Trong một năm chúng ta có rất nhiều ngày lễ hội nhưng có lẽ
thắng hội Vu Lan là lễ quan trọng nhất v́ đây là dịp tất cả mọi người
chúng ta không riêng ǵ những người theo Phật giáo có dịp lắng ḷng để
biết ơn cha mẹ, đền đáp công lao trời biển cha mẹ, cúng dường bố thí
và hành thiện tránh ác... Vu Lan được tổ chức trọng thể hàng năm vào
tháng bảy âm lịch.
Rằm tháng 7 Âm lịch hàng năm là ngày xá tội vong nhân, dân
gian gọi một cách nôm na là ngày cúng cô hồn. Nhưng đây cũng c̣n là
ngày báo hiếu mà giới tăng ni Phật tử gọi là ngày lễ Vu Lan. Vậy lễ
này và lễ cúng cô hồn có phải là một hay không ? Và đâu là xuất xứ của
hai tiếng " Vu Lan " ?
Lễ Vu Lan bắt nguồn từ sự tích về ḷng hiếu thảo của Ông Ma Ha
Một Đặc Già La, thường gọi là Đại Mục Kiền Liên, gọi tắt là Mục Liên.
Vốn là một tu sĩ khác đạo, về sau Mục Liên đă quy y và trở thành một
đệ tử lớn của Phật, đạt được sáu phép thần thông rồi được liệt vào
hạng thần thông đệ nhất trong hàng đệ tử của Phật. Sau khi đă chứng
quả A La Hán, Mục Liên ngậm ngùi nhớ đến mẫu thân, bèn dùng huệ nhăn
nh́n xuống các cơi khổ mà t́m th́ thấy mẹ đă đọa vào kiếp ngạ quỷ (quỷ
đói) nơi địa ngục A T́. Thân h́nh tiều tụy, da bọc xương, bụng ỏng đầu
to, cổ như cọng cỏ. Mẹ Mục Liên đói không được ăn, khát không được
uống. Quá thương cảm xót xa, Mục Liên vận dụng phép thần thông, tức
tốc đến chỗ mẹ. Tay bưng bát cơm dâng mẹ mà nước mắt lưng tṛng. Mẹ
Mục Liên v́ đói khát lâu ngày nên giật vội bát cơm mà ăn. Tay trái
bưng bát, tay phải bốc cơm nhưng chưa vào đến miệng th́ cơm đă hóa
thành lửa. Mục Liên đau đớn vô cùng, khóc than thảm thiết rồi trở về
bạch chuyện với Đức Phật để xin được chỉ dạy cách cứu mẹ.
Phật cho Mục Liên biết v́ nghiệp chướng của các kiếp trước mà
mẹ ông mới phải sanh vào nơi ác đạo làm loài ngạ quỷ. Một ḿnh Mục
Liên th́ vô phương cứu được mẹ dù ông có thần thông đến đâu và dù ḷng
hiếu thảo của ông có thấu đến đất trời, động đến thần thánh. Phải nhờ
đến uy đức của chúng tăng khắp các nẻo đồng tâm hiệp ư cầu xin cứu rỗi
cho mới được. Bởi vậy, Phật dạy Mục Liên phải thành kính đi rước chư
tăng khắp mười phương về, đặc biệt là các vị đă chứng được bốn quả
thánh hoặc đă đạt được sáu phép thần thông. Nhờ công đức cầu nguyện
của các vị này, vong linh mẹ Mục Liên mới thoát khỏi khổ đạo. Phật lại
dạy Mục Liên sắm đủ các món để dâng cúng các vị ấy, nào là thức thức
thời trân, hương dâu đèn nến, giường chơng chiếu gối, chăn màn quần
áo, thau rửa mặt, khăn lau tay cùng các món nhật dụng khác. Đúng vào
ngày rằm tháng 7 th́ lập trai đàn để cầu nguyện, thiết trai diên để
mời chư tăng thọ thực. Trước khi thọ thực, các vị này sẽ tuân theo lời
dạy của Đức Phật mà chú tâm cầu nguyện cho cha mẹ và ông bà bảy đời
của thí chủ được siêu thoát. Mục Liên làm đúng như lời Phật dạy. Quả
nhiên vong mẫu của ông được thoát khỏi kiếp ngạ quỷ mà sanh về cảnh
giới lành. Cách thức cúng dường để cầu siêu đó gọi là Vu Lan bồn pháp,
lễ cúng đó gọi là Vu Lan bồn hội, c̣n bộ kinh ghi chép sự tích trên
đây th́ gọi là Vu Lan bồn kinh.
