|
|
SỰ
GiÁO
DỤC VÀ
THI
CỬ
QUA
cÁC
THỜI
ĐẠI
Ở
V
I Ệ T
N
A M
Nguyễn Văn Thành
Phần 11:
D- GIÁO DỤC VÀ THI CỬ TỪ NĂM 1954 ĐẾN NĂM 1975
II-Chính Phủ
Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa (Chính
Phủ Hà Nội):
S au khi tiếp thu
Hà Nội, chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa (VNDCCH) thiết lập Đại Học tại
Hà Nội vào ngày mùng 1 tháng 11 năm 1954. Trường Đại Học Hà Nội lúc bấy
giờ chia ra làm nhiều ban gồm có ban Khoa Học Tự Nhiên (Toán Lư Hóa Vạn
Vật), ban Khoa Học Xă Hội (Văn Sử Địa, Sinh Ngữ, Triết học - đặc biệt
Triết học Mác-Lê (Philosophie Marxiste-Léniniste) chuyên về Tư Bản Luận -
Capital của Karl Marx), trường Đại Học Y Nha Dược, trường Đại học Sư Phạm..
Đ ại Học Hà Nội
trong suốt thời gian này không có Đại Học Luật Khoa.
V ́
đại đa số trí thức Bắc Hà đă di cư vào Nam cho nên miền Bắc rất thiếu các
chuyên viên trong các giới Bác Sĩ, Dược Sĩ, Kỹ Sư và Giáo Sư. Trong khi đó,
số chuyên viên từ kháng chiến trở về không có bao nhiêu do đó mục tiêu của
chính phủ là sản xuất cấp tốc trong một thời gian ngắn một số chuyên viên
tạm điều hành các công tác của nhà nước và v́ vậy thời gian học rút ngắn
lại.
T ất
cả các Đại Học đều học với học tŕnh thu gọn như sau:
Y Khoa Đại Học:
Trường Y Khoa có học tŕnh 6 năm chia làm 2 hệ: Bác Sĩ Y Khoa (Tây
Phương) và Bác Sĩ Đông Y (Đông Phương). Học sinh chỉ cần có học bạ tốt
nghiệp lớp 9 nhập vào Đại Học và khi tốt nghiệp được gọi là Bác Sĩ (không
là Tiến Sĩ Y Khoa) và không phải làm Luận Án tốt nghiệp. Ngoài Bác Sĩ Y
Khoa c̣n có Bác Sĩ Y Khoa ngành Đông Y Học (nói nôm na là thầy thuốc Bắc).
Thời Thượng cổ, người nào biết chữ Hán nếu chịu khó t́m ṭi dỡ sách Y học
của Tàu là có thể trở thành thầy thuốc Bắc; nay chính phủ hệ thống hóa thu
thập các tài liệu của trường Đại Học Đông Y bên Tàu cộng thêm các môn
thuốc Nam cổ truyền của dân ta thí dụ như tỏi trị cúm, nghệ trị bệnh bao
tử… rồi biến chế thêm. Trên thế giới chỉ có nước Tàu và nước ta có ngành
Đông Y Học, cũng như Mỹ ngày nay đang cố gắng nghiên cứu ngành châm cứu
của Tàu.
Trường Nha Khoa chỉ cần chứng chỉ lớp 9, vào học 5 năm tốt nghiệp Nha
Sĩ (Răng, Hàm, Mặt)
Trường Dược Khoa chỉ cần học bạ lớp 9 và học 5 năm tốt nghiệp Dược Sĩ.
Các Đại Học Khác:
Trường Khoa Học đổi thể lệ học theo niên chế:
Ban Toán 3 năm
Ban Vật Lư 3 năm
Ban Hóa Học 3 năm
Ban Văn Chương và Sư Phạm cũng học theo niên chế và thời hạn là 3 năm.
Các sinh viên Đại học trong giai đoạn đầu được phép học
Sinh Ngữ, trong đó có 2 Sinh Ngữ chính được chọn hoặc tiếng Anh hoặc tiếng
Nga.
Khi tốt nghiệp không gọi là Cử Nhân thí dụ tốt nghiệp
Đại học ban Toán được gọi là tốt nghiệp Đại học Toán, ban Lư th́ tốt
nghiệp Đại học Lư v..v…
Tất cả các trường Đại Học đều dạy bằng tiếng Việt.
