Phần 2 :
(tiếp theo Phần 1)
LÀM SAO ĐIỀU TRI BỆNH TẢ:
Theo cuộc đối thoại của tôi và thầy Trần Văn Bảng cho thấy ưu tiên trong
điều trị là thay thế nước bị mất trong cơ thể chứ không phải là uống kháng
sinh. Tuy nhiên, chúng ta cũng nên cho bệnh nhân uống kháng sinh sau khi
đã làm xong những điều trị về tình trạng mất nước của bệnh nhân. Trước khi
nói đến phần thay thế nước mất trong cơ thể, chúng ta phải hiểu thành phần
của những chất mất đi trong cơ thể khi bị bệnh tả và thành phần của những
dung dịch mà chúng ta có được trong bệnh viện hiện nay:
THÀNH
PHẦN NHỮNG CHẤT ĐIỆN GIẢI TRONG PHÂN NGƯỜI BỊ BỆNH TẢ VÀ NHỮNG DUNG DỊCH
DÙNG ĐỂ ĐIỀU TRỊ:
|
Na+ |
Cl- |
K+ |
HCO3- |
Glucose |
Osmolarity |
Phân
của người lớn bị tiêu chảy trong bệnh tả nặng |
130 |
100 |
20 |
44 |
|
|
Dung
dịch lactated Ringer để truyền vào tĩnh mạch |
130 |
109 |
4 |
28[*] |
0 |
271 |
Dung
dịch nước muối sinh lý (IV normal saline) để truyền tĩnh mạch |
154 |
154 |
0 |
0 |
0 |
308 |
Dung
dịch uống tiêu chuẩn để điều trị đưa ra bởi tổ chức Tổ Chức Y-
Tế-Quốc-Tế
(Standard oral rehydration solution promoted by the WHO) |
90 |
80 |
20 |
10[†] |
111 |
311 |
Dung
dịch uống với nồng độ áp xuất thẫm thấu thấp được đưa ra bởi Tổ Chức
Y-Tế Quốc -Tế
(Reduced-osmolarity oral rehydration solution promoted by the WHO) |
75 |
65 |
20 |
10[†] |
75 |
245 |
Rice-based oral rehydration solution |
90 |
80 |
20 |
10[†] |
|
270 |
Modified
with permission from Seas C, DuPont HL, Valdez LM, et al: Practical
guidelines for the treatment of cholera.
Drugs 1996;51:966–973.
* Lactated Ringer's solution contains citrate instead of
bicarbonate.
†
Bicarbonate is replaced by trisodium citrate.
Trên phương diện điều trị, chúng ta dựa vào 3 nguyên tắc chính:
1.
Cung cấp dịch của cơ thể đã bị mất qua sự ói mữa và tiêu chảy
2.
Sữa chữa biến dưỡng acid hóa (metabolic acidosis) và chất điện giải
potassium đã bị mất
3.
Tiếp tục bồi hoàn những điều trên tiếp tục bị mất.
Điều trị người bệnh tả bị mất nước nhẹ tương đối không phức tạp lắm dựa
theo 3 nguyên tắc trên. Cho bệnh nhân uống những dung dịch đã đề cập trên.
Điều trị người bị bệnh nặng hơn, cần người bác sĩ có nhiều kinh nghiệm hơn.
Ở những người không uống được hay những người bị mất nước 10-20 ml cho mỗi
kí lô cân nặng của cơ thể trong mỗi giờ, phải được truyền những dung dịch
như Lactate Ringer hay những dung dịch khác nêu trên (ngoại trừ normal
saline). Có 3 cách tính lượng nước trong cơ thể mất đi:
1.
Nếu biết cân nặng trước khi bệnh trừ cho cân nặng khi khám bệnh nhân. Ví
dụ như trước khi bệnh là 50 kg và lúc đang bệnh là 45 kg. Như vậy, bệnh
nhân mất đi 5 kg. Một kg cân nặng mất đi có nghĩa là mất đi 1 lít nước
trong cơ thể. Vậy bệnh nhân mất đi 5 lít nước từ cơ thể hay 10% cân nặng.
Bệnh nhân mất nước rất nhiều, có thể coi như là trầm trọng.
2.
Nếu chúng ta có thể đo lường được số lượng ói mữa và tiêu chảy thì chúng
ta tính theo dung tích hay cân nặng và tính 1lít chất ói mữa hay tiêu chảy
hoặc 1 kg chất ói mữa hay tiêu chảy bằng với 1 lít nước.
3.
Nếu cả 2 phương pháp trên không thể thực hiện được, ta tính theo triệu
chứng lâm sàng như tôi đã nêu trên.
Giai đoạn 1: khi ta bù đấp những gì
mất đi, ta phải bù đấp trong vòng 4 giờ thôi và không nên kéo dài hơn nữa
vì nó gây nhiều biến chứng. Vì vậy, ta truyền nước qua tĩnh mạch cho nhanh
chóng nếu bệnh nhân bị mất nước nặng (trên 5% của cân nặng cơ thể).
Chúng ta phải truyền những dung dịch với tốc độ 50-100 ml cho mỗi kg cân
nặng cơ thể trong mỗi giờ. Có nghĩa là một người cân nặng 50 kg
khi bệnh tả chỉ còn 45 kg. Như vậy, ta truyền dung dịch qua tĩnh mạch với
tốc độ 50-100 ml * 45 kg = 2.250 ml cho đến 4.500 ml dung dịch trong mỗi
giờ. Tính ra tốc độ số giọt trong một phút:
Số giọt dịch truyền chảy qua dây truyền/phút=2.250-4.500 ml/60 phút (* 20
giọt cho mỗi ml) = 750 giọt cho đến 1.500 giọt trong mỗi phút hay 37,5
ml-750 ml cho mỗi phút. Như vậy, nếu ta có 4 đường dây truyền dung dịch (2
tay và 2 chân), tốc độ chảy mỗi đường dây là 190 giọt cho đến 375 giọt mỗi
phút. Nếu ta có máy đếm giọt hay ml, thì vấn đề đơn giản. Ở những nước
nghèo thường hay bị dịch tả, họ không có máy đếm giọt hay ml. Nếu mỗi
đường dây dịch truyền chảy không đủ, tôi dùng một y tá với ống chích 50
ml, hút dịch truyền trong bình và bơm bằng tay thêm cho đủ số lượng cần.
Năm
1978, khi nghệ sĩ Hùng Cường trình diễn tại Hố Nai, Biên Hòa, một xe vận
tải chở chuối không điều khiển bởi tài xế, chạy tự do vào đám đông dân
chúng. Kết quả là 4 người chết liền tại chỗ và 36 người bị thương nặng mất
máu rất nhiều được đưa vào phòng cấp cứu Bệnh Viện Đa Khoa tại thành phố
Biên Hòa mà tôi đang trực tại phòng cấp cứu. Bệnh nhân nằm la liệt trên
sân đậu xe ngay trước phòng cấp cứu. Một mình tôi phải đối phó tình trạng
với 8 bệnh nhân bị mất máu nhiều và bị kích xúc (shock) và nhiều bệnh nhân
bị thương nhẹ hay hơi nặng mà không bị kích xúc, tôi đã dùng phương pháp
trên và cứu sống cả 8 người.
Trong lúc điều trị, chúng ta thỉnh thoảng phải thử chất điện giải và pH
của máu để kiểm soát cách điều trị của ta và xem chúng ta đã bồi hoàn
những gì bệnh nhân đã mất hay chưa. Chúng ta điều trị và kiểm soát cách
điều trị.

