rong
một pḥng triển lăm thư pháp, tôi đang đứng ngắm hai bức thư pháp: một
bức có chữ “ Nhẫn” bằng chữ Hán và một bức có chữ “ Nhẫn” bằng chữ
Quốc ngữ. Cũng có một nhóm người đến đứng sau lưng tôi để ngắm hai bức
thư pháp ấy. Họ cùng nhau b́nh luận í nghĩa của chữ “ Nhẫn”. Đa số
trong nhóm ấy cho rằng í nghĩa của chữ “Nhẫn” rất là thâm thúy. Nhưng
có một người trong nhóm phản bác cho rằng chữ “Nhẫn” không thâm thúy
cho bằng chữ “Khiêm”. V́ “Nhẫn” đôi khi “bằng mặt chứ không bằng
ḷng”, có người “sống để bụng chết mang theo” cho nên tâm hồn của họ
không thanh thản. Rồi người ấy nói tiếp : Người khiêm tốn th́ bao gồm
cả đức tính “ Nhẫn” trong ấy và người ấy dẫn lời của J.C. Hace :
“Khiêm tốn không có nghĩa là không biết đến những giá trị của ḿnh mà
biết nhận chân những giá trị ấy”
Ở Việt Nam không có
nơi nào mà chúng ta bắt gặp chữ “Khiêm” nhiều cho bằng ở lăng vua Tự
Đức. Từ nhà cửa, ao hồ, cầu thuyền…đều có chữ “Khiêm” như
: Khiêm cung
môn, Vụ Khiêm môn, Tự Khiêm môn, Lương Khiêm điện, Ḥa Khiêm điện,
Xung Khiêm tạ, Dũ Khiêm đ́nh, Ích Khiêm các, Lễ Khiêm vu, Pháp Khiêm
vu, Ṭng Khiêm viện, Tuần Khiêm kiều, Do Khiêm kiều, Lưu Khiêm hồ,
Tiểu Khiêm tŕ, Thuận Khiêm thuyền, Ổn Khiêm thuyền… và ngay cả tên
lăng cũng mang tên Khiêm lăng.
Tại sao vua Tự Đức
lại lấy chữ “Khiêm” mà đặt tên như vậy? Trong bài Khiêm cung kí vua Tự
Đức viết: “ Tất cả các tên phải có nghĩa, không phải tên không căn cứ:
ḱa như sao lấy đức Khiêm của trẫm mà khiến cho núi ấy, sông ấy, nhà
ngoài ấy, nhà trong ấy cũng đều theo mà làm Khiêm, những cái ấy có lỗi
ǵ đâu? Và quả có biết ǵ đâu? Tất cả cái tên mà đặt ép, quả đă được
yên không? Mà ta có ǵ là Khiêm không? Đối với đức Khiêm quả có thực
không? Ḱa như đức Khiêm là kính, là nhường, có đức mà không ở, chịu
khuất ḿnh ở dưới người, v́ chịu mang tội thẹn như thế, nhường không
ǵ hơn, khuất không ǵ hơn, có tài năng công đức ǵ mà không ở ngôi
chăng? Nhưng v́ vốn chuộng thực thà đạm bạc, ở nhà vàng mà trong ḷng
thường như mặc áo trắng, trừ áo lộng lẫy ấy ra, không một chút ǵ là
hoa lệ, hoặc cũng là nghĩa có đức mà không ở thêm vào đấy, từ ngày làm
cung này, sét đánh điện Ḥa Khiêm (1) dân gian làm loạn người mê hoặc,
hoặc xâm phạm cửa cung (2), trời trách người oán, tiến đến bất kỳ, ta
c̣n có ḷng nào đâu mà chẳng dám chẳng kính nhường, chỉ biết trước sau
hết ḷng kính nhường, may có thể duy tŕ cứu chữa được phần nào, th́
đối với chữ Khiêm đâu dám không thực, cho nên nhân thế mà đặt tên tất
cả, cũng muốn vừa tiếp xúc, vừa cảm động để tự xét răn và tự chê…” (3)
Khiêm là đầu mối
các nhân đức khác. Kinh “Cải tội bảy mối có bảy đức” của đạo Công giáo
đă đề cao nhân đức Khiêm nhượng lên hàng đầu: “ Thứ nhất Khiêm
nhượng chớ Kiêu ngạo”. KHIÊM NHƯỢNG-KIÊU NGẠO là cặp phạm trù đối
lập nhau. Một vị chức sắc cao cấp của một tôn giáo nọ sau nhiều năm
nghiền ngẫm đă đưa ra một số nguyên tắc dẫn đến thất bại cần phải
tránh, cũng như những nguyên tắc dẫn đến thành công cần phải thực hiện
và vị chức ấy đặt tên là “ Thập đại thắng” và “Thập đại bại”.