R ất ít các giáo sư
có văn bằng Tiến Sĩ. Vào những năm 1954 khắp trường Hà Nội chỉ có một vị
Tiến Sĩ Toán học, Giáo Sư Lê Văn Thiêm. Ông Thiêm tốt nghiệp tại Đại Học
Paris năm 1949 rồi về nước hợp tác với chính phủ VNDCCH bằng cách t́m
đường về Thái Lan, vào trong Nam rồi ông được cử ra Bắc bằng đường bộ đi
mất 6 tháng. Sau năm 1950, v́ lư do chiến tranh lan tràn tới các miền do
chính phủ VNDCCH kiểm soát cho nên các trường Đại Học Hà Nội di chuyển
sang bên Trung Quốc và đóng tại Nam Ninh thuộc tỉnh Quảng Tây. Giáo Sư Lê
Văn Thiêm làm Hiệu Trưởng trường Đại Học Khoa Học Cơ Bản tại Nam Ninh cho
tới năm 1954, ông đem cả trường này về lại Hà Nội. Ông chuyên dạy về môn
h́nh học của Lobachevsky, một môn h́nh học không dựa trên định đề Euclide
hay c̣n gọi là h́nh học không Euclide (La Géométrie non-Euclidienne hay
non-Euclidean geometry).
T a
cũng nên nhắc lại định đề Euclide:
Từ một điểm ngoài đường thẳng ta chỉ có thể vẽ một
đường thẳng song song với đường thẳng cho sẵn và chỉ một mà thôi.
Nhưng trong cuốn sách của Lobachevsky năm 1840, tác giả
đă giải thích minh bạch về h́nh học không Euclide và định đề về đường
thẳng song song của Lobachevsky (Lobachevsky's Parallel Postulate) được
phát biểu như sau:
Có hai đường thẳng song song với một đường thẳng cho
sẵn xuyên qua một điểm cho sẵn mà điểm này không cùng nằm trên đường thẳng
đó.
(There exist two lines parallel to a given line through
a given point not on the line.)
Có nghĩa là: "Từ một điểm ngoài một đường thẳng cho sẵn,
ta có hai đường thẳng song song với đường thẳng đó”.
(All straight lines which in a plane go out from a
point can, with reference to a given straight line in the same plane, be
divided into two classes - into cutting and non-cutting. The boundary
lines of the one and the other class of those lines will be called
parallel to the given line).
C ác giáo sư Hà Nội cố gắng cho các sinh viên tốt nghiệp
Đại Học và cho đi du học tại Nga và các nước Đông Âu rồi dần dần phát
triển nền giáo dục. Cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975 khi Sài G̣n thất thủ
th́ các trường Tiểu và Trung học Hà Nội vẫn chỉ có 10 năm (So với học
tŕnh 12 năm dưới chính thể Việt Nam Cộng Ḥa trong Nam).
N goài ra, chính
phủ c̣n lập trường Đại Học Nhân Dân, thu thập bất cứ người nào muốn vào
học mà không cần bằng cấp, học về lư luận triết lư Mác-Xít (Marxiste)
và cách vận dụng quần chúng. Các vị vào trường này, ra trường sau một thời
gian công tác và thử thách nếu tỏ ḷng trung thành với đảng và có người
giới thiệu, sẽ trở thành các nhân viên và đảng viên nồng cốt của chính phủ,
đảm trách và nắm chính quyền từ xă đến tỉnh. Tuy nhiên, trường Đại Học
Nhân Dân chỉ mở cửa trong khoảng thời gian từ 1954 đến 1959, sau đó trường
đóng cửa. Công tác giảng dạy cho các đảng viên sau này được thực hiện bởi
Khoa Giáo trực thuộc đảng Cộng Sản.
Đ iều đáng lưu ư là tất cả các trường Đại Học, đều phải
học Triết Lư Mác-Lê (Philosophie Marxiste-Léniniste) và Lư Thuyết Giai Cấp
Đấu Tranh. Giáo sư chính trị học chính thức trong giai đoạn này là Giáo sư
Trần Văn Giàu.
