Nguyễn Văn Thành
 

 

 PHẬT ĐẢN NĂM 2007
 

 

Cùng Một Tác Giả:

  Ảnh Hưởng Của
Phật Giáo Vào
Nếp Sống Việt Nam

Phần 1   
 Phần 2 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

                             
                                         
                                       
 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

PHẬT ĐẢN NĂM 2007
Nhân Mùa Phật Đản, 2007 - Phật Lịch 2551
N
guyễn Văn Thành

  

 

Năm nay 2007 nhằm Phật lịch 2551.  Phật lịch tính từ năm đức Phật nhập Niết Bàn.

 

Phật lịch năm thứ nhất là năm Phật nhập Niết bàn do đó năm nay 2007 sẽ là năm PHẬT 2007+543+1 = 2551.

 

Đức Phật sinh ra trong đêm rằm tháng 4 âm lịch, 623 năm trước Công nguyên (Tây lịch) tại vườn Lâm Tỳ Ni, ngoại ô thành Ca Tỳ La Vệ hiện nay thuộc nước Nepal gần biên giới Ấn Độ.  Thân phụ Ngài là vua Tịnh Phạn, thân mẫu Ngài là Hoàng hậu, Đại Tịnh Diệu (Maha Maya).  Ngài thuộc sắc tộc Thích Ca (Sakya), có họ là Cồ Đàm, tên là Tất Đạt Đa.  Ngài lập gia đ́nh với Công chúa Gia Du Đà La năm 16 tuổi và có con trai là La Hầu La.  Năm 29 tuổi, Ngài rời bỏ kinh thành đi tầm sư học đạo. Sau 6 năm học hỏi với nhiều đạo sư với lối tu khổ hạnh nhưng Ngài không t́m thấy con đường giải thoát.  Do đó, Ngài từ bỏ lối tu khổ hạnh để phục hồi sức khỏe và tham thiền dưới cây Bồ Đề (bodhi) bên bờ sông Mi Liên Thuyền, ngày nay gọi là Bồ Đề Đạo Tràng.

 

Vào đêm rằm tháng 4 năm 588 trước Công nguyên, Ngài nhập định tham thiền và Ngài hiểu rơ nguyên do Sinh Tử của các loài và cuối canh 2, Ngài giác ngộ Chân lư đă trở thành một vị Chánh đẳng Chánh giác đạt được quả vị Phật vào lúc Ngài 35 tuổi và được coi như đă nhập Niết Bàn tại thế gian.

 

Trong 45 năm sau, Ngài đi giảng đường giải thoát thiết lập tăng đoàn đồng thời những người nào theo đạo Phật nhưng ở nhà gọi là Cư sĩ. Ngài truyền giáo trong vùng Đông Bắc Ấn Độ giáp giới với xứ Népal.

 

Đức Phật nhập Niết Bàn năm 543 trước Công nguyên lúc Ngài 80 tuổi, lúc đó là đêm cuối của đêm rằm tháng 4. 

 

Trong bài trước (2006), ta đă sơ lược “Ảnh hưởng của Phật Giáo vào Nếp sống Việt Nam”, nay ta nghiên cứu các Kinh điển Phật giáo:

 

Trong 45 năm hoằng pháp, đức Phật để lại nhiều bài thuyết giảng gọi là Kinh, thường được gọi là 8 vạn 4 ngàn Pháp môn.  Tuy nhiên, lúc đó không có ghi chép thành văn bản.  V́ vậy, có các kỳ gọi là tập kết Kinh điển để hệ thống hóa các lời dạy của đức Phật.

 

Kết tập lần thứ nhất:

 

Ba tháng sau khi đức Phật nhập Niết Bàn, 500 vị cao tăng sắp xếp các giới luật gồm có 2 nhóm chính là Luật tạng và Kinh tạng.

 

Kinh tạng được chia làm 4 bộ chính:  Trường bộ, Trung bộ, Tương ứng bộ và Tăng chi bộ. 

 

Kết tập lần thứ hai:

 

100 năm sau, một đại hội kết tập Kinh điển lần thứ 2.  Sau lần kết tập này, Luật tạng được bổ túc v́ trong kỳ kết Tập 1 chưa đầy đủ tạo thành Kinh bộ thứ 5, Tiểu bộ.  Sau lần kết tập thứ 2, Luật tạng và Kinh tạng đă thành h́nh giống như trong bộ Đại tạng hiện nay.

 

Kết tập lần thứ 3:

 

Sau đó 130 năm nữa, tức năm 223 trước Công nguyên, vua A dục Ấn Độ cho triệu tập đại hội lần thứ 3 và bổ túc vào Tiểu bộ.  Trong đại hội này thiết lập các bài Kinh về Tâm lư, Tâm linh, Thể tính của vạn pháp tạo thành Luận tạng.

 

Kết tập lần thứ 4:

 

Khoảng 20 năm trước Công nguyên, vua Tích Lan triệu tập lần thứ 4 và bắt đầu cho ghi các Kinh điển trên giấy bằng lá bối.  Từ đó, Kinh điển được thành h́nh bằng văn tự tức là trong ṿng 500 năm th́ Kinh điển Phật giáo chỉ được học thuộc ḷng và lần ghi Kinh bằng chữ đầu tiên chính là chữ  Pa Li. 

 

Kết tập lần thứ 5, Miến Điện tổ chức vào năm 1870.

Kết tập lần thức 6 cũng tổ chức tại Miến Điện năm 1954.