Vu-lan(chữ Hán:
盂蘭; sa. ullambana), hay c̣n gọi là Tết Trung nguyên, là một
trong những ngày lễ chính của Phật giáo, c̣n được hiểu là lễ báo hiếu.
Ngày này c̣n được gọi là Xá tội vong nhân. Vào ngày này, mọi tù nhân ở
Địa ngục đều được xá tội, được lên Dương gian. Theo tín ngưỡng dân
gian, là ngày mở cửa ngục, các vong nhân được xá tội nên có lễ cúng Cô
Hồn (vào buổi chiều) cho các vong linh không nhà cửa không nơi nương
tựa, không có thân nhân trên Dương thế thờ cúng.
Vu-lan (chữ Hán:
盂蘭; sa. ullambana) là từ viết tắt của Vu-lan-bồn (盂蘭盆),
cũng được gọi là Ô-lam-bà-noa (烏藍婆拏),
là cách phiên âm Phạn-Hán từ danh từ ullambana. Ullambana có gốc từ
động từ ud-√lamb, nghĩa là "treo (ngược) lên". Thế nên các dịch giả
Trung Quốc cũng dùng từ Đảo huyền (倒懸),
"treo ngược lên" cho từ Vu-lan, chỉ sự khổ đau kinh khủng khi sa đoạ
Địa ngục
Xuất phát từ truyền thuyết về Bồ tát Mục Kiền Liên đại hiếu đă
cứu mẹ của ḿnh ra khỏi kiếp ngạ quỷ. Vu Lan là ngày lễ hằng năm để
tưởng nhớ công ơn cha mẹ (và tổ tiên nói chung) - cha mẹ của kiếp này
và của các kiếp trước.
Theo kinh Vu Lan th́ ngày xưa, Mục Kiền Liên đă tu luyện thành
công nhiều phép thần thông. Mẫu thân ông là bà Thanh Đề đă qua đời,
ông tưởng nhớ và muốn biết bây giờ mẹ như thế nào nên dùng mắt phép
nh́n khắp trời đất để t́m. Thấy mẹ ḿnh, v́ gây nhiều nghiệp ác nên
phải sanh làm ngạ quỷ, bị đói khát hành hạ khổ sở, ông đă đem cơm
xuống tận cơi quỷ để dâng mẹ. Tuy nhiên do đói ăn lâu ngày nên mẹ của
ông khi ăn đă dùng một tay che bát cơm của ḿnh đi không cho các cô
hồn khác đến tranh cướp, v́ vậy khi thức ăn đưa lên miệng đă hóa thành
lửa đỏ.
Mục Liên quay về t́m Phật để hỏi cách cứu mẹ, Phật dạy rằng:
"Dù ông thần thông quảng đại đến đâu cũng không đủ sức cứu mẹ ông đâu.
Chỉ có một cách nhờ hợp lực của chư tăng khắp mười phương mới mong
giải cứu được. Ngày rằm tháng bảy là ngày thích hợp để cung thỉnh chư
tăng, hăy sắm sửa lễ cúng vào ngày đó".
Làm theo lời Phật, mẹ của Mục Liên đă được giải thoát. Phật
cũng dạy rằng: chúng sanh ai muốn báo hiếu cho cha mẹ cũng theo cách
này (Vu-Lan Bồn Pháp). Từ đó, ngày lễ Vu-lan ra đời.
Trong một số nước Á Đông, ngày lễ này thường được tổ chức vào
ngày 15 tháng 7 (Âm lịch), để tỏ hiếu với cha mẹ, ông bà và cũng để
giúp đỡ những linh hồn đói khát. Ở Nhật Bản ngày lễ này được tổ chức
vào ngày 15 tháng 7, hay là ngày 15 tháng 8 (tính theo Âm lịch) để tỏ
những ước nguyện của ḿnh, người ta viết ước nguyện rồi treo vào cây
trúc với mong ước điều ước đó sẽ trở thành hiện thực.