Tiểu và Trung Học:
N ăm
1957, các trường Trung Tiểu Học đổi học tŕnh thành 10 năm gồm 5 năm Tiểu
học và 5 năm Trung học. Cuối lớp 10 thi tốt nghiệp Trung Học Phổ Thông (coi
như bằng Tú Tài cũ); cho đến năm 1975 chế độ này vẫn duy tŕ như vậy.
T óm lại, thời gian Tiểu Học là 5 năm từ lớp 1 đến lớp
5, Trung Học có 5 năm, từ lớp 5 đến lớp 10. Sở dĩ thời gian Trung Học rút
ngắn lại v́ học sinh không c̣n học Sinh Ngữ như học sinh ở các nước khác.
11 năm sau tức năm 1965, Đại Học Bách Khoa Hà Nội ra
đời, gồm có các phân khoa trong thời gian đầu như Điện Học, Cơ Khí, Hóa
Học, Xây Dựng và Thủy Lợi…. Điều kiện tuyển sinh của trường đ̣i hỏi học
sinh phải có chứng chỉ tốt nghiệp Trung học Phổ Thông và thi vào, học 3
năm tốt nghiệp Kỹ Sư.
C̣n Đại Học Kiến Trúc thí sinh cũng phải thi vào và học
5 năm tốt nghiệp Kiến Trúc Sư.
T ất cả các lớp được giảng dạy bằng tiếng Việt.
Kể từ năm 1965, khi lên Đại Học, sinh viên bắt đầu học
Sinh Ngữ và được phép chọn một trong 4 Sinh ngữ: Anh, Pháp, Nga, hay tiếng
Trung Hoa.
Đ ể được thi vào các Đại học, thí sinh cần có bằng Trung
học Tốt nghiệp, ban đầu rất dễ nhưng càng về sau càng khó v́ sĩ số giới
hạn của từng trường. Đặc biệt trong giai đoạn từ 1954-1975, tất cả các
sinh viên bất cứ ban nào của trường Đại Học Hà Nội, cũng đều được cấp học
bổng theo học và tất nhiên không phải đóng học phí. Tuy nhiên trong giai
đoạn 1954-1975, nền kinh tế của VNDCCH rất yếu kém và các công chức tính
đến năm 1975 cũng chỉ lănh được 50 đồng cho Giáo viên đệ nhất cấp, 75 đồng
cho Giáo sư Trung học, Bác sĩ khoảng 100 đồng v́ vậy ta không lấy ǵ làm
lạ, học bổng cho sinh viên chỉ có 30 đồng một tháng.
M ăi
đến năm 1975 vẫn chưa có hệ Tiến Sĩ và Thạc Sĩ.
Y Khoa Trung Học:
S ong song với Y
Khoa Đại học, một hệ Trung học trong trường Y Khoa dành cho những người
tốt nghiệp cấp 2 (8 năm học từ lớp 1 đến 8) theo học 3 năm, đại khái gồm
có:
Dược Khoa Trung Cấp (tương đương
với Trữ Dược Viên của Việt Nam Cộng Ḥa)
Nha Khoa Trung cấp (thợ nhổ răng)
Y Khoa Trung Cấp (Y Tá làng)
Y Khoa Đông Phương Trung Cấp (thầy Lang làng)
Y sĩ Y học cổ truyền.
Y sĩ răng trẻ em.
Kỹ thuật viên phục h́nh răng.
Dược sĩ trung học.
Điều dưỡng trung học.
Hộ sinh trung học
Kỹ thuật viên xét nghiệm.
Kỹ thuật viên X quang.
Kỹ thuật viên y tế công cộng.
Kỹ thuật viên Vật lư trị liệu.
Kỹ thuật viên gây mê hồi sức...
Đến cuối năm 2000, có 4.630 học viên đă tốt nghiệp và
1.469 học viên đang theo học mà ta sẽ nói rơ sau.
N ếu so với nền
Trung Học của Việt Nam Cộng Ḥa (VNCH), nền Trung học của VNDCCH chỉ tương
đương với lớp 10 của VNCH mà thôi. Do đó khi thi vào Đại Học trong khoảng
năm 1976-1985, đặc biệt ở miền Nam có 2 đề thi: một đề cho hệ 10 năm và
một đề khác cho hệ 12 năm. Chính phủ Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
cần mất khoảng 10 năm trời mới đào tạo đủ số giáo chức dạy các lớp 11 và
12 và lúc đó th́ nền giáo dục trong Nam và ngoài Bắc mới thống nhất.
