|
Nhớ Về
THANH TÂM TUYỀN
VIỆT HẢI Los Angeles |
|
“Ôm em trong tay
mà đă nhớ em ngày sắp tới”
Ngày Thứ Tư breaking
news, khi tin tức các báo và Internet đă chuyển đi là nhà thơ Thanh Tâm
Tuyền đă mệnh chung vào lúc 10:30 giờ sáng (PST hay giờ Cali), vào ngày
22-3-2006 tại tiểu bang Minnesota, v́ chứng bệnh ung thư phổi. Tôi được
tin nhà thơ Thanh Tâm Tuyền đă khuất bóng, mà ḷng buồn và nuối tiếc v́
thêm một nhân tài của nền văn học Việt Nam lại ra đi theo luật thiên
nhiên. Tôi nhớ những bài thơ vô cùng lăng mạn của ông.
“Ôm em trong tay
mà đă nhớ em ngày sắp tới”
Tôi sinh hoạt trong Văn Đàn Đồng Tâm do hai nhà văn niên
trưởng Doăn Quốc Sỹ và Tạ Xuân Thạc sáng lập tại Houston. Nhà văn Doăn
Quốc Sỹ kể tôi nghe về nhóm Sáng Tạo khi xưa do ông và các thân hữu thành
lập sau khi di cư vào miền Nam. Trong các thân hữu của ông th́ có nhà văn
và nhà thơ Thanh Tâm Tuyền. Và rằng Thanh Tâm Tuyền là một trong người cổ
xúy cho phong trào thơ mới, theo thơ của các nhà thơ Pháp như Apollinaire,
Beaudelaire, Lamartine, Alfred de Musset,... Đôi nét về tiểu sử của Thanh
Tâm Tuyền th́ ông có tên thật là Dzư Văn Tâm, sinh ngày 15-3-1936, ra đời
tại Vinh tỉnh Nghệ An, từ Bắc di cư vào Nam năm 1954. Ông là cựu sĩ quan
VNCH, và là cựu tù nhân chính trị định cư tại Saint Paul, Minnesota, Hoa
Kỳ. Các tác phẩm tiêu biểu của Thanh Tâm Tuyền gồm “Tôi Không C̣n Cô Độc”
(1956), các tuyển tập “Bếp Lửa” (1957), “Liên, Đêm Mặt Trời T́m Thấy”
(1964), “Khuôn Mặt” (1964), "Ba Chị Em" (1967),
“Tiếng Động” (1970) và “Thơ Ở Đâu Xa” (1990).
Sau tin buồn về Thanh Tâm Tuyền, tôi có may mắn nhận được ấn bản in lại
cuốn Giai phẩm Văn xuất bản tại Sài G̣n năm xưa, tức tháng 10 năm 1973,
một tuyển tập viết đặc biệt về nhà thơ Thanh Tâm Tuyền do nhóm chủ biên
Nguyễn Đ́nh Vượng ấn hành, sách dầy 112 trang, gồm những bài do
chính Thanh Tâm Tuyền và các thân hữu viết. Nhà văn Trần Hoài Thư từ New
Jersey cho tái bản lại như nguồn tài liệu hiếm quư chỉ để tặng bạn bè.
Trong Giai phẩm Văn, ở trang 16 có bài viết rất lư thú của nhà văn Nguyễn
Quốc Trụ tựa đề là "Đọc Thanh Tâm Tuyền». Trong phần nhận định tác phẩm
"Bếp Lửa" của Thanh Tâm Tuyền, tác giả nhận định là:
"Trong số những tác phẩm của Thanh Tâm Tuyền, Bếp Lửa có lẽ đă làm phiền
tác giả cũng như người đọc nhiều nhất, mặc dù cuốn sách được "viết một
hơi, khoảng đâu hai ba tháng, được in ngay sau khi viết, không có một
quảng cách dể kịp lùi, nh́n lại"...."