Tại Việt Nam, việc cúng Rằm tháng Bảy bao giờ cũng phải cúng ở
chùa (thờ Phật) trước, rồi mới đến cúng tại gia. Lễ này thường được
làm vào ban ngày, tránh làm vào ban đêm, khi Mặt Trời đă lặn.
Vào ngày này, mọi gia đ́nh đều cúng hai mâm: cúng tổ tiên tại
bàn thờ tổ tiên và cúng chúng sinh ở sân trước nhà hoặc trên vỉa hè
(nếu đường rộng), thời gian cúng có thể là vào buổi sáng, trưa hoặc
chiều.
Trên mâm cúng tổ tiên, gia đ́nh bày đặt một mâm cỗ mặn, tiền
vàng và cả những vật dụng dành cho người cơi Âm làm bằng giấy tượng
trưng từ những vật truyền thống (giống như đồ thật) như quần áo, giày
dép, tivi, tủ lạnh, máy giặt, ngựa, phương tiện giao thông, mũ kepi,
người giúp việc ... đến những vật hiện đại: nhà cao tầng, quạt điện,
điều ḥa, di động, IPhone...để cho người cơi Âm có được một cuộc sống
tiện nghi giống như người Dương trần. Những đồ lễ đó thường được làm
tại một cơ sở sản xuất rồi được xe máy chở đi khắp các tỉnh thành.
Trên mâm cúng chúng sinh th́ lễ vật gồm có: quần áo chúng sinh
với nhiều màu sắc (xanh lam, xanh lá mạ, vàng, hồng...), các loại bỏng
ngô, chè lam, kẹo vừng, kẹo dồi, bánh quế, cháo, tiền vàng, cốc nước
lă hoặc rượu (có thể thêm nước ngọt, bia nếu có điều kiện), cốc gạo
trộn lẫn với muối (cốc này sẽ được rắc ra vỉa hè hoặc sân nhà về bốn
phương tám hướng sau khi cúng xong), ngô, khoai lang luộc, cháo hoa...
và những lễ vật khác dành cho những cô hồn, ma đói không nơi nương
tựa. ở chùa khi cúng chúng sinh xong người ta thường gọi những đứa trẻ
xung quanh đến rồi cho chúng cùng nhảy vào tranh cướp những vật cúng:
như bỏng, oản...Tượng trưng cho những cô hồn..
Ngày rằm tháng 7 do đó được gọi là ngày lễ Vu Lan. Vậy lễ này
có phải cũng là lễ cúng cô hồn hay không ? Không ! Đây là hai lễ cúng
khác nhau được cử hành trong cùng một ngày. Sự tích lễ cúng cô hồn đại
khái như sau : Cứ theo "Phật Thuyết Cứu Bạt Diệm Khẩu Ngạ Quỷ Đà La Ni
Kinh" mà suy th́ việc cúng cô hồn có liên quan đến câu chuyện giữa ông
A Nan Đà, thường gọi tắt là A Nan, với một con quỷ miệng lửa (diệm
khẩu) cũng gọi là quỷ mặt cháy (diệm nhiên). Có một buổi tối, A Nan
đang ngồi trong tịnh thất th́ thấy một con ngạ quỷ thân thể khô gầy,
cổ nhỏ mà dài, miệng nhả ra lửa bước vào. Quỷ cho biết rằng ba ngày
sau A Nan sẽ chết và sẽ luân hồi vào cơi ngạ quỷ miệng lửa mặt cháy
như nó. A Nan sợ quá, bèn nhờ quỷ bày cho phương cách tránh khỏi khổ
đồ. Quỷ đói nói : " Ngày mai ông phải thí cho bọn ngạ quỷ chúng tôi
mỗi đứa một hộc thức ăn, lại v́ tôi mà cúng dường Tam Bảo th́ ông sẽ
được tăng thọ mà tôi đây cũng sẽ được sanh về cơi trên ". A Nan đem
chuyện bạch với Đức Phật. Phật bèn đặt cho bài chú gọi Là "Cứu Bạt
Diệm Khẩu Ngạ Quỷ Đà La Ni", đem tụng trong lễ cúng để được thêm
