|
|
SỰ
GiÁO
DỤC VÀ
THI
CỬ
QUA
cÁC
THỜI
ĐẠI
Ở
V
I Ệ T
N
A M
Nguyễn Văn Thành
Phần 4:
B- GIÁO DỤC VÀ THI CỬ TRONG THỜI
PHÁP THUỘC:
Đ ọc
những phần 4 và 5 sau đây về "sự giáo dục và thi cử của nuớc Việt Nam
trong thời Pháp thuộc", ta thấy không có nước nào cai trị tàn nhẫn như
nước Pháp. Thật vậy, Pháp không chịu mở mang nền giáo dục ở Việt Nam và là
một nước bảo hộ tồi tệ nhất thế giới v́ mỗi năm tổng số sinh viên tốt
nghiệp Đại học dưới thời Pháp cai trị không quá 100 nhà trí thức gồm các
Bác Sĩ, Dược Sĩ, Luật Khoa, Khoa Học so với dân số 25 triệu người trong
khoảng năm 1945. Đại Học Hà Nội là Đại Học duy nhất nhưng mỗi năm chỉ sản
xuất vài chục Bác Sĩ, vài chục Dược Sĩ, một ít Luật Khoa; trong khi Cử
Nhân Khoa Học (Licence ès Sciences) mỗi năm sản xuất không tới 10 người và
Cử Nhân Văn Khoa th́ hoàn toàn không có.
S uốt
thời Pháp thuộc, các trường Đại học ở Việt Nam do Pháp cai quản đă không
cấp được một bằng Tiến Sĩ Khoa Học (Doctorat ès Sciences), Tiến Sĩ Luật
Khoa (Doctorat en Droit), Tiến Sĩ Dược Khoa (Doctorat en Pharmacie), Cử
Nhân Văn Khoa (Licence ès Lettres) và không sản xuất được một giáo sư
Trung Học Đệ Nhị Cấp nào cả. Ngoài ra, Pháp cũng không cấp phát được văn
bằng Đại Học Sư Phạm, mà chỉ có Sư Phạm dạy Trung Học Đệ Nhất Cấp. Pháp
cũng không cấp phát bất cứ một bằng Kỹ Sư nào như Điện, Cơ Khí, Hóa Học
v.v…nhưng Pháp chỉ cấp phát văn bằng Kỹ Sư Canh Nông (Ingénieur
d’Agriculture).
M ột
số rất ít những người hoặc làm công cho Pháp (Tri Huyện, Tri Phủ, Tham
Biện…) hoặc mở mang đồn điền do thực dân Pháp ban ơn, có tiền cho con du
học bên Pháp nhưng cũng không nhiều lắm, mỗi năm du học trở về Việt Nam
cũng chỉ đếm trên đầu ngón tay trên dưới 50 người.
C ho
đến khi Nhật đảo chánh Pháp năm 1945, nền học vấn của Pháp mới chấm dứt
tại Việt Nam. Ta phải nói rằng nền giáo dục của Pháp trong suốt thời gian
thống trị đă để lại cho nước ta là một con số không to lớn.
V ́
nền giáo dục đă yếu kém như vậy cho nên nền kinh tế c̣n thê thảm hơn nữa.
Thực dân Pháp và Phát-xít (fasciste) Nhật đă làm chết đói dân ta 2 triệu
người, ngoài ra người dân Viêt Nam có sản xuất được chút ǵ th́ chỉ làm
giàu cho những chủ của các đồn điền cao su người Pháp và chủ của các mỏ
than Ḥn Gai, Uông Bí mà thôi.
(3) Cách Tổ Chức Các Trường Đại Học:
P háp
mở trường Đại Học tại Hà Nội năm 1918 nhưng chỉ có 3 phân khoa: Y Khoa,
Dược Khoa và Luật Khoa. Tùy theo môn học nên thời gian học khác nhau, thí
dụ trường Luật đ̣i hỏi 3 năm ra Cử nhân Luật (Licence en Droit), trường
Dược mất 5 năm ra Dược Sĩ (Pharmacien), Trường Y với thời gian lâu hơn đ̣i
hỏi 7 năm ra Bác Sĩ Y Khoa (Docteur en
Médecine). Trường Công Chánh đào tạo
Cán Sự Kỹ Thuật (Agent Technique), đ̣i hỏi sinh viên cần có bằng Trung Học
và thời gian theo học là 2 năm.