Giai đoạn thứ 2:
Sau khi người bệnh tả nặng được bồi hoàn những gì đã mất. Có nghĩa là bệnh
nhân có thể có nước tiểu với tốc độ 0,5 ml cho mỗi kí lô cân nặng trong
mỗi giờ. Nếu một người 45 kg khi bị bệnh, nước tiểu đo lường được mỗi giờ
là 22,5 ml là đã được bồi hoàn đầy đủ, hay chúng ta đã xong giai đoạn 1
của điều trị. Bệnh nhân vẫn còn tiêu chảy nặng nề, ta phải tiếp tục đo
lường lượng ói mữa và tiêu chảy, và tiếp tục cho dịch truyền hay uống theo
tốc độ lượng nước trong cơ thể mất đi. Lượng dịch truyền vào tĩnh mạch hay
uống (nếu bệnh nhân có thể uống được) giờ đây theo số lượng mất đi của cơ
thể chứ không theo cân nặng của cơ thể. Có nghĩa là một người 45 kí lô mất
3 lít qua ói mữa & tiêu chảy và hay một người 70 kí lô cũng mất đi như vậy
3 lít thì ta cho bệnh nhân uống hay truyền dịch qua tĩnh mạch cũng chỉ 3
lít mỗi giờ.Trong giai đoạn này, chúng ta cho bệnh nhân uống dịch tiêu
chuẩn do Tổ Chức Y Tế Quốc Tế đưa ra (90 mEq/L) vì dung dịch uống với 75
mEq/L cũng do Tổ Chức Y Tế Quốc Tế đưa ra năm 1975 dễ làm cho bệnh nhân
dịch tả bị thiếu sodium trong máu (hyponatremia) và đưa đến biến chứng về
não (phù nề não: brain edema). Người ta cho thêm 1-histidine vào dịch uống
làm từ gạo (rice-based oral rehydration solution) giúp giảm đi thời gian
và số lượng bệnh nhân dịch tả bị tiêu chảy.
Nếu bệnh nhân dịch tả không bị mất nước nặng, chúng ta cho uống đủ số
lượng bồi hoàn những gì đã mất đi và cấp cho họ dịch để uống và cho họ về
nhà ngay để tránh sự tràn ngập bệnh viện. Nhớ hướng dẩn họ về cách xữ lý
chất ói và tiêu chảy cũng như cách săn sóc bệnh nhân để tránh lây nhiễm
cho người khác.
NHỮNG ĐIỀU CẦN THIẾT TRONG KHI ĐIỀU TRỊ BỆNH NHÂN BỊ DỊCH TẢ
|
1.
|
Ước lượng mức độ mất nước khi bệnh nhân vừa đến bệnh viện. |
|
2.
|
Bồi hoàn sự mất nước của bệnh nhân qua 2 giai đoạn: Giai đoạn bồi
hoàn những gì đã mất—kéo dài từ 2-4 giờ. Giai đoạn những gì tiếp
tục mất đi—kéo dài cho đến khi bệnh nhân hết tiêu chảy. |
|
3.
|
Ghi chép vào bảng trong hồ sơ theo dõi những gì ta cho vào bệnh
nhân và những gì bệnh nhân liên tục mất đi. (input and output
charts). Và nhớ thỉnh thoảng xem xét lại những gì đã xảy ra và
điều chỉnh điều trị. |
|
4.
|
Truyền dịch qua tĩnh mạch trong những trường hợp sau đây: Trong
tất cả những bệnh nhân bị mất nước nặng (10% hay cao hơn) với tốc
độ 50-100 ml/kí-lô cân nặng. Ở những bệnh nhân với sự mất nước nhẹ
hơn nhưng không uống được. Ở những bệnh nhân có lượng tiêu chảy
nhiều hơn 10 ml cho mỗi kí lô cân nặng trong giai đoạn thứ 2 của
điều trị (> 10 mL/kg/hr during the maintenance phase). Dung dịch
nước muối sinh lý (normal saline) không nên dùng để trị mất nước ở
bệnh tả vì nó không sửa chữa được biến dưỡng acid hóa (metabolic
acidosis). |
|
5.
|
Dùng dung dịch để uống bồi hoàn cho sự mất nước của cơ thể (Dịch
tiêu chuẩn/standard solution của Tổ Chức Y Tế Quốc Tế pha với
đường glucose hay nước nấu từ gạo (glucose or rice based), trong
giai đoạn thứ 2 của điều trị để bồi đấp cho sự tiếp tục mất nước
qua tiêu chảy và ói mữa. Lượng dịch cần thiết vào khoảng 800-1.000
ml cho mỗi giờ. Những dịch với nồng độ áp xuất thẫm thấu thấp
không nên dùng trong trị liệu dịch tả. |
|
6.
|
Bắt đầu cho trụ sinh (kháng sinh) ở bệnh nhân bị dịch tả nặng sau
khi đã bồi hoàn đủ những gì đã mất và bệnh nhân có thể uống nước
được. Một liều doxycycline 300 mg là điều trị tiêu chuẩn. Ngoài ra,
erythromycin, quinolone (như ciprocloxacine), zithromycin (Zithromax)
cũng rất hiệu quả nếu vi khuẩn tả kháng doxycycline. |
|
7.
|
Cho bệnh nhân xuất viện chỉ khi nào bệnh nhân có thể uống ít nhất
1 lít dung dịch điều trị hay nhiều hơn, bệnh nhân có lưu lượng
nước tiểu khoảng 40 ml mỗi giờ hay nhiều hơn, và bệnh nhân có
lượng tiêu chảy bằng hay ít hơn 400 ml mỗi giờ. |
|
Modified with permission from Seas C, DuPont HL, Valdez LM, et al:
Practical guidelines for the treatment of
cholera. Drugs 1996;51:966–973.
Như tôi đã đề cập ngay từ đầu là kháng sinh (trụ sinh) không phải là thuốc
cứu mạng bệnh nhân nhưng những dung dịch truyền tĩnh mạch hay uống là điều
trị chính. Dù không có trụ sinh nhưng chúng ta có đầy đủ vẫn điều trị dịch
tả hữu hiệu vì vi khuẩn sẽ chết dần và thải ra theo tiêu chảy. Kháng sinh
chỉ giúp làm ngắn thời gian điều trị bệnh tả thôi. Như tôi đã nhắc lại lời
giáo sư bác sĩ Trần Văn Bảng, trong lúc bệnh nhân có tiêu chảy nặng, thuốc
uống vào có thể không kịp tan ra hay chỉ tan ra một phần nào. Theo
Textbook of Medicine thì sự hiệu quả trong trường hợp này bị giảm đi một
nửa của sự hiệu quả của kháng sinh. Trong trường hợp của trẻ con,
zithromycin với liều 20 mg cho mỗi kí lô cân nặng, uống một liều thôi.
Người ta cũng thử nghiệm và cho thấy zithromycin với một liều 20 mg cho
mỗi kí lô cân nặng cũng có hiệu quả như điều trị với erythromycin trong 3
ngày. Chúng ta nên coi chừng chính zithromycin cũng gây ra tiêu chảy. Ở
người lớn, ta có thể cho 1 liều duy nhất của zithromycine 1.000 mg (4 viên
250 mg). Trong trường hợp người đàn bà mang thai, họ chỉ có thể uống
erythromycin hay furazolidone vì những kháng sinh khác có ảnh hưởng không
tốt cho thai nhi.
Hiện nay, người ta nhận thấy những vùng thường có những trận dịch tả, vi
khuẩn tả kháng doxycyclin. Cho nên, thuốc thay thế cho dịch tả ở những
quốc gia như Việt Nam hay các quốc gia Á Châu hay Phi Châu là kháng sinh
thuộc nhóm quinolone (Cipro, Avelox, Levaquin…) và zithromycin (Zithromax)
cho cả người lớn và trẻ con ngoại trừ đàn bà có thai. Hiện nay, nhiều quốc
gia thích xử dụng kháng sinh thuộc nhóm quinolone như Cipro để điều trị
cho dịch tả. Tuy nhiên, nhóm kháng sinh này chỉ được xử dụng cho người lớn
hơn 18 tuổi và chúng không nên xử dụng cho những người có bệnh gan, đặc
biệt là viêm gan siêu vi B và C mãn tính (chronic active hepatitis B or
C). Nhóm quinolone làm cho người bị bệnh gan mãn tính trở nên trầm trọng
hơn. Hơn nữa, kháng sinh thuộc nhóm quinolone thường đắc tiền nên chúng
trở nên không thực tế ở những quốc gia quá nghèo. Hơn nữa, quinolone có
thể làm hư hại sụn xương của trẻ con (cartilage damage in young children).