Điều đầu tiên của
“ Thập đại bại” là: “ Kiêu căng, xem người như máy móc, độc đoán chẳng
chịu nghe ai, bảo thủ í kiến”.
Điều đầu tiên của
“ Thập đại thắng”: “ Khiêm tốn trọng nhân phẩm mỗi cá nhân, uyển
chuyển linh động, lắng nghe sáng kiến mọi người, rồi suy nghĩ lượng
giá”.
Trong sách Khúc lễ
có nói đến “Tứ bất khả” (4 điều không nên). Đứng đầu “ Tứ bất khả” là
: Ngạo bất khả trưởng (có í niệm kiêu ngạo trong ḷng th́ phải diệt
ngay, chớ để cho nó lớn lên). Chương IX sách Đạo đức kinh ghi: “Phú
quí nhi kiêu tự di kỳ cữu” (Giàu sang mà kiêu ngạo là tự rước lấy
họa)
Điền Tử Phương
người nước Ngụy về đời Chiến quốc nói với Tử Kích rằng: “ Làm vua mà
kiêu ngạo th́ mất nước. làm quan văn mà kiêu ngạo th́ mất chức.Làm
quan vơ mà kiêu ngạo th́ mất nhà!”
Binh pháp có câu :
“ Muôn thuở kiêu binh thường thảm hại/ Mấy đời khinh địch lại thành
công!”
Trong Kinh Dịch từ
quẻ Kiền cho đến quẻ Vị tế gồm 64 quẻ, quẻ nào cũng có 6 hào, mà quẻ
nào cũng có hào tốt hào xấu. Khiêm là một quẻ đứng hàng thứ 15 trong
tất cả 64 quẻ, 6 hào trong quẻ Khiêm đều tốt cả!
Quẻ Khiêm gồm có
quẻ Khôn ở trên và quẻ cấn ở dưới, tức là trong đất có núi. Thế đất
thấp kém, mà núi là vật cao lớn, lại ở dưới đất, đó là Tượng Khiêm
tốn.
Lời kinh trong quẻ Khiêm: “ Khiêm hanh, quân tử hữu chung” (Có
Khiêm th́ mới hanh thông, người quân tử có thể giữ đức Khiêm cho đến
lúc cuối cùng). Người quân tử ôm giữ đức Khiêm cho đến khi từ giă cơi
trần.