phước. Phật tử Trung Hoa gọi lễ cúng này là Phóng diệm khẩu, tức là
cúng để bố thí và cầu nguyện cho loài quỷ đói miệng lửa, nhưng dân
gian th́ hiểu rộng ra và trại đi thành cúng cô hồn, tức là cúng thí
cho những vong hồn vật vờ không nơi nương tựa v́ không có ai là thân
nhân trên trần gian cúng bái. V́ tục cúng cô hồn bắt nguồn từ sự tích
này, cho nên ngày nay người ta vẫn c̣n nói cúng cô hồn là Phóng diệm
khẩu. Có khi c̣n nói tắt thành Diệm khẩu nữa. Diệm khẩu, từ cái nghĩa
gốc là (quỷ) miệng lửa, nay lại có nghĩa là cúng cô hồn. Điều này góp
phần xác nhận nguồn gốc của lễ cúng cô hồn mà chúng tôi đă tŕnh bày
trên đây. Phóng diệm khẩu mà nghĩa gốc là " thả quỷ miệng lửa ", về
sau lại được hiểu rộng thêm một lần nữa thành " tha tội cho tất cả
những người chết ". V́ vậy, ngày nay mới có câu : " Tháng bảy ngày rằm
xá tội vong nhân ".
Vậy lễ Vu Lan và lễ cúng cô hồn là hai lễ cúng khác nhau. Một
đằng th́ liên quan đến chuyện ông Mục Liên, một đằng lại liên quan đến
chuyện ông A Nan. Một đằng là để cầu siêu cho cha mẹ và ông bà bảy
đời, một đằng là để bố thí cho những vong hồn không ai thờ cúng. Một
đằng là báo hiếu, một đằng là làm phước. Sự khác nhau giữa hai bên là
hiển nhiên, nhưng nhiều người vẫn cứ lẫn lộn. Chẳng hạn trước đây, ông
Thái văn Kiểm cho rằng lễ Vu Lan và lễ (xá tội) vong nhân (fête des
Trépassés) là một. C̣n lễ cúng cô hồn (fête des âmes errantes) và lễ
xá tội vong nhân (Pardon des Trépassés) chính là một th́ ông lại xem
là hai (X. Les fêtes traditionnelles Vietnamiennes, B.S.E.I., t.
XXXVI, no1, 1961, pp. 64-65). Mới đây, hai tác giả Thích Minh Châu và
Minh Chi cho rằng lễ Vu Lan là để cầu nguyện cho vong hồn những người
đă chết (Chúng tôi nhấn mạnh - HT) không c̣n phải đọa cảnh khổ nữa (Từ
điển Phật học Việt Nam, Hà Nội, 1991, tr. 795, mục Vu Lan bồn). Nhưng
đây không phải là " những người đă chết " nói chung v́ như đă biết, đó
chỉ là cha mẹ cùng với ông bà bảy đời mà thôi.
Trở lên là nói về sự khác nhau giữa lễ cúng cô hồn với lễ báo
hiếu, thường gọi là lễ Vu Lan. Vu Lan là dạng tắt của Vu Lan bồn.
Nhưng Vu Lan bồn là ǵ ? Sau đây là lời giảng của Thích Minh Châu và
Minh Chi : " Bồn là cái chậu đựng thức ăn. Cái chậu đựng thức ăn đem
cúng dường chư tăng vào ngày rằm tháng 7 để cầu nguyện cho vong hồn
những người đă chết không c̣n phải đọa cảnh khổ nữa. Vu Lan dịch âm từ
chữ Sanscrit Ullabana, là cứu nạn treo ngược. Những người làm nhiều
điều ác đức, sau khi chết, phải thác sinh xuống những cơi sống rất khổ
gọi là địa ngục. Ở đây có một khổ h́nh là bị treo ngược (Sđd, tr.
795). Chúng tôi sẽ dựa vào lời giảng này mà t́m hiểu về xuất xứ của
mấy tiếng " Vu Lan " và " Vu Lan bồn ". Lời giảng này có bốn điểm sai
mà điểm sai thứ nhất th́ chúng tôi vừa mới chỉ ra ở những ḍng cuối
của đoạn trên.