Và lời của Thanh Tâm Tuyền thố lộ nơi trang 19 vào tháng 3, 1973, ông viết
là: " Mười bảy năm qua, kinh nghiệm dạy cho tôi lời của Malraux là đúng.
Tôi đă loay hoay quá lâu với một cuốn sách. Lần này tôi quyết định đề là
ấn bản chung quyết. Tôi hiểu là đă đến lúc nên viết những quyển sách
khác", (Bếp Lửa, Tựa lần bốn). Bởi v́ do câu nói của Malraux:"Người ta
không thể nào viết lại một quyển tiểu thuyết".
Thanh Tâm Tuyền đọc nhiều tác giả mà ông dẫn dụ trong văn ông
từ André Breton đến André Malraux. Nhà văn André Malraux vốn là mẫu người
trí thức chủ trương hành động, say mê phiêu lưu, một nhà văn hóa, và cũng
là nhà triết tư tưởng học. André Malraux sáng tác rất nhiều tác phẩm văn
chương thượng thặng, rất đa diện, thuộc nhiều lănh vực chuyên môn, ông đào
sâu thân phận bi thương, tinh thần cao cả của con người và những giá
trị về t́nh đoàn kết giữa người và người, ông cũng đề cao ḷng quả cảm
và sự đạo đức lương tri. V́ thế nên Thanh Tâm Tuyền viết lên những điều v́
ḷng quả cảm, v́ lương tri con người như nỗi niềm của ông như trong
bài "Sợ Lửa", viết Bạt cho sách Doăn Quốc Sỹ được đăng trong tờ báo Sáng
Tạo, số 4 tháng Giêng năm 1957 th́ hai câu thơ lồng sự phẫn nộ giận
dữ, khi sự bất măn khiến thơ đầm đ́a nước mắt:
"Hăy cho anh khóc bằng mắt em
Những cuộc t́nh duyên Budapest"
Thanh Tâm Tuyền tỏ vẻ giận dữ khi đoàn xe tăng Liên Sô đàn áp sức chống cự
của nhân dân Budapest, ông buông những ḍng thơ oan khiên:
"Hăy cho anh chết bằng
da em
Trong giây xích chiến xa tội nghiệp
Anh sẽ sống bằng hơi thở em
Hỡi những người kế tiếp"
Thanh Tâm Tuyền có ư thức chống cộng cao độ trước và sau năm
1975, ông vẫn thế và là người say thơ và đă đọc thơ của nhiều người. Từ
thơ phản kháng của Nguyễn Chí Thiện hay Thanh Tâm Tuyền đều nói lên nỗi
ḷng sâu xa nhất của người làm thơ. Thơ làm cho người ta giải tỏa nỗi buồn
trong cuộc sống hay để yêu cuộc sống hơn, thiết tha với sự sống hơn. Nếu
thơ không gây ra những cảm nhận hứng thú th́ không c̣n giá trị của nó nữa.
Như đă nói Thanh Tâm Tuyền đọc sách Pháp ông thích ḍng thơ lăng mạn Pháp
và triết học tây phương. Thơ ông chứa đựng cái nh́n của hệ phái siêu thực,
tiềm ẩn lối nh́n tâm linh. Mà hệ phái siêu thực bên triết học ông nói về
tính chất siêu thực trong văn chương. Từ những ư niệm của André
Breton, Thanh Tâm Tuyền đă cho chúng ta thấy sự lăng mạn tràn trề trong
thơ của ông. Hệ phái triết siêu thực, một mặt dựa vào triết học trực giác
của Henri Bergson, mặt khác dựa vào phân tâm học của Sigmund Freud. Ư niệm
siêu thực có nguồn gốc từ chủ trương lăng mạn huyền bí từ nước Đức, nhất
là Novalis, và một số nhà thơ như Comte de Lautréamont (hay Isidore
Ducasse), Guillaume Apollinaire và họa sĩ Giorgio De Chirico. Nhưng chủ
nghĩa siêu thực chỉ thực sự h́nh thành với André Breton và các bạn của
ông. Thanh Tâm Tuyền là nhà thơ siêu thực lăng mạn, hăy xem bài thơ "Bài
ngợi ca t́nh yêu“:
«Em gối đầu sương xuống
Chuyện tṛ bằng bóng h́nh
Tôi đẹp như h́nh tôi
Như cuộc đời
Như mọi người
...