Mới gần đây, người ta phát hiện dòng vi khuẩn tả đề kháng quinolone ở Ấn
Độ.
Những thuốc chống nhu động của ruột như loperamide hay diphenoxylate,
thuốc giúp hấp thu (absorbents), thuốc chống đau (analgesics), thuốc chống
ói mữa (antiemetics) không nên dùng ở những bệnh nhân bị dịch tả. Những
thuốc chống bài tiết (antisecrectory drugs), bao gồm racecadotril, một
loại encephalinase inhibitor không giúp ích gì cho bệnh tả nặng. Uống
kháng sinh để ngừa bệnh cho những người trong gia đình của người bệnh tả
không nên dùng một cách thường xuyên mà chỉ nên theo hướng dẩn của bác sĩ.
PHÒNG NGỪA:
Bệnh dịch tả thường gây ra 75% bởi sự yếu kém của y tế công cộng như nguồn
nước không được tốt và kiểm soát thực phẩm chưa được tốt, và 25% do thói
quen xấu của người dân như không rửa tay với xà phòng trước khi sửa soạn
thức ăn và trước khi ăn, không nấu chín và đun sôi thực phẩm, trái cây
không rửa & lột vỏ trước khi ăn, và đi vệ sinh không đúng chỗ hay chỗ đi
vệ sinh không đúng tiêu chuẩn vệ sinh.
Có hai cách phòng ngừa:
1.
Vệ sinh về nguồn nước và thực phẩm
2.
Chũng ngừa
1/ Vệ sinh về nguồn nước và thực phẩm:theo nguyên tắc của Tổ Chức Y Tế
Quốc Tế (WHO) là “cook it, peel it, or leave it”.
·
Rửa tay thường xuyên mỗi khi làm một điều gì xong. Nhớ rửa với xà phòng.
Khi rửa tay bằng xà phòng, những chất hữu cơ có chứa vi khuẩn bám dính vào
da tay sẽ được tách ra bởi xà phòng. Chính xà phòng thông thường không
giết chết vi khuẩn nhưng nó tẩy sạch những ổ vi khuẩn dính trên tay.
·
Có nghĩa là nấu chín thực phẩm và ăn liền. Trước khi bưng đĩa thức ăn,
chúng ta phải rửa tay trước và tránh để ngón tay chạm vào trong thức ăn.
·
Rửa trái cây bằng nước sạch trước khi lột vỏ hay gọt bỏ những vỏ trái cây
·
Trong thời gian có dịch không nên ăn rau sống. Chỉ ăn rau luộc. Khi không
có dịch xảy ra, rửa rau bằng nước đã lọc rồi (ở Việt Nam, người ta lọc
bằng cát, đá vôi, và than cũng ngừa được những loài giáp xác đi vào cơ thể
ta). Sau khi lọc xong nên thêm vào chất chlorine vào nước để giết chết đi
các loài vi khuẩn.
·
Rau cải và trái cây không nên bón bằng những phân chưa được xử lý vô trùng
hay bón những hóa chất có hại cho cơ thể con người
·
Nước phải được lọc bằng bông gòn trước khi đun sôi.
·
Xử lý những chất thải, nôn ói, và phân, xa nguồn nước để tránh bị ô nhiễm.
Ta có thể đổ chloramines vào trước khi xử lý để bảo đảm không có sự đáng
tiếc xảy ra.
·
Chúng ta có lẻ không nên bắt tay bạn bè trong lúc dịch tả đang xảy ra và
chắc chắn phải rửa tay trước khi ăn uống.
·
Sau khi rửa chén bát xong, chúng ta nên đun nước sôi để ngâm chén bát
khoảng nửa giờ. Dùng máy rửa chén bát nếu chúng ta có.
·
Cho trẻ con dưới 12 tháng bú sữa mẹ giúp ngừa dịch tả cho những trẻ con
nhỏ này. Bú sữa mẹ, trẻ con dưới 12 tháng không tiếp xúc nước dơ hay thực
phẩm ô nhiễm. Sữa mẹ có những kháng thể giúp trẻ con có tiếp xúc với vi
khuẩn tả vì những người mẹ ở những vùng có dịch quanh năm (endemic) thường
đã có sự miễn dịch khi còn sống đến tuổi trưởng thành.
Chúng ta đưa ra những biện pháp phòng ngừa rất dễ nhưng khi thực hiện rất
khó. Đặc biệt ở những quốc gia nghèo khổ như ở Á Châu và Phi Châu. Hai
cách đun sôi & nấu chín và bỏ chloramines vào trong nước đều cần phải có
tiền và năng lượng. Cây để đốt khi nấu nướng sẻ đưa đến phá hủy môi trường
và nhiều nơi không còn cây để đốn. Điều này tạo ra những thiên tai như lụt
lội… Dầu hỏa thì quá đắt tiền, các quốc gia nghèo không thể mua cho tất cả
mọi người xử dụng. Cồn làm từ lúa gạo, mía hay những loại thực phẩm khác
có thể thay cho dầu hỏa. Trấu và mạc cưa là những phế liệu dùng để đốt nếu
không được tái biến chế. Trên căn bản những quốc gia nghèo không có đủ
thực phẩm thì lấy đâu để chế biến? Than đá cũng như dầu hỏa vì ô nhiễm và
không đủ cho những người dân trong quốc gia nghèo xử dụng. Năng lượng mặt
trời được coi như vô tận nhưng những mùa mưa làm không đủ cho người ta xử
dụng. Hơn nữa, dụng cụ để đón ánh nắng mặt trời thì vẫn còn quá đắt dù cho
mọi người dân ở những quốc gia tân tiến có thể mua được thì làm sao cho
người dân ở những quốc gia nghèo. Người chăn nuôi xử dụng kỹ thuật chứa
khí methane từ phân xúc vật cũng giúp được một phần nào đó. Nói chung,
chúng ta phải tiết kiệm năng lượng và xử dụng những nguồn năng lượng ít
tốn kém để tạo một đời sống ít bị những bệnh truyền nhiễm như dịch tả.
2/ Chúng ta có một phương tiện khác nữa để phòng ngừa dịch tả. Đó là chũng
ngừa. Loại thuốc chũng ngừa dùng để chích (tiêm) không còn được xử dụng
trên thế giới vì hiệu quả không đạt đến mức cần thiết. Hiện nay, có 2 loại
chũng ngừa dịch tả dùng để uống trên thế giới. Loại vi khuẩn tả đã được
làm bất động hay chết kèm theo nhánh độc tố B của vi khuẩn tả được tái tạo
(WC-BS: whole cell plus recombinant B subunit ) gồm 2 liều uống cách nhau
một tuần lễ như Dukoral được một được phòng ở Thụy Điển chế tạo. Loại này
tạo được tính miễn nhiễm lên đến 85% trong 6 tháng. Nếu người nào ở trong
vùng đang bị dịch tả phải uống then một liều cho mỗi 3 tháng.
Sau 3-5 năm, sự miễn nhiễm do thuốc này tạo ra chỉ còn 60% đặc biệt là ở
trẻ con sự hiệu quả sau 6 tháng bị giảm đi rất nhiều so với người lớn.