T uy nhiên,
trước khi đào tạo ra các Bác Sĩ và Dược Sĩ, v́ nhu cầu cấp bách trong
khoảng thập niên 1920 nên Pháp đă tạo ra bằng Y Sĩ Đông Dương (Médecin
Indochinois) chỉ giảng dạy ở Đại Học Hà Nội. Điều kiện để tốt nghiệp Y sĩ
Đông Dương buộc sinh viên phải có bằng Trung Học Phổ Thông (Brevet) hoặc
Cao Đẳng Tiểu Học (DEPSI) và mất 4 năm theo học. Tŕnh độ của những vị này
tương đương với Y Tá nhưng cũng được quyền chữa trị bệnh nhân như Bác Sĩ
trong bất cứ các địa phương nào không có Bác Sĩ ở đó. Song song với việc
đào tạo các Y Sĩ Đông Dương, Pháp mở trường dạy các Dược Sĩ Đông Dương (Pharmacien
Indochinois) cũng chỉ cần văn bằng tốt nghiệp Trung Học, thời gian theo
học 4 năm rồi ra làm Dược Sĩ hạng 2 (Deuxième Classe) và được phép mở nhà
thuốc Tây (Pharmacie) tại những nơi không có Dược Sĩ hạng 1 (Première
Classe).
I- Cách Tổ Chức Các Trường Sư Phạm:
a. Đào Tạo Giáo Viên Tiểu Học:
S ư Phạm
Tiểu Học (École de Pédagogie pour L’enseignment Primaire) đào tạo các giáo
viên Tiểu học có tŕnh độ tương đương với Trung học Đệ Nhất Cấp ngày nay
vậy.
M uốn vào
trường Sư Phạm Tiểu Học, thí sinh chỉ cần văn bằng Tiểu Học và tiếp tục
học 4 năm. Sau khi tốt nghiệp được bổ nhiệm làm Giáo viên (Instituteur) đi
dạy bậc Tiểu học từ lớp Năm đến lớp Nhất.
Ấy là chưa kể những người có bằng Tiểu Học nhưng
không được huấn luyện Sư phạm (Pédagogie) 4 năm trong các trường Sư Phạm.
Những vị này được cử làm Hương Sư tại những vùng nhà quê dạy từ lớp Năm
đến lớp Ba trong các làng không có Giáo viên Tiểu học.
b. Đào Tạo Giáo Sư Trung Học Đệ Nhất Cấp:
M uốn trở
thành Giáo sư Trung Học Đệ Nhất Cấp, thí sinh cần có bằng Trung Học
(Brevet) hoặc Cao Đẳng Tiểu Học (DEPSI) và phải qua kỳ thi tuyển vào
trường Sư Phạm Trung Học Đệ Nhất Cấp (École de Pédagogie pour
L’enseignment secondaire du Premier Cycle). Thời gian học là 3 năm được
chia làm hai ban:
B an
Khoa Học học chuyên về Toán, Lư, Hóa và Vạn Vật. Sinh viên tốt nghiệp trở
thành Giáo sư Trung Học Đệ Nhất Cấp (Premier Cycle) dạy môn Toán, Lư, Hóa
hay Vạn Vật (Sciences Naturelles).
B an
Văn Chương học chuyên về Pháp Văn, Sử Kư và Địa Lư. Sau khi tốt nghiệp dạy
những môn đó.
C. Đào Tạo Giáo Sư Trung Học Đệ Nhị Cấp:
K hông có
tại Việt nam trong thời Pháp thuộc.