Tŕnh Di đă giải
thích lời Kinh ấy: “ Quẻ Khiêm là quẻ có đạo hanh thông.Có đức mà
không tự nhận gọi là Khiêm. Người ta lấy sự khiêm tốn tự xử th́ đi đâu
mà không hanh thông? “ Đấng quân tử có sau chót” (quân tử hữu chung)
nghĩa là đấng quân tử chí ở khiêm tốn hiểu lẽ, cho nên vui với mệnh
trời mà không cạnh tranh; bên trong đầy đủ, cho nên tự ḿnh lui nhún,
mà không khoe khoang, yên lặng xéo noi theo sự Khiêm suốt đời mà không
thay đổi, ḿnh tự hạ ḿnh mà người ta càng tôn lên, ḿnh tự che cho
tối đi, mà đức càng sáng tỏ; đó là đấng quân tử có sau chót( quân tử
hữu chung). Ở tiểu nhân th́ họ có sự ham muốn ắt phải cạnh tranh, có
đức ắt phải hợm hĩnh, tuy có miễn cưỡng mến sự khiêm tốn, cũng không
thể yên ḷng mà làm, bền chí mà giữ, ấy là không có sau chót” (5)
Nhà văn hiện đại
Ông Văn Tùng đă bàn luận lời Kinh trên của quẻ Khiêm như sau: “…là
trực tiếp răn dạy con người vừa thấu đáo vừa nhẹ nhàng, vừa biến ảo
phi thường, vừa tiến lùi hợp thức và trong ứng xử muôn h́nh, muôn vẻ
vẫn “thụ ích” và không “chiêu tổn”, vẫn giữ được đức Khiêm, nhu,
thuận, minh triết, bao dung, lùi bước mà tích cực, nhường nhịn mà
không nịnh hót, chịu thua thiệt mà không hèn hạ, mềm mại mà không
quanh co giả dối, tiến mà không tranh đoạt, miệt mài mà không mù
quáng, yếu mà thành mạnh, buồn đau mà khang kiện, yêu đời. Không kín
đáo một ḿnh, khi sống giữa đám đông, khi lâm nguy, khi ở ngôi cao
chót vót cũng như khi vùi dưới đất đen vẫn giữ được đức của người quân
tử. Đức Khiêm giúp con người sống đẹp như trái núi phải chịu lún dưới
đất, nhưng núi vẫn là núi, như ngọc bị cát vùi, ngọc vẫn cứ là ngọc.
Và nếu đạt được mức Khiêm là đạt đến bản lĩnh làm người…” (6)
Khổng Dĩnh Đạt
nói: “Tiểu nhân hành Khiêm, tắc bất năng trường cửu, duy quân tử
hữu chung dă” (tiểu nhân khiêm tốn chẳng bao giờ được lâu, chỉ có
quân tử là khiêm tốn được cả đời). Nếu thấy ở kẻ tiểu nhân có biểu
hiện sự khiêm tốn, chẳng qua đó là khiêm tốn “dởm” (7). Tiêu chuẩn
phân biệt khiêm tốn thật và khiêm tốn “dởm” : Khiêm tốn thật bắt nguồn
từ sự tôn trọng hay yêu thương người khác một cách thực sự. V́ tôn
trọng hay yêu thương nên đă “quên” mất tự kỷ, tự ái, thành thực đến
với kẻ khác bằng thái độ cởi mở, tự nhiên. C̣n khiêm tốn “dởm” th́ lại
bắt nguồn từ chính sự tôn vinh bản ngă nên có giả vờ tôn trọng hay ca
ngợi kẻ khác cũng chẳng kéo dài được lâu. Nhiều người thích đóng kịch
khiêm tốn v́ cho rằng đó là chiến lược tốt để người khác khen ngợi là
“ con người khiêm tốn”. Do đóng kịch nên phương pháp lật tẩy cũng khá
dễ dàng. Khi đối phương nói lời nhũn nhặn, khiêm cung, như: “Tôi cũng
c̣n kém, mong được chỉ giáo”; “học vấn tôi chưa đầy cái lá mít”,
v.v…ta cứ việc đồng í với đối phương rằng điều ấy quả thực đúng như
vậy, thế là xong (8)
Khiêm tức là tự hạ
ḿnh một cách thực sự. Tăng Sâm – một cao đồ của Khổng tử - nói:
“Hữu, nhược vô; thực nhược hư. Dĩ đa vấn ư quả, dĩ năng vấn ư
bất năng”( ḿnh có, mà xem ḿnh như h́nh không; ḿnh đầy đủ mà xem
ḿnh như h́nh thiếu kém. Lấy ḿnh là trí thức nhiều mà chịu hỏi với
người ít, lấy ḿnh là người tài năng mà chịu hỏi với người bất năng-
Luận ngữ, thiên Thái Bá). Câu “bất sỉ hạ vấn” (không hổ thẹn
khi học hỏi với kẻ thuộc hạ) chỉ thực hiện ở những người khiêm tốn
thật sự.