Theo Strickland: Hunter’s Tropical Medicine and Emerging Infectious
Diseases 8th edition xuất bản năm 2000 cho là loại thuốc uống
ngừa này không có nhánh độc tố B chỉ có hiệu quả 58% trong vòng 6 tháng
khi thử nghiệm ở Bangladesh vào năm 1985. Người ta thử thuốc này ở
Mozambique một cách rộng rãi cho thấy hiệu quả ngừa dịch tả 80% và ngừa
người có uống thuốc ngừa và không bị bệnh tả mất nước nặng lên đến 90%.
Thuốc chũng ngừa này làm gia tăng kháng thể IgA và IgG trong ruột. Ngoài
ra, thuốc ngừa này có phản ứng chéo (cross reaction) với độc tố của vi
khuẩn Escheria coli (Enterotoxigenic E. coli) do cơ cấu của độc tố tả và
của E. coli giống nhau nên uống thuốc ngừa này cũng ngừa được tiêu chảy do
Enterotoxigenic E. coli trong lúc đi du lịch tại những quốc gia như Việt
Nam. Do đó loại thuốc ngừa không có nhánh phụ B không ngừa được tiêu chảy
do E. coli.
Cách chế tạo thuốc uống ngừa Dukoral:
Thuốc ngừa này làm bằng 4 nhóm: Inaba và Ogawa của nhóm O1 cổ điển và nhóm
O1 Eltor được
ủ và nuôi trong nơi nuôi vi khuẩn lớn (large fermenters). Đo lường số
lượng 4 nhóm này bằng nhau. Khi nuôi vi khuẩn cũng như mang vi khuẩn ra
để giết đi và hòa lẩn với nhau phải được thực hiện trong một hệ thống có
thể làm vô trùng kín bằng hơi nóng (steam-sterilizable system) để tránh vi
khuẩn thoát ra ngoài và gây bệnh. Hai nhóm vi khuẩn được giết bằng hơi
nóng để có được những kháng nguyên lipopolysaccharides. Hai nhóm vi khuẩn
còn lại được giết bằng formalin để giữ lại kháng nguyên protein dễ bị hủy
hoại bởi hơi nóng. Nhánh phụ B của độc tố tả được sản xuất bởi loại vi
khuẩn tả bài tiết rất nhiều nhánh độc tố tả B nhưng thiếu di truyền tạo ra
nhánh độc tố phụ A (loại vi khuẩn tả này được tái tạo bằng công nghệ cao
về di truyền). Sau khi ủ và nuôi, vi khuẩn được tái tạo này được tinh lọc
và chỉ lấy những nhánh phụ độc tố B để pha vào hổn hợp 4 nhóm trên. Loại
thuốc uống ngừa tả này không có nhánh phụ A của độc tố tả nên không gây
tiêu chảy được. Dukoral được chế tạo theo công thức chất lỏng trắng đục
khoảng 3 ml (suspension) trong một ống thủy tinh. Mổi liều thuốc ngừa
chứa 100 tỉ con vi khuẩn với 1 mg nhánh phụ B của độc tố (recombinant CTB).
Ống thuốc ngừa được kèm theo 1 túi muối đệm (buffer salt) gồm sodium
hydrogen bicarbonate, citric acid, sodium carbonate, saccharin, sodium
citrate, và mùi vị raspberry. Khi trộn vào ống chứa thuốc ngừa, những hạt
nhỏ chất đệm trắng đục sẻ sủi bọt và tan đi. Sau đó, chúng ta có thể uống.
Nếu thuốc ngừa chưa uống, chúng ta phải giữ trong tủ lạnh ở nhiệt độ từ 2
độ C cho đến 8 độ C, và không được làm đông đặc.
Tuy nhiên, thuốc chích ngừa vẫn có giá trị cho những người nghèo ở trong
vùng bị dịch tả quanh năm (endemic areas) vì giá thành rẻ và hiệu quả cũng
đáng kể. Thuốc chũng ngừa này đã chích cho 1,5 triệu người trong những
vùng có dịch tả thường xuyên. Từ 1930 cho đến nay, dân của Ấn Độ được
chích ngừa bằng thuốc này và dịch tả ở vùng này đã được giảm rất nhiều.
Nên tôi đề cập ở đây. Thuốc chích ngừa tả với vi khuẩn đã chết (whole-cell
injectable vaccine). Nó bao gồm nhóm phụ Ogawa (thường là dòng cổ điển NIH
41) và Inaba (thường là dòng cổ điển NIH 35A3). Những dòng vi khuẩn tả này
được cấy trên thạch làm bằng đậu nành (trypticate soy agar). Vi khuẩn sau
đó được thu thập trong dung dịch muối (isotonic sodium chloride solution)
rồi giết chết những vi khuẩn này và giữ trong dung dịch 0,5% phenol. Dùng
kính hiển vi đếm lượng vi khuẩn (optical density measurements) mỗi dòng
khoảng 4 tỉ con (4 billions/ml) cho mỗi milliliter. Chích 2 liều cách nhau
1 tuần cho đến 1 tháng. Trẻ con từ 10 tuổi cho đến người lớn là 2 liều 0,5
ml. Trẻ con từ 6 tháng cho đến 4 tuổi là 0,2 ml mỗi liều. Trẻ con từ 5
tuổi cho đến 10 tuổi là 0,3 ml mỗi liều. Sau 6 tháng, người ta có thể
chích thêm một liều nửa. Khoảng 90% người được chích ngừa thuốc này có sự
gia tăng kháng thể chống vi khuẩn tả IgM, IgG, và IgA và giảm xuống sau 6
tháng.
Loại thuốc ngừa dùng để uống thứ 2 là uống 1 liều thôi. Họ xử dụng vi
khuẩn tả sống và không gây bệnh được nửa (live attenuated CVD 103-HgR
vaccine) đã được thử nghiệm rộng lớn và không hữu hiệu nên không ai dùng
đến.
Theo tài liệu của Tổ Chức Y Tế Quốc Tế, Việt Nam được chuyển nhượng kỹ
thuật để làm thuốc ngừa dịch tả để uống giống như thuốc ngừa Dukoral của
Thụy Điển. Theo The Lancet Infectious Diseases, Volume 2, Issue 4, xuất
bản tháng 4 năm 2002, nhà khoa học Đặng Đức Trạch và những cộng sự viên
của Viện Vệ Sinh và Phòng Dịch Quốc Gia tại Hà Nội đã chế thành công thuốc
này năm 1993 nhưng theo các tài liệu trên thế giới cho thấy nó chỉ có hiệu
quả 60%. Có nghĩa là quá thấp để được phòng ngừa hữu hiệu.
Theo tài liệu của Tổ Chức Y tế Quốc Tế, thuốc uống ngừa dịch tả thế hệ thứ
nhất của Việt Nam chỉ có vi khuẩn tả thuộc nhóm O1 được giết chết không có
nhánh phụ B của độc tố (first generation monovalent anti-O1), được thử
nghiệm ở Hà Nội và Huế cho thấy hửu hiệu ở người lớn là 66% và trẻ con là
68% (giãm bệnh tả nặng) khi trận dịch xảy ra 8-10 tháng sau khi người dân
được uống ngừa. Thế hệ thứ hai của thuốc ngừa, Việt Nam thêm vi khuẩn tả
thuộc nhóm O139 và tăng số lượng vi khuẩn cao hơn thuốc ngừa thế hệ thứ
nhất. Theo giáo sư David R. Hill của National Travel Health Network and
Centre, London, UK và London School of Hygien and Tropical Medicine,
Liverpool, UK trong Volume 6, Issue 6 (June 2006) của nguyệt san bệnh
truyền nhiễm The Lancet Infectious Diseases cho rằng hiệu qủa thuốc chũng
ngừa của Việt Nam được xem xét theo số lượng bệnh nhân bị nhập viện (bệnh
nặng) giãm đi so với những trận dịch trước đó, chứ không phải thuốc giúp
người ta ngừa bị mắc bệnh tả. Theo nhiều thử nghiệm khác nhau ở trên thế
giới, thuốc ngừa chế tạo theo cách thức của Việt Nam cho thấy kết quả từ
0% cho đến 70% tùy theo từng nơi thử nghiệm, và 60% là con số trung bình
của các nơi thử nghiệm và nhóm vi khuẩn tả gây bệnh. Sau 3-5 năm, thuốc
ngừa này mất hiệu lực chỉ còn 50% theo thử nghiệm ở Huế. Hà Nội trước đây
là nơi ít khi bị dịch tả, và Huế là nơi thường xảy ra dịch tả hơn. Cho
nên, khi phân tích những dữ kiện này, chúng ta phải tính số người đã có
bệnh trước đó và có miễn dịch với bệnh tả. Hiện nay, thuốc ngừa chế tạo
tại Việt Nam chỉ dùng tại Việt Nam thôi. Tổ Chức Y Tế Quốc Tế cho rằng
cách sản xuất của Việt Nam không theo GMP (theo Good Manufacturing
Practices) nhưng người ta theo phương pháp này và sản xuất tại Ấn Độ theo
GMP.