Kết Luận :
H ọc tŕnh của Tiểu học là
5 năm, Trung học cũng 5 năm (đến lớp 10), và sau lớp 10 phải thi tốt
nghiệp Trung học, được cấp bằng Phổ Thông Trung Học. Tất cả các Đại Học
Văn và Khoa Học Xă Hội, Đại Học Khoa Học Tự Nhiên (Toán, Lư Hóa và Vạn Vật),
Đại Học Sư Phạm đều học theo năm học và thời gian là 3 năm. Muốn
được nhận vào
học, thí sinh phải qua một kỳ thi nhập học. Tŕnh độ bậc Đại Học th́ thấp
hơn tŕnh độ ở các trường thuộc chính phủ Việt Nam Cộng Ḥa v́ lư do học
10 năm cộng thêm 3 năm Đại Học so với 12 năm cộng 4 năm, do đó sự chênh
lệnh là 3 năm học.
T rong giai đoạn 1954-1975, mục tiêu của chính phủ
VNDCCH là cuộc chiến tranh với miền Nam, đặt trọng tâm là Quốc
Pḥng và tất cả đều cho tiền tuyến, do đó nền kinh tế không thể nào mở
mang được. Kết quả của nền giáo dục và kinh tế cho đến năm 1975 ở vùng
VNDCCH, nông nghiệp sản xuất không đủ ăn thường phải nhận viện trợ lương
thực từ Trung Quốc và Liên Sô. Dân chúng sống theo chính sách hộ khẩu (mô
h́nh của Trung Quốc) nghĩa là mỗi người mỗi tháng chỉ được phép mua từ 10
đến 13 kí gạo tại các hợp tác xă, thường là gạo mục cũ đôi khi không có
gạo, th́ được thay thế bằng khoai hoặc sắn với quy định 1 kg gạo tương
đương với 3 kí khoai. C̣n nếu mua ở trong thị trường chợ đen th́ giá cao
gấp 5, 6 lần, dân không đủ tiền mua. Vải vóc sản xuất không đủ dùng cứ 2
năm mỗi người dân mới được mua vải may 1 cái áo và 1 cái quần, c̣n trên
thị trường chợ đen th́ rất khó kiếm và giá gấp 5, 10 lần. Trong giai đoạn
này, lương của 1 công nhân công chức khoảng 50 đồng Việt Nam; độ 5 đồng
Việt Nam tương đương với 1 đô-la Mỹ. Như vậy mỗi người một tháng tương
đương 10 đô-la để sống kể cả tiền thuê nhà.
N ói
tóm lại, nền kinh tế không phát triển trong giai đoạn này đă làm cho
nhân dân miền Bắc đói khổ. Toàn dân trông mong vào
viện trợ lương thực từ các nước Xă Hội Chủ Nghĩa, đặc biệt là Trung Quốc,
do đó việc giáo dục và thi cử cũng bị ảnh hưởng và gặp rất nhiều khó khăn.
Tham khảo:
Trong việc hoàn tất loạt bài này, tác giả dựa theo trí nhớ
và đă tham khảo những tài liệu sau đây:
Trước năm 1945:
Tham khảo "Việt Nam Sử Lược" của
Trần Trọng Kim
Sau năm 1945:
Tham khảo của những người đă
sống trong những thời đó thí dụ muốn
biết việc thi cử trong khoảng 60-75 th́
hỏi những thí sinh và các giáo sư
trong khoảng thời gian đó.
Các Websites liên hệ được trích dẫn trong những bài viết.
Tác giả rất cần ư kiến của các chuyên gia về cách học tập và thi
cử ở các trường Đại Học qua mọi thời đại thí dụ như về Y Khoa cần
ư kiến của các Bác Sĩ đă từng tốt nghiệp ở Đại Học Việt Nam, Nha
Khoa cần các Nha Sĩ, Dược Khoa cần Dược Sĩ, Luật Khoa cần các vị
tốt nghiệp trường Luật và tất cả các trường khác tại Việt Nam,…
Mong toàn thể quư vị góp ư kiến v́ không một ai có thể biết tất cả
các bộ môn được. Cám ơn quư vị.
Nguyễn Văn Thành
Trung tuần tháng 5, 2005
(c̣n tiếp)
|
|