Sau đây là điểm sai thứ hai : Nói bồn là cái chậu đựng thức ăn
th́ không đúng v́ bồn chỉ là một yếu tố phiên âm (sẽ phân tích rơ ở
phần sau) mà thôi. Nói rằng đó là " cái chậu đựng thức ăn đem cúng
dường chư tăng vào ngày rằm tháng 7 " th́ lại sai theo một kiểu khác
nữa. Chậu là " đồ dùng thường làm bằng sành sứ hoặc kim loại, miệng
rộng, ḷng nông, dùng để đựng nước rửa ráy, tắm giặt hoặc để trồng cây
v.v..." (Từ điển tiếng Việt 1992). Vậy đựng thức ăn trong loại đồ dùng
đó mà dâng lên cho chư tăng thọ thực là một hành động hoàn toàn thất
nghi và thất lễ. Thật ra, Phật đă dạy Mục Liên như sau :
Phải toan sắm sửa chớ chầy
Đồ ăn trăm món trái cây năm màu
Lại phải sắm giường nằm nệm lót
Cùng thau, bồn, đèn đuốc, nhang dầu
Món ăn tinh sạch báu mầu
Đựng trong b́nh bát vọng cầu kính dâng
(Diễn ca kinh Vu Lan bồn)
Thau, bồn (chậu) chỉ là những thứ phải dâng cho chư tăng trong
dịp Vu Lan để dùng trong việc rửa ráy, tắm giặt ... mà thôi. C̣n thức
ăn th́ phải " tinh sạch báu mầu, đựng trong b́nh bát " đàng hoàng lịch
sự, chứ có đâu lại đựng trong chậu.
Thật ra, trước Thích Minh Châu và Minh Chi, cũng có những học
giả đă giảng như trên, chẳng hạn Đoàn Trung C̣n trong bộ từ điển lớn
về Phật học hoặc Toan Ánh trong bộ sách dày về nếp cũ. Đây là một cách
giảng lệ thuộc vào cái sai của sách vở Trung Hoa. Từ Nguyên chẳng hạn,
đă giảng về mấy tiếng Vu Lan bồn như sau : " Nói lấy chậu đựng trăm
thức để cúng dường chư Phật " (Vị dĩ bồn trữ bách vị cung dưỡng chư
Phật).
Điểm sai thứ ba là đă theo cái sai của những người đi trước mà
giảng Vu Lan thành " cứu nạn treo ngược", v́ thấy từ điển Trung Hoa
giảng Vu Lan bồn là " cứu đảo huyền ". Thật ra, khi Từ Nguyên chẳng
hạn, giảng Vu Lan bồn thành " cứu đảo huyền " là đă mượn hai tiếng
"đảo huyền " trong sách Mạnh Tử. Trong sách này, có cú đoạn " Dân chi
duyệt chi do Giải đảo huyền dă" nghĩa là "như giải thoát khỏi sự khốn
khổ tột cùng vậy ". Chính Từ Nguyên cũng đă giảng " đảo huyền " là sự
khốn khổ tột cùng (khốn khổ chi thậm). Vậy " cứu đảo huyền " không
phải là " cứu nạn treo ngược " mà lại là " giải thoát khỏi sự khốn khổ
tột cùng ". Hai tiếng " đảo huyền " ở đây không c̣n được hiểu theo
nghĩa đen nữa. Nghĩa của chúng ở đây cũng giống như nghĩa của chúng
trong thành ngữ " đảo huyền chi tế " là t́nh cảnh khốn khó, chứ không
phải là " cảnh bị treo ngược ".