Thuốc có hiệu
quả ở trẻ con cao hơn người lớn. Thuốc chũng ngừa của Việt Nam giá rất rẻ,
chỉ có 20 cents US một liều so với Dukoral là 30-50 dollar cho mỗi liều.
Thuốc ngừa của Việt Nam chỉ có số vi khuẩn tả đã được làm bất động hay
chết. Thuốc chũng ngừa của Việt Nam ngừa cả nhóm vi khuẩn tả O1 và O139
còn được gọi là bivalent vaccine nhưng không ngừa được nhóm phụ O139 vì
nhóm vi khuẩn tả này thường có vỏ bao (capsule) nên những kháng thể trong
ruột con người không thể bám vào được (kháng thể chống lại kháng nguyên O
thôi chứ không chống lại vỏ vi khuẩn O139). Bác sĩ Edwards T. Ryan thuộc
Tropical and Geographic Medicine, Harvard Medical School, Boston, MA, USA
phát biểu với nguyệt san y học “The Lancet Infectious Diseases”: perhaps
future formulations of the vaccine could take that into account (Trong
tương lai, có lẽ nên nhớ điều này trong khi chế tạo thuốc chũng ngừa tả).
Thuốc ngừa tả của Việt Nam không có kháng nguyên của nhánh phụ độc tố B (cần
công nghệ cao của di truyền học) nên chỉ đạt đến tỉ lệ phòng ngừa thấp hơn
Dukoral. Điều này cho thấy người Việt có tài nhưng chưa có những phương
tiện công nghệ cao. Dù kết quả thấp nhưng thuốc ngừa tả của Việt Nam có
một ảnh hưởng sâu rộng ở những nước nghèo vì giá thành của sản phẩm rất rẻ,
vừa túi tiền của quốc gia nghèo. Những người từ các quốc gia như
Bắc Mỹ hay Âu Châu không cần phải uống thuốc ngừa dịch tả nếu không đi vào
vùng đang có dịch. Nếu người đi du lịch vào vùng đang có dịch tả nên phòng
ngừa với Dukoral.
Thuốc chích ngừa tả được xử dụng rộng rãi trước kia, nay không được xử
dụng nữa vì hiệu quả thấp. Khi chích thuốc ngừa, kháng thể IgM và IgG
trong máu tăng lên rất cao nhưng nó không có tác dụng khi vi khuẩn tả chỉ
sinh sản, gây bệnh ngay trong ruột, và không xâm nhập vào màng nhầy của
ruột. Thuốc uống ngửa tả làm tăng những kháng thể IgA trong ruột lên cao
nên thuốc uống ngừa tả hữu hiệu hơn. Ngày nay nhờ vào công nghệ di truyền
cao, người ta phân tích và đọc được cơ cấu của vi sinh vật và những độc tố
của chúng nên những quan niệm về bệnh nhiễm trùng đã thay đổi rất nhiều.
Những thuốc chũng ngừa hiện nay căn cứ vào những kiến thức mới này nên rất
hiệu quả. Ví dụ như Dukoral dùng tái tổng hợp nhánh phụ độc tố B cho nên
có hiệu quả cao, thuốc chũng ngừa cúm mới của Mỹ dùng kháng nguyên là chất
đạm M2 của vỏ bọc siêu vi cúm (đạm M2 không thay đổi như đạm H và đạm N)
nên sau này chúng ta chỉ cần chũng ngừa cúm một lần thôi và không sợ đại
dịch cúm nửa.


Thuốc
chích ngừa dịch tả tuy có hiệu quả thấp nhưng khi tiêm phòng cho những
người ở vùng dịch tả xảy ra quanh năm cũng rất tốt. Người ta thí nghiệm ở
Matlab, Bangladesh vào cuối thập niên 1980 cho thấy: chỉ cần chũng ngừa
50% dân số thì 89% trường hợp dịch tả giảm trong những người chưa được
chũng ngừa ở trong vùng đó, và giảm 93% những trường hợp dịch tả trong
toàn dân số ở vùng đó. Tôi đưa vấn đề thuốc ngừa dịch tả ra để bàn cải sâu
rộng vì nó liên quan đến sự sống còn của một quốc gia, dân tộc. Vì còn có
những quốc gia trên thế giới vẫn còn chế tạo võ khí sinh học (biologic
weapons), nên việc ngừa bệnh cũng là một việc bảo vệ và phòng thủ quốc gia.
Việt Nam phải gấp rút tiếp nhận công nghệ cao về di truyền học để bảo vệ
cho mình.
Kết luận là hiệu quả của thuốc chũng ngừa cho đến nay vẫn còn hạn hẹp. Cho
nên, biện pháp vệ sinh cá nhân vẫn được coi là chính. Ngoài ra, sự điều
trị đạt đến kết quả cao, tỉ lệ tử vong là 1%. Ai muốn ở trong tỉ lệ này?
NHỮNG VÙNG SÂU VÀ XA:
Ở những vùng sâu vùng xa, họ thiếu những phương tiện y tế hiệu quả và
phương tiện đem bệnh nhân ra thành phố để điều trị kịp thời. Sau khi đọc
bài “The Burden of Rotavirus Diarrhea in Khanh Hoa Province, Viet Nam”,
tôi quyết định viết bài này. Trong bài báo tôi vừa đề cập trên các bác sĩ
người Việt cũng như người ngoại quốc cho rằng “có những nơi trong
quận Ninh Hòa xa bệnh viện nên những trẻ
con bị tiêu chảy cấp khó mà cấp cứu kịp thời”. Tôi hy vọng những kiến thức
này giúp cho các chuyên viên y tế quận Ninh Hòa có thể giúp các trẻ con
hữu hiệu hơn.
Sau đây là những dụng cụ để thành lập trạm xá
tại những vùng sâu vùng xa để chữa trị dịch tả cho trẻ con cho kịp thời.