N gành
Trung Học Đệ Nhị Cấp gồm có các lớp: Classe Seconde, Classe Première và
Classe Terminale, tương đương với lớp 10, 11 và 12 thời nay vậy. V́ Pháp
không mở trường đào tạo Giáo sư Trung Học Đệ Nhị Cấp tại Việt Nam nên muốn
dạy, Giáo sư phải đậu bằng Cử Nhân hay Thạc Sĩ (Agrégé) bên Pháp. Bằng Cử
Nhân do các Đại Học cung cấp trong khi bằng Thạc Sĩ thường do các trường
Đại Học Sư Phạm tại Pháp (École Normale Supérieure) hoặc những người có
bằng Cử Nhân Khoa Học hoặc Văn Chương thi dự tuyển để lấy văn bằng Thạc Sĩ.
Ở Pháp, những người có bằng Thạc Sĩ tốt nghiệp
tại các trường Đại Học Sư Phạm hoặc những người có văn bằng Cử Nhân thi
đậu, được cử làm Giáo Sư chính ngạch (professeur titulaire), c̣n những
người chỉ có bằng Cử Nhân muốn hành nghề phải xin phép bổ nhiệm từ Bộ Giáo
Dục, làm Giáo Sư khế ước (contrat) một thời gian, nếu công tác tốt mới
được chuyển sang chính ngạch.
N hững vị
dạy ở Trung Học Đệ Nhị Cấp (Deuxième Cycle) thường được danh hiệu là Giáo
sư Trung học, v́ họ tốt nghiệp từ trường Đại Học Khoa Học (Faculté des
Sciences) hoặc Văn Khoa (Faculté des Lettres) hay Sư Phạm (École Normale
Supérieure) tại Pháp. Khoảng năm 1940 trường Đại Học Khoa Học được thành
lập và giảng dạy cho tới khi Nhật đảo chánh Pháp năm 1945, nhưng chỉ có
vài người tốt nghiệp tại Việt Nam mà thôi. Trong suốt thời Pháp thuộc
không có trường Văn Khoa. Tuy nhiên, trường Văn Khoa đầu tiên tại Hà Nội
là do chính phủ Quốc Gia Việt Nam thiết lập từ năm 1950.
II- Cách Tổ Chức Của Trường Đại Học Khoa Học:
N ăm 1938,
Pháp mở trường Đại Học Khoa Học tại Hà Nội để đào tạo Cử Nhân Khoa Học gồm
có Cử Nhân Toán, Cử Nhân Lư Hóa và Cử Nhân Vạn Vật. Các giáo sư ở trường
này thường có văn bằng Tiến Sĩ hay Thạc Sĩ từ Pháp sang giảng dạy.
Trước khi Nhật đảo chánh Pháp năm 1945, không có một
giáo sư Việt Nam nào dạy ở trường Đại Học Khoa Học trừ Giáo Sư Hoàng Xuân
Hăn nhưng chỉ được chức Giảng Sư (không được chức Giáo Sư) v́ ông chỉ có
bằng Thạc Sĩ và theo cách tổ chức của Pháp, ông chỉ đủ tư cách dạy Trung
Học mà thôi.
T rường
này không sản xuất một bằng Cử Nhân Toán nào cả mà chỉ có một vài Cử Nhân
Khoa Học Lư Hóa hay Vạn Vật. Trong thời gian này, quy định muốn có bằng Cử
Nhân Giáo Khoa Toán Học sinh viên phải có 3 chứng chỉ là Toán Học Đại
Cương, Cơ Học Thuần Lư và Vi Tích Phân Toán Học. Và v́ trường không có dạy
chứng chỉ Vi Tích Phân Toán Học cho nên không có một người nào tốt nghiệp
Cử Nhân Toán tại Đại Học Hà Nội
trước năm 1945. Do đó, những người
muốn có văn bằng Cử Nhân Toán, phải sang Pháp học chứng chỉ Vi Tích Phân
Toán.
Cử
Nhân Giáo Khoa Lư Hóa gồm có các chứng chỉ Toán Lư Hóa, Vật Lư Đại Cương
và Hóa Học Đại Cương.
