mâm vàng
đũa ngọc, chung rượu, muôn trùng, nước ái non t́nh.
Tam Ích:
-”...Từ ngày Bích Khê làm thơ, chàng đă chú trọng đến nhạc tính: bài thơ
Đường xưa nhất và bài thơ dài dài ngắn ngắn hay loạn nhất của Bích Khê sau
này vẫn là những bản đàn quen tai và lạ tai.”
Đinh Cường:
-”...Thơ Bích Khê ví như cái cầu vồng, đi từ mầu trắng bâng khuâng đến mầu
gay gắt ray rứt, điên cuồng, chỉ khi nào hiểu mới thấy được những mầu kia”.
Hoàng Thiệu Khang:
- “...chưa có một nhà Thơ Mới nào lại phá được cái cấu trúc văn xuôi trong
thơ như Bích Khê.”
Năm 1946 trước khi Bích Khê qua đời có tặng cho nhà thơ Mộng Đài một bài
thơ bao gồm các điển tích. Bài thơ đó như sau:
“Vân Anh hề! Bùi Hàng
Lộng Ngọc hề! Tiêu Lang.
Bí Phi hề! Bước sóng
Huyền Hoàng hề! Hường Điệp Lang...”
Về sau nhà thơ Mộng Đài đă lấy tên “Vân Anh” trong bài thơ này đặt
cho người con gái thứ hai của ḿnh! Hiện thứ nữ của anh Mộng Đài cư trú
tại Thung Lũng Hoa Vàng, Bắc California.” (Thinh Quang).
Tưởng cũng nên ghi nhận Bích Khê cùng người anh em bà con hai lần mở
trường tư thục Hồng Đức và Quảng Thuận vào các năm 1934 và 1938 đều ở Phan
Thiết, nhưng chỉ sau một thời gian ngắn trường không thành công phải đóng
cửa. Ngoài ra ông c̣n dạy ở trường Phú Xuân tại Huế vào năm 1941, dạy một
thời gian th́ nghỉ do căn bệnh nan y là triệu chứng lao hành hạ. Ông mất
đêm 17 tháng 1 năm 1946 v́ chứng bệnh lao phổi.
oOo
Trong cuộc đời tài hoa ngắn ngủi của ḿnh, Bích Khê đă trải qua nhiều mối
t́nh nhưng không được trọn vẹn. Ngoài các giai nhân được biết như: Song
Châu, Ngọc Kiều, Bích Thủy đă đi qua đời ông và cuối cùng đều tan vỡ với
nhiều lư do th́ ông c̣n h́nh bóng một giai nhân khác mà trước khi ĺa đời
ông mới thổ lộ với người thân. Bích Khê là nhà thơ, mà là nhà thơ càng
theo đuổi những mối t́nh bên bờ sông Tương th́ sự lăng mạn nhuốm vào chất
thơ ướt át càng nhiều. Chopin và Beethoven yêu người đến độ thất t́nh, để
rồi có những tác phẩm của họ đạt tột đỉnh vinh quang. Nhà thơ Bích Khê
cũng không ra ngoài chiều hướng như vậy. Sự thất bại trong t́nh trường
khiến ông xuất sắc trong trường phái thơ lăng mạn.
Nhận xét khác về Nhà thơ Bích Khê là sự đổi mới trong nét sáng tạo
khiến cho
thơ ông độc đáo trong nghệ thuật làm thơ mới. Nỗi khát vọng đổi mới tất
nhiên v́ nhu cầu phá bỏ nề nếp quá ràng buộc của thơ cổ điển. Chính v́ thế,
thi nhân Quách Tấn luyến tiếc mất một đồng minh ưu tú bên trường phái thơ
cổ điển nếu Bích Khê đừng nhảy sang thơ mới. Mà nếu Bích Khê không nhảy
sang thơ mới, th́ trường phái thơ mới có thể thiếu vắng sự lăng mạn đặc
biệt đến độ tương tư, đến độ phá bỏ biên cương nề nếp để yêu tiên nữ rất "hiện
sinh", yêu "toạc móng heo" trong thi ca cách tân, mà Bích Khê là một kiến
trúc
sư xuất sắc
tiền phong.
À, vậy
chúng ta
hăy khẳng định một điều là Bích Khê nhà thơ của khát vọng Đổi Mới.

Sau hết,
chúng tôi
xin
được
kết thúc bằng lời nhận xét kết luận của nhà văn Thinh Quang là:
"Mộng Đài bảo đọc thơ của Bích Khê như thể ḿnh đang lạc loài giữa ṿm
trời như cả muôn ngàn ánh kim cương rực tỏa... Có điều nó không riêng rực
tỏa ở thuở đương thời mà luôn cả ở các thế hệ mai sau trường kỳ và vĩnh
viễn."