Những
Tiếp Liệu Cần Thiết
Cho Những Cơ Sở Điều Trị Dịch Tả
Dịch
truyền tĩnh mạch (5–10 Lít/1 bệnh nhân) |
Ống
Chích 5–10 mL |
Kim
chích số 18 cho người lớn và số 21- đến 23 cho trẻ con |
Băng
keo, những miếng gổ dẹp mõng để giử tay khi truyền dịch, cây cột để
treo túi dịch truyền |
Những
kim cánh bướm để chích tĩnh mạch ở tay hay da đầu của trẻ con |
Ống
thông từ mủi xuống dạ dày khi bệnh nhân không thể uống hay chích kim
vào tĩnh mạch |
Những
túi dịch để uống (10–15 túi 1 lít cho mỗi bệnh nhân) |
Những
chai lọ 500 mL hay 1 lít để đựng dịch uống (oral rehydration solution)
|
Nước
sạch để pha dịch để uống (oral rehydration solution) |
Những
kháng sinh hữu hiệu để trị dịch tả (dùng zithromycin, erythromycin, và
furazolidone) |
Bộ
phận lọc thận (Kidney dishes) |
Đèn
sưởi ấm (Spirit lamps) |
Đèn
pin hay đèn bảo(or hurricane lantern) |
Bông
gòn |
Cồn
(Alcohol) |
Xà
phòng |
Thuốc
tẩy trùng (chloramines) |
Bột
tẩy (Bleaching powder) |
Nếu
có thể: |
Lều
và giường (có lổ để bệnh nhân đi cầu)cho bệnh nhân dịch tả nằm (Cholera
cots) |
Những
miếng bạt bằng nhựa (Plastic drain sheets) |
Thùng
nhỏ bằng nhựa có quai để mang đi (Plastic buckets) |
Cái
cân (Patient scales) |
Cách Chế Tạo 1 lít Dung Dịch để Uống Cho Bệnh Nhân
Những Chất Trong Dung Dịch |
Cân
Nặng (gram) |
Sodium chloride |
3.5 |
Trisodium citrate, dihydrate |
2.9 |
hay |
|
Sodium hydrogen carbonate (sodium bicarbonate) |
2.5 |
Potassium chloride |
1.5 |
Glucose, anhydrous
†
‡
|
20.5 |
Công
Thức Này được Tổ Chức Y Tế Quốc Tế đưa ra |
|
† Hay
glucose, monohydrate, 22 g; hay sucrose 4 g.
‡
50 grams bột
gạo có thể
thay thế 20 grams glucose. Khi làm bằng bột
gạo, bỏ
vào 1.100 ml nước lọc
50 grams bột gạo
và đem đi đun sôi. Đun vào khoảng
7 phút cho đến khi nước
đục như
sữa. Để
cho nước nguội
xuống, rồi
bỏ thêm vào 3 loại
muối
nêu trên. Hâm hơi
ấm
trước khi cho bệnh
nhân uống.
Nếu dung dịch
để lâu qúa 8 giờ
nên đổ
đi và làm lại dung dịch
mới
Hoặc lấy
1 lít nước sạch, đun sôi để nguội: cho thêm vào 5 grams sodium chloride (1
muỗng cà phê gạt ngang muối ăn) 50 grams bột gạo nấu vừa chín hay 40 grams
sucrose (đường cát trắng). Khi uống, thêm vào potassium ở dạng nước cam
hay nước cốt dừa (coconut milk). Có thể cho thêm 10 mmol/L citrate (sẻ
được 30 mmol/L bicarbonate/HCO3-)
Để tránh
trường hợp truyền tỉnh mạch dung dịch Lactate Ringer tạo đường huyết của
người bệnh bị giãm, phải cho vào dịch này 50 grams Dextrose mổi lít (5%,
277 mmol/L)
Bồi Hoàn
Mất Nước cho Trẻ Con Bị Dịch Tả
Cho Bệnh Nhân Bị Mất Nước Nặng, 10% hay nhiều hơn |
•
Cho
dịch truyền tỉnh mạch tức thì. Dùng Ringer's lactate (hoặc, nếu không
có sẳn thì dùng dung dịch muối sinh lý/normal saline 0,9%) thêm vào đó
glucose và potassium. Nếu bệnh nhân có thể uống nên bắt đầu cho uống
trong khi truyền dịch theo phương pháp dưới đây: |
•
Tuổi ≥1 năm, cho 100 ml/kg vào tỉnh mạch trong 3 giờ: |
30
ml/kg (nhanh chóng) trong 30 phút, rồi thì |
70
ml/kg trong 2 -2½ giờ tiếp theo đó |
• Nếu
tuổi <1 year, cho 100 ml/kg vào tỉnh mạchtrong 6 giờ: |
30
ml/kg (nhanh chóng) trong giờ đầu tiên, rồi thì |
70
ml/kg trong 5 giờ theo sau đó |
• Nếu
cho trong 1 giờ đầu tiên 30 ml/kg mạch ở cổ tay (the radial pulse)
không mạnh, tiếp tục cho dịch truyền tỉnh mạch thật nhanh (mở khoá cho
dịch chảy tự do). |
• Bắt
đầu cho dịch uống, theo nhịp điệu 5 ml/kg cân nặng/mổi giờ, ngay khi
bệnh nhân có thể uống được(trong khi vẩn truyền tỉnh mạch) |
•
Khám nghiệm và đánh giá bệnh nhân sau 3 giờ (ở trẻ con dưới 2 tuổi sau
6 giờ) |
•
Nếu tình trạng mất nước còn nặng (10% hay nhiều hơn), làm lại những
giai đoạn trên. |
•
Nếu mất nước vẩn còn nhưng ít hơn 10% thì theo những giai đoạn kế tiếp
dưới đây. |
•
Nếu không còn mất nước, tiếp tục theo giai đoạn dưới đây. |
Cho những bệnh nhân mất nước vừa phải: |
Trung
bình số lượng dịch uống cho trong 4 giờ đầu: |
Tuổi |
Nhỏ
hơn 4 tháng |
4–11
tháng |
12–23
tháng |
2–4
năm |
5–14
năm |
15
tuổi hay lớn hơn |
Cân nặng |
Ít
hơn 5 kg |
5–7,9
kg |
8–10,9 kg |
11–15,9 kg |
16–29,9 kg |
30 kg
hay nặng hơn |
Dịch uống tính theo ml |
200–400 |
400–600 |
600–800 |
800–1200 |
1200–2200 |
2200–4000 |
•
Dùng tuổi nếu không biết cân nặng là bao nhiêu. Tính số lượng dịch
uống theo ml có thể tính bằng cân nặng (kg) nhân cho 75 ra số lượng
dịch cần phải uống |
• Nếu
bệnh nhân đi tiêu chảy như nước lả hay chúng ta thấy cần cho thêm thì
cứ việc cho thêm. Luôn luôn theo dỏi sát. |
•
Khám nghiệm và đánh giá tình trạng bệnh nhân trở lại sau 4 giờ |
•
Nếu vẩn còn mất nước nặng, trị liệu theo ở trên. |
•
Nếu vẩn còn mất nước từ 5%cho đến dưới 10%, cho bệnh nhân uống theo
phương pháp trên. |
•
Nếu không còn mất nước, theo phương pháp dưới đây. |
Cho những người không còn mất nước hay mất nước nhẹ (dưới 5%) |
Dịch để bảo trì (Maintenance fluid) |
Tuổi |
Số
lượng dịch cho uống sau mổi lần tiêu chảy (phân sền sệt) |
Ít
hơn 24 tháng |
50–100 ml |
2–9
năm |
100–200 ml |
10
năm hay lớn hơn |
Cho
dịch để uống nếu bệnh nhân muốn uống |
Theo dỏi và tái đánh giá thường xuyên |
Nếu
một bệnh nhân không thể uống, bị ói mữa thường xuyên, hay bụng bị
phình ra, ngưng uống dịch bồi hoàn và cho truyền dịch tỉnh mạch, 50
ml/kg cân nặng trong 3giờ, rồi sau đó cố gắng cho uống dịch bồi hoàn
trở lại. |
Nếu
muốn cho uống kháng sinh, phải cho uống qua miệng theo liều lượng đề
cập dưới đây sau khi bệnh nhân được cho truyền dịch vào tỉnh mạch
trong 4-6 giờ, và sau khi ói mữa ngừng. |
Modified from World Health Organization. Management of the patient with
cholera, World Health Organization Emergency and Other Communicable
Diseases, Surveillance and Control, WHO/CDD/SER/91.15 Rev.1 Surveillance
and Response Web site]. Available at:
www.who.int/csr/resources/publications/cholera/
who_cdd_ser_91_15/ent
accessed 4/28/03.