Cử
Nhân Vạn Vật gồm có Chứng Chỉ Lư Hóa Nhiên (SPCN), Thực Vật Học Đại Cương
và Địa Chất Học. Lúc này chưa mở chứng chỉ Sinh Học Đại Cương.
C ó
3 bộ Cử Nhân như sau:
Cử Nhân Giáo Khoa* Lư Hóa :
-
MPC (Toán Lư Hóa – Mathématiques, Physique et Chimie)
-
Vật Lư Đại Cương (Physique générale)
-
Hóa Học Đại Cương (Chimie générale)
Cử Nhân Giáo Khoa*
Vạn Vật :
-
SPCN (Science Physique, Chimie et Naturelle)
-
Thực Vật Đại Cương (Botanique générale)
-
Khoáng Vật Đại Cương (Minéralogie générale - có thể
thay bằng Sinh Vật Đại Cương - Biologie)
Cử Nhân Giáo Khoa* Toán:
-
Toán Đại Cương (Mathématiques générales)
-
Cơ Học Thuần Lư (Mécanique rationnelle)
-
Vi Tích Phân Toán (Calcul différentiel et intégral)
* Giáo khoa
có nghĩa là những người có bằng này được phép dạy tại các trường Trung Học
Đệ Nhị Cấp mà không cần tốt nghiệp tại Đại Học Sư Phạm.
S inh viên
có 3 chứng chỉ không vào bộ trên được cấp bằng Cử Nhân Khoa Học Tự Do. Thí
dụ có Toán Đại Cương, Cơ Học Thuần Lư và Vật Lư Đại Cương th́ gọi là Cử
Nhân Khoa Học Tự Do (Licence
ès Sciences Libres).
T rường Đại
Học Khoa Học Hà Nội chỉ đào tạo được Cử Nhân Lư Hóa hoặc Vạn Vật. Những
sinh viên nào muốn có bằng Cử Nhân Toán sau khi đă có các chứng chỉ Toán
Đại Cương và Cơ Học Thuần Lư th́ sang Pháp học tiếp chứng chỉ Vi Tích Phân
Toán Học.
T a
đừng nên nhầm lẫn với thời Việt Nam Cộng Ḥa, nếu chỉ có Toán Cơ Học và
Vật Lư th́ không gọi là Cử Nhân, phải thêm hoặc Vi Tích Phân Toán tức 4
chứng chỉ thành Cử Nhân Giáo Khoa Toán hoặc thế chứng chỉ Hóa Học Đại
Cương thành Cử Nhân Giáo Khoa Lư Hóa.
X em
như vậy thời Pháp thuộc từ năm 1945 trở về trước, việc học của trường
Đại
Học Khoa Học không hoàn toàn đầy đủ.
Tham khảo:
Trong việc hoàn tất loạt bài này, tác giả dựa theo trí nhớ
và đă tham khảo những tài liệu sau đây:
Trước năm 1945:
Tham khảo "Việt Nam Sử Lược" của
Trần Trọng Kim
Sau năm 1945:
Tham khảo của những người đă
sống trong những thời đó thí dụ muốn
biết việc thi cử trong khoảng 60-75 th́
hỏi những thí sinh và các giáo sư
trong khoảng thời gian đó.
Các Websites liên hệ được trích dẫn trong những bài viết.
Tác giả rất cần ư kiến của các chuyên gia về cách học tập và thi
cử ở các trường Đại Học qua mọi thời đại thí dụ như về Y Khoa cần
ư kiến của các Bác Sĩ đă từng tốt nghiệp ở Đại Học Việt Nam, Nha
Khoa cần các Nha Sĩ, Dược Khoa cần Dược Sĩ, Luật Khoa cần các vị
tốt nghiệp trường Luật và tất cả các trường khác tại Việt Nam,…
Mong toàn thể quư vị góp ư kiến v́ không một ai có thể biết tất cả
các bộ môn được. Cám ơn quư vị.
Nguyễn Văn Thành
Gần cuối tháng 3, 2005
(c̣n tiếp)
|
|