Dẫu chúng ta có chút
đỉnh tài năng, chớ nên kiêu ngạo. Kiêu ngạo là một thói xấu đến nỗi
người ta nêu lên câu cảnh báo: “Ai mà kiêu ngạo là kẻ sắp đi đến
bước đường cùng”. Hăy dùng chữ KHIÊM làm kim chỉ nam cho cuộc sống
của chúng ta.
NGUYỄN VĂN NGHỆ
Chú thích:
1- Sét đánh điện Ḥa
Khiêm vào tháng 5 năm Bính Dần [1866]. Xem Đại Nam thực lục tập 7, Nxb
Giáo dục, tr.996
2- Nhắc đến vụ những
người dân phu xây dựng lăng vua Tự Đức dưới sự lănh đạo của Đoàn Hữu
Trưng kéo về kinh thành để lật đổ vua Tự Đức và đưa Ưng Đạo, cháu 5
đời của vua Gia Long lên ngôi vào tháng 8 năm Bính Dần [1866] nhưng
cuộc khởi nghĩa bị thất bại. Sử sách gọi biến cố này là “ Loạn Chày
vôi”. Xem Đại Nam thực lục tập 7, tr.1009-1011.
3- Đại Nam thực lục
tập 7, Nxb Giáo dục, tr.1074-1075
4- Tứ bất khả gồm
có: “ Ngạo bất khả trưởng (có í niệm kiêu ngạo trong ḷng th́ phải
diệt ngay, chớ để cho nó phát triển); “ Dục bất khả túng” (Phải kiềm
chế dục vọng, chớ có buông lơi); “ Chí bất khả măn” ( Chớ nên tự măn
về chí khí, v́ kẻ tự măn về chí khí không bao giờ lập được công nghiệp
to); “ Lạc bất khả cực” (Gặp lúc có việc vui mừng, chớ nên hưởng đến
mức cùng cực).
5- Kinh Dịch trọn
bộ (Ngô Tất Tố dịch và chú giải), Nxb Văn học, tr. 301-302.
6- Ông Văn Tùng,
Chữ
Khiêm, đăng trên báo Văn nghệ số 43 ra ngày 23.10.2005
7- Khiêm tốn “dởm”
c̣n gọi là khiêm tốn “ống điếu”(ống vố). H́nh thù ống điếu là cong
xuống rồi lại ngóc đầu thẳng lên. Khiêm tốn “ống điếu” thuộc dạng : “
Một lần khiêm tốn, bốn lần tự kiêu”.
8- Dương Ngọc
Dũng, Lê Anh Minh. Kinh Dịch và cấu h́nh tư tưởng Trung Quốc,
Nxb Khoa học Xă hội, tr.163-164
NGUYỄN VĂN NGHỆ
Chú thích:
1- Đào Xuân Quí, Từ ngôi
trường cũ (In chung trong tác phẩm: Dưới mái trường xưa), Nxb Công
ty Cổ phần Sách& Thiết bị Trường học tỉnh Khánh Ḥa, 2005, trg 52
2- Mai Khắc Ứng, Trần Trọng
Kim và Việt Nam sử lược, Tạp chí Xưa & Nay số 346 (12/2009)
3- Trần Trọng Kim, Việt Nam sử
lược, Nxb Văn hóa Thông tin, 1999, trg 5.
4- Trần Trọng Kim, Việt nam sử
lược, Nxb Đà Nẵng, 2003, trg 3
5- Trần Trọng Kim, Việt Nam sử
lược, Nxb Thời Đại, 2010, trg 18
6- Trần Trọng Kim, Việt Nam sử
lược, Nxb Thời Đại, 2010, trg 634
Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, Nxb Văn Học, 2012, trg 634