Kháng
Sinh và Liều Lượng để Điều Trị Dịch tả
Kháng Sinh |
Liều Lượng |
Người Lớn |
Trẻ
Con |
Tetracycline |
500
mg, 4 lần/ngày cho 3 ngày |
50
mg/kg cân nặng cơ thể, 4 lần/ngày, 3 ngày |
Doxycycline |
300
mg chỉ cần 1 liều |
Không
nên dùng |
Furazolidone |
100
mg, 4 lần/ngày trong 3 ngày |
5
mg/kg mỗi ngày chia làm 4 lần cho 3 ngày hoặc 7 mg/kg chỉ 1 liều |
Cotrimoxazole |
160
mg trimethoprim/800 mg sulfamethoxazole, 2 lần/ngày cho 3 ngày |
8 mg
trimethoprim-40 mg sulfamethoxazole/kg chia làm 2 liều/ngày cho 3 ngày |
Norfloxacin |
400
mg 2 lần/ngày cho 3 ngày |
Không
nên dùng |
Ciprofloxacin |
250
mg/ngày cho 3 ngày |
Không
nên dùng |
1 g
trong 1 liều |
Không
nên dùng |
|
From
Seas C, DuPont HL, Valdez LM, et al. Practical guidelines for the
treatment of cholera. Drugs. 1996;51:966–973.
Điều trị
dịch tả không khó nhưng khó ở chỗ phải điều trị kịp thời. Khi người bác sĩ
hay y tá nhìn thấy một bệnh nhân bị mất nước nặng, việc đầu tiên là cấm
một cây kim vào tĩnh mạch và truyền lactate ringer liền trước khi làm
những khám nghiệm lâm sàng hay thử nghiệm.
Những
điều tôi đã trình bày trên, hy vọng sẻ giúp một phần nào cho ai đó cần đến
những kiến thức này trong một mùa xuân an lành và thịnh vượng.
Viết xong ngày 2 tháng 2 năm 2008.
BS
Nguyễn
Vĩ
Liệt
References:
1/ CHOLERA AND OTHER VIBRIO INFECTIONS
Eduardo Gotuzzo Carlos Seas
Goldman:
Cecil Medicine, 23rd ed.
Copyright ©
2007 Saunders
2/
Vibrio cholera
CARLOS SEAS EDUARDO GOTUZZO
Mandell, Bennett, & Dolin: Principles and Practice of Infectious
Diseases, 6th ed.
Copyright ©
2005 Churchill Livingstone
3/ Diarrhea
Lawrence R. Schiller Joseph H. Sellin
Feldman:
Sleisenger & Fordtran's Gastrointestinal and Liver Disease, 8th ed.
Copyright ©
2006 Saunders
4/ Cholera and Other Vibrioses
M.
John Albert
J. Glenn Morris Jr.
Strickland: Hunter's Tropical Medicine and Emerging Infectious Diseases,
8th ed.
Copyright ©
2000 W. B. Saunders Company
5/
Cholera
MANOJ
P MENON
ERIC MINTZ
Arguin:
CDC Health Information for International Travel 2008, 1st ed.
Copyright ©
2007 Mosby
6/
CHOLERA
Edward T. Ryan Mohammed Abdus Salam
Gershon:
Krugman's Infectious Diseases of Children, 11th ed.
Copyright ©
2004 Mosby, Inc.
7/
Cholera (Vibrio cholerae)
Gloria P. Heresi
James R. Murphy
Behrman:
Nelson Textbook of Pediatrics, 17th ed.
Copyright ©
2004 Saunders
8/
Cholera
Vaccines
DAVID A. SACK DENNIS R. LANG
Plotkin: Vaccines, 4th ed.
Copyright ©
2004 Saunders
9/ Weekly epidemiological record
Relevé épidémiologique hebdomadaire
20 APRIL 2001, 76th YEAR / 20 AVRIL 2001, 76e ANNÉE
No. 16,
2001,
76,
117–124
http://www.who.int/wer
World
Health Organization
10/
Cholera: Basic facts
World
Health Organization
11/
Cholera prevention and control
World
Health Organization
12/
Antimicrobial resistance in developing countries. Part I: recent trends
and
current
status
The
Lancet Infectious Diseases
Volume 5, Issue 8 (August 2005)
Copyright © 2005
Iruka N Okeke
Ramanan Laxminarayan
Zulfiqar
A Bhutta
Adriano G Duse
Philip Jenkins
Thomas F O'Brien
Ariel Pablos-Mendez
Professor Keith P Klugman
13/
Bacterial genome sequencing and its use in infectious diseases
The Lancet Infectious Diseases
Volume 7, Issue 11 (November 2007)
Pierre-Edouard Fournier, MD
Michel Drancourt, Prof, MD
Didier Raoult, Prof, MD
14/
Important Bacterial Gastrointestinal Pathogens in Children: A Pathogenesis
Perspective
Pediatric Clinics of North America
Volume 52, Issue 3 (June 2005)
Copyright © 2005 W. B. Saunders Company
Manuel R. Amieva, MD, PhD
15/
A
Bayesian Approach to Acute Infectious Diarrhea in Adults
Gastroenterology Clinics
Volume 35, Issue 2 (June 2006)
Copyright © 2006 W. B. Saunders Company
Richard Goodgame, MD
16/
A
millennium update on pediatric diarrheal illness in the developing world
Seminars in Pediatric Infectious Diseases
Volume 16, Issue 2 (April 2005)
Copyright © 2005 W. B. Saunders Company
Miguel
O’Ryan, MD
Valeria Prado, MD
Larry K. Pickering, MD, FAAP
17/
An
analysis of the current status of hospital emergency preparedness
for infectious disease outbreaks in Beijing, China
American Journal of Infection Control
Volume 35, Issue 1 (February 2007)
Copyright © 2007 Association for Professionals in Infection Control and
Epidemiology,
Inc
Zhang Hui, PhD
Huang Jian-Shi, MD
He Xiong, MB
Lv Peng, MB
Qiu Da-Long, MD
18/
Antibiotics--Past, Present, and Future
Medical Clinics of North America
Volume 90, Issue 6 (November 2006)
Copyright © 2006 W. B. Saunders Company
Nancy Khardori, MD,
PhD
19/
Antimicrobial resistance in developing countries. Part I: recent trends
and
current
status
The Lancet Infectious Diseases
Volume 5, Issue 8 (August 2005)
Copyright © 2005
Iruka N Okeke
Ramanan Laxminarayan
Zulfiqar A Bhutta
Adriano G Duse
Philip Jenkins
Thomas F O'Brien
Ariel Pablos-Mendez
Professor Keith P Klugman
20/
Antimicrobial resistance prevention initiative--an update: Proceedings of
an
expert
panel on resistance
American Journal of Infection Control
Volume 35, Issue 9 (November
2007)
Copyright © 2007 Association for
Professionals in Infection Control and Epidemiology, Inc.