Em là lá biếc là mây cao là tiếng hát
Sớm mai khua thức nhiều nhớ thương
Em là cánh hoa là khói sóng
Đêm màu hồng »
Sự lăng mạn thơ Thanh Tâm Tuyền mang âm hưởng thơ Pháp về lối
đặt câu, cấu trúc thơ mới mà ông là người áp dụng lề lối mới này khá
nhiều. Ví dụ khi xét bài "Hăy Say Đi" của thi sĩ Charles Beaudelaire:
"Hăy say,
Nào hăy say đi
Đất trời c̣n đó
Ngại ǵ không say
Tiếc chi giữa thế gian này
Bao nhiêu gánh nặng, bấy nhầy trên vai
Xác thân run rẩy từng ngày
Hăy say,
Quên kiếp đọa đầy nhân sinh
Say… thơ,
Say… rượu,
Say… t́nh,
Say ḷng nhân cách tuyết trinh trong đời…"
(Bài "Hăy Say Đi" - Charles Beaudelaire.
Bản dịch của Nguyễn Tâm Hán)
Hệ phái siêu thực chọn chủ nghĩa biểu tượng (symbolisme) là
nh́n thấy "dưới một sự giả trang này hoặc giả trang khác ở các thi sĩ giầu
óc tưởng tượng lớn"(Arthur Symons), hay là nghệ thuật "khêu gợi đối tượng
từng tư một đến chừng bộc lộ ra một tâm trạng, hoặc ngược lại, là nghệ
thuật tuyển chọn một đối tượng và rút ra từ đó một "trạng thái tâm
hồn".(Mallarmé -1891). Đây là một phong trào thi ca chịu nhiều ảnh hưởng
của lư tưởng thuần khiết (nền tảng Platonic) của triết lư hiện sinh, nghĩa
là thơ tượng trưng t́m cách khéo lồng vào tư tưởng với một h́nh thức dễ
cảm nhận. Ḍng thơ của Thanh Tâm Tuyền chuyên chở cái lăng mạn của
Lamartine, Musset, và cái nh́n siêu thực của Rimbaud, Beaudelaire, Paul
Eluard,… Nét chấm phá của thơ ông có một chút nào đó thơ của đại thi hào
Paul Verlaine mà người đời thường ca tụng Verlaine đă phá vỡ gông cùm ác
nghiệt của phép làm thơ. Thật vậy, thơ tự do (vers libre) là trọng tâm của
nhiều thơ tượng trưng.
"Tiếng đàn ai đó lê-thê
Vĩ cầm réo rắt ê chề ḷng đau
Bơ vơ chuông đổ đồng hồ
Ḷng như héo hắt thu tàn năm xưa
Bao kỷ niệm theo gió đưa
Cuốn theo lệ đổ chưa vừa xót xa
Bao năm lữ thứ xa nhà
Giang hồ phiêu bạt lá vàng tả tơi..."
(Thu Ca - Paul Verlaine,
qua bản dịch của Lăng Du)
T́nh yêu trong thơ Thanh Tâm Tuyền c̣n là t́nh nhân ái, là lời
yêu thương cho những con người cô độc, lẻ loi, trong màn đêm lệ thấm
giọt sầu rơi. Thi sĩ khi nghĩ đến cuộc lang thang, nỗi cô đơn của chính
ḷng ḿnh.
«Tôi biết những người khóc lẻ loi
không nguôi một phút
những người khóc lệ không rơi ngoài tim ḿnh
em biết không
lệ