 

Trong các kỳ thứ 4 và thứ 5 chỉ bàn luận cho rơ nghĩa các điểm chính trong Kinh, chứ không thêm bớt ǵ cả.

 

Tóm tắt lại:

 

Luật tạng ứng dụng cho các tỳ kheo.

Kinh tạng gồm 5 bộ:  

 

Trường Bộ gồm 34 bài Kinh dài.

Trung Bộ gồm 152 bài Kinh

Tương Ứng bộ gồm 2889 bài Kinh ngắn

Tăng Chi Bộ gồm 2308 bài Kinh

Tiểu Bộ gồm 15 bộ sách nhỏ

Luận tạng gồm 7 quyển:  Luận tạng gồm có bài giảng của đức Phật về thể tính và sự tướng của vạn pháp, phân giải triết học và tâm lư.

 

Hiện nay tất cả các Kinh h́nh như đă dịch sang tiếng Việt.  Các Bộ kinh này dịch từ bộ chữ Pa Li (Phật giáo nguyên thủy – Nam tông) và chữ Hán (Phật giáo Bắc tông thường được gọi là Đại thừa).  Phật giáo Nam tông hay Phật giáo nguyên thủy gồm Phật giáo tại Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Cam Bốt, Lào và một phần tại Việt Nam.

 

Phật giáo Bắc tông hay đại thừa gồm có Phật giáo tại Tây Tạng Trung Hoa, Nhật Bổn, Triều Tiên, Việt Nam, và Đài Loan.

 

Phật giáo Đại thừa đă truyền tới Việt Nam cả mấy ngh́n năm nay, cón Tiểu thứa hay là Phật giáo Nam Tông hoặc là Phật giáo nguyên thủy th́ mới truyền tới Việt Nam vào đầu thế kỷ thứ 20. Tuy nhiên, hiện nay Phật giáo Việt Nam không phân biệt Phật giáo Nam tông (Nguyên thủy) hay Phật giáo Đại thừa gọi là Bắc tông và cho rằng môn tu tập nào cũng giúp cho con người ta thoát khỏi sinh tử luân hồi. 

 

Đức Phật giảng cho ta làm sao có thể thoát cảnh khổ và thoát cảnh luân hồi.  Tất cả gọi tên là Tứ Diệu Đế. 

 

(1) Diệu đế về Khổ:  Đức Phật dạy rằng sinh là khổ, già là khổ, bịnh là khổ, chết là khổ, đau đớn buồn rầu, tuyệt vọng là khổ.  Đức Phật dạy rằng 6 căn đều khổ là căn của mắt, của tai, của mũi, của lưỡi, của thân và của ư.

 

(2) Diệu đế về nguồn gốc của Khổ:  Đức Phật dạy rằng tham thủ như ham muốn, ưa thích, thích các dục lạc.

 

(3) Diệu đế về sự khổ: Bỏ ḷng tham thủ

 

(4) Diệu đế về con đường diệt khổ:  Tu theo Bát chánh đạo gồm có: chánh tri kiến tức là sự hiểu biết về sự khổ, nguyên nhân của sự khổ, thông hiểu về sự diệt khổ và về con đường diệt khổ. 

 

chánh tư duy,

chánh ngữ

chánh nghiệp (Đó là t b sát sanh, t b ly ca không cho, t b hành đng tà dâm)

 

chánh mạng (là đon tr tà mng)

chánh tinh tấn

chánh niệm

chánh định

 

N vậy theo đức Phật muốn được giải thoát th́ ta phải tu theo bát chánh đạo, không làm các điều ác, cố gắng làm các việc lành như bố thí, giúp đỡ các kẻ yếu kém, luôn tu tâm tịnh ư không chụp mũ, không tranh giành, không ganh tị (khi thấy kẻ khác thành công hơn ḿnh), không dèm pha, không hại, không tham lam (chiếm đoạt tài sản của người khác).

 

Đạo Phật là đạo từ bi và trí tuệ.  Đạo Phật là con thuyền bát nhă cứu vớt các kẻ đắm ch́m trong bể khổ và trôi dạt trong 6 nẻo luân hồi.  Trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đều giảng về cách hành thiền, chúng ta là các Phật tử cần phải giữ giới luật trước khi hành thiền và muốn được giải thoát th́ cần phải cắt đứt gốc rễ của phiền năo, tham sân si khi chúng ta đă hiểu rơ nguồn gốc của cái Khổ th́ chúng ta phải thương yêu đồng loại thi hành sự bố thí tài sản cũng như trí tuệ cho những kẻ kém may mắn và thực hành giới, định, tuệ th́ thân tâm ta được an lạc ngay tại kiếp sống này. 

 

Thi hành những lời Phật dạy chính là bổn phận của các Phật tử vậy.

 

 

Tham khảo:

1) Địa chỉ của các chùa:

http://www.thuvienhoasen.org/index-diachichua.htm


2) Nghiên Cứu Về PHẬT GIÁO:

Kinh Phật Bằng Tiếng Việt và Anh:

 http://www.saigon.com/~anson/

http://www.golden-wheel.net/buddlinks.html

Kinh và CD Tịnh Độ:

 http://www.tinhthuquan.com/tinhkhongps.htm

 http://www.thuvienhoasen.org/

 http://www.buddhismtoday.com/index/phatphap.htm


3) Các Trường Trên Thế Giới Nghiên Cứu Về Phật Giáo:

http://www.h-net.org/~buddhism/GradStudies.htm

 

Nguyễn Văn Thành
Nhân Mùa Phật Đản, 2007 - Phật Lịch 2551
              27/5/2007