Robert C. Moellering , Jr., MD
John R. Graybill, MD
John E. McGowan , Jr., MD
Lawrence Corey, MD
21/
Antimicrobial Resistance Prevention Initiative--An Update: Proceedings of
an
Expert
Panel on Resistance
The
American Journal of Medicine
Volume 120, Issue 7 (July 2007)
Copyright © 2007 Excerpta Medica
Robert
C. Moellering , Jr., MD
John R. Graybill, MD
John E. McGowan , Jr., MD
Lawrence Corey, MD
22/
Breast
Milk
Reduces the Risk of Illness in Children of Mothers With
Cholera
Observations: From an Epidemic of Cholera in Guinea-Bissau
Pediatric Infectious Disease Journal
Volume 25, Issue 12 (December 2006)
Copyright © 2006 Williams & Wilkins
Katja Qureshi, MD
Kåre Mølbak, DMSc
Anita Sandström, PhD
Poul-Erik Kofoed, DMSc
Amabelia Rodrigues, PhD
Francisco Dias, MD
Peter Aaby, DMSc
Ann-Mari Svennerholm, MD, PhD
23/
Cholera O139 comeback in Bangladesh
The Lancet Infectious Diseases
Volume 3, Issue 10 (October 2003)
Copyright © 2003 Elsevier
Adrian Burton
24/
Cholera vaccines
The
Lancet Infectious Diseases
Volume 7, Issue 3 (March
2007)
Shahjahan Kabir
25/
Cholera vaccines - Authors' reply
The Lancet Infectious Diseases
Volume 7, Issue 3 (March 2007)
Lisa Ford
David G Lalloo
David R Hill
26/
CHOLERA-LIKE DIARRHEA AND SHOCK ASSOCIATED WITH COMMUNITY-
ACQUIRED
METHICILLIN-RESISTANT STAPHYLOCOCCUS AUREUS (USA400
CLONE)
PNEUMONIA
Pediatric Infectious Disease Journal
Volume 26, Issue 3 (March 2007)
Copyright © 2007 Williams & Wilkins
Allison Agwu, MD
Ken M. Brady, MD
Tracy Ross, BS, MT
Karen C. Carroll, MD
Neal A. Halsey, MD
27/
Deaths From Rotavirus Disease in Bangladeshi Children: Estimates From
Hospital-Based Surveillance
Pediatric Infectious Disease Journal
Volume 26, Issue 11 (November 2007)
Copyright © 2007 Williams & Wilkins
Go Tanaka, MD, MPH
A.S.G. Faruque, MBBS, MPH
Stephen P. Luby, MD
MA. Malek, MSc
Roger I. Glass, MD, MPH, PhD
Umesh D. Parashar, MD, MPH
28/
Distribution and immunohistochemical characterization of primary afferent
neurons
innervating the levator ani muscle of the female squirrel monkey
American Journal of Obstetrics and Gynecology
Volume 195, Issue 4 (October 2006)
Copyright © 2006 Mosby, Inc.
Lisa
M. Pierce, DSc
Michelle R. Rankin, BA
Raymond T. Foster, MD
Paul C. Dolber, PhD
Kimberly W. Coates, MD
Thomas J. Kuehl, PhD
Karl B. Thor, PhD
29/
Earthquake survivors face threat from infectious diseases
The Lancet Infectious Diseases
Volume 5, Issue 12 (December 2005)
Khabir Ahmad
30/
Ecological approach to cholera control pays dividends
The Lancet Infectious Diseases
Volume 3, Issue 3 (March 2003)
Jane Bradbury
31/
Emerging Natural Threats and the Deliberate use of Biological Agents
Clinics in Laboratory Medicine
Volume 26, Issue 2 (June 2006)
Copyright © 2006 W. B. Saunders Company
Michael
I. Greenberg, MD
Aileen M. Marty
32/
Epidemics After Natural Disasters
Pediatric Infectious Disease Journal
Volume 26, Issue 6 (June 2007)
Copyright © 2007 Williams & Wilkins
Robert J. Leggiadro, MD
33/
Experience of a global laboratory network in responding to infectious
disease
epidemics
The Lancet Infectious Diseases
Volume 6, Issue 9 (September 2006)
Jean-Paul Chretien
David L Blazes
Joel C Gaydos
Sheryl A Bedno
Rodney L Coldren
Randall C Culpepper
David J Fyrauff
Kenneth C Earhart
Moustafa M Mansour
Jonathan S Glass
Michael D Lewis
h
Bonnie L Smoak
d
Joseph L Malone
34/
Experience of a global laboratory network in responding to infectious
disease
epidemics
The Lancet Infectious Diseases
Volume 6, Issue 9 (September 2006)
Jean-Paul Chretien
David L Blazes
Joel C Gaydos
Sheryl A Bedno
Rodney L Coldren
Randall C Culpepper
David J Fyrauff
Kenneth C Earhart
Moustafa M Mansour
Jonathan S Glass
Michael D Lewis
Bonnie L Smoak
Joseph L Malone
35/
Global Pediatric Environmental Health
Pediatric Clinics of North America
Volume 54, Issue 2 (April 2007)
Copyright © 2007 W. B. Saunders Company
Tee L. Guidotti, MD,
MPH, DABT
Benjamin A. Gitterman, MD, FAAP
36/
Hepatitis E and cholera outbreak in Kathmandu
Canadian Medical Association Journal
Volume 175, Issue 8 (October 2006)
Copyright © 2006 Canadian Medical Association
37/
Home-grown Vietnamese cholera vaccine “completely safe”
The Lancet Infectious Diseases
Volume 2, Issue 4 (April 2002)
Mary Quirk
38/ Earthquake survivors face threat from infectious diseases
The Lancet Infectious Diseases
Volume 5, Issue 12 (December 2005)
Khabir Ahmad
39/ Ecological approach to cholera control pays dividends
The Lancet Infectious Diseases
Volume 3, Issue 3 (March 2003)
Jane Bradbury
40/
Bioterrorism and Bioterrorism Preparedness: Historical Perspective and
Overview
Infectious Disease Clinics of North America
Volume 20, Issue 2 (June
2006)
Copyright © 2006 W. B.
Saunders Company
Nancy Khardori,
MD, PhD
41/
Epidemics After Natural Disasters
Pediatric Infectious Disease Journal
Volume 26, Issue 6 (June 2007)
Copyright © 2007 Williams &
Wilkins
Robert
J. Leggiadro, MD
42/
Experience of a global laboratory network in responding to infectious
disease
epidemics
The Lancet Infectious Diseases
Volume 6, Issue 9 (September
2006)
Jean-Paul Chretien
David L Blazes
Joel C Gaydos
Sheryl A Bedno
Rodney L Coldren
Randall C Culpepper
David J Fyrauff
Kenneth C Earhart
Moustafa M Mansour
Jonathan S Glass
Michael D Lewis
Bonnie L Smoak
Joseph L Malone
43/
Global Pediatric Environmental Health
Pediatric Clinics of North America
Volume 54, Issue 2 (April 2007)
Copyright © 2007 W. B. Saunders
Company
Tee L. Guidotti, MD, MPH, DABT
Benjamin A. Gitterman, MD, FAAP
44/
Hepatitis E and cholera outbreak in Kathmandu
Canadian Medical Association Journal
Volume 175, Issue 8 (October 2006)
Copyright © 2006 Canadian Medical Association
45/
Home-grown Vietnamese cholera vaccine “completely safe”
The Lancet Infectious Diseases
Volume 2, Issue 4 (April 2002)
Mary Quirk
46/
The Burden of Rotavirus Diarrhea in Khanh Hoa Province, Vietnam: Baseline
Assessment for a Rotavirus Vaccine Trial
Pediatric Infectious Disease Journal
Volume 25, Issue 1 (January
2006)
Copyright © 2006 Williams &
Wilkins
Dang Duc Anh, MD
Vu Dinh Thiem, MD
Thea K. Fischer, MD
Do Gia Canh, MD
Truong Tan Minh, MD
Le Huu Tho, MD
Nguyen Van Man, MD
Le Thi Luan, MD
Paul Kilgore, MD
Lorenz von Seidlein, MD
Roger I. Glass, MD
47/
Mass
vaccination could control endemic cholera
The Lancet Infectious Diseases
Volume
8, Issue 1 (January 2008)
Emma Wilkinson
48/ What makes a Vibrio cholerae pandemic?
The Lancet Infectious Diseases
Volume 2, Issue 3 (March 2002)

BS
Nguyễn
Vĩ
Liệt
---š
{ › ---