Điểm sai thứ tư là ở chỗ nói rằng danh từ Sanscrit "Ullabana "
có nghĩa là " cứu nạn treo ngược ". Trước nhất, cần nói rằng từ
Sanscrit này đă bị viết sai. Vậy không biết ở đây hai tác giả muốn nói
đến danh từ Sanscrit nào, nhưng cứ theo dạng sai chính tả đă thấy th́
có thể luận ra rằng đó là một trong hai từ sau đây : Ullambana hoặc
Ullambhana. Ở đây, xin phân tích từ thứ nhất: Ullambana gồm có ba h́nh
vị : ud (trở thành ul do quy tắc biến âm samdhi khi d đứng trước l) là
một tiền tố, thường gọi là tiền động từ (préverbe) chỉ sự vận động từ
dưới lên, lamb là căn tố động từ có nghĩa là treo và ana là hậu tố chỉ
hành động. Vậy Ullambana có nghĩa là sự treo lên. Nhưng tất cả chỉ có
như thế mà thôi ! Từ Sanscrit này không hề diễn đạt cái ư treo ngược
hoặc treo xuôi ǵ cả. Nó lại càng không thể có nghĩa là " cứu nạn treo
ngược " được.
Trở lên, chúng tôi đă nêu ra những điểm sai trong lời giảng
của Thích Minh Châu và Minh Chi về hai tiếng "Vu Lan ". Vậy đâu là
xuất xứ và ư nghĩa đích thực của hai tiếng này ? Trước nhất, Vu Lan là
dạng nói tắt của " Vu Lan bồn ". Đây là ba tiếng đă được dùng để phiên
âm danh từ Sanscrit Ullambhana. Từ này thoạt đầu đă được phiên âm bằng
bốn tiếng Hán đọc theo âm Hán Việt là Ôlambàna. Dạng phiên âm cổ xưa
này đă được Từ Hải khẳng định. Về sau, Ôlambàna được thay thế bằng
dạng phiên âm mới là " Vu Lan bồn", trong đó Vu thay thế cho Ô, lan
cho lam và bồn cho bà + n (a). V́ " Vu Lan bồn " chỉ là ba tiếng dùng
để phiên âm, cho nên từng tiếng một (Vu, Lan, bồn) hoàn toàn không có
nghĩa ǵ trong Hán ngữ cả. Do đó, tách bồn ra mà giảng thành " cái
chậu đựng thức ăn " như hai tác giả Thích Minh Châu và Minh Chi đă làm
là hoàn toàn không đúng.
Ullambhana có nghĩa là sự giải thoát. Danh từ Sanscrit này có
ba h́nh vị: Tiền tố ud (trở thành ul v́ lư do đă nói), căn tố động từ
lambh và hậu tố ana. Xin nói rơ về từng h́nh vị : Không giống như
trong Ullambana, ở đó nó chỉ sự vận động từ dưới lên. Trong
Ullambhana, tiền tố ud chỉ ư phủ định hoặc đối lập, thí dụ : chad
(che, bọc, phủ), dv (đối với), uc-chad (cởi quần áo), khan (chôn), đv
ut-khan (moi lên), gam (đi), đv ud-gam (đi ra), nah (trói, buộc), đv
un-nah (cởi trói) v.v... Trong những thí dụ trên, ud trở thành uc, ut,
un do quy tắc biến âm samdhi. C̣n các căn tố động từ th́ được ghi bằng
chữ in hoa theo truyền thống khi chúng được tách riêng. Căn tố động từ
lambh là h́nh thái luân phiên với labh, có nghĩa là lấy, chiếm lấy,
nắm bắt ... Vậy Ul-lambh có nghĩa là giải thoát. Hậu tố ana chỉ hành
động có liên quan đến ư nghĩa mà tiền tố và căn tố động từ diễn đạt.
Vậy Ullambhana có nghĩa là sự giải thoát. Ullambhana được phiên âm
sang Hán ngữ bằng ba tiếng dọc theo âm Hán Việt là " Vu Lan bồn ". Vu
Lan bồn được nói tắt thành Vu Lan. Vậy Vu Lan là sự giải thoát. Xuất
xứ của nó là danh từ Sanscrit Ullambhana. Đây là từ thứ hai trong hai
từ mà chúng tôi đă suy đoán ở trên. Trong cấu tạo của từ này, tuyệt
nhiên cũng không có một thành tố nào mà về ngữ nghĩa lại có liên quan
đến hiện tượng " treo ngược " cả.
Trở lên, dù sao cũng chỉ là ư kiến thô thiển của một cá nhân.
Đúng hay sai, xin được sự thẩm xét của các nhà chuyên môn, trước nhất
là các nhà Phật học và các nhà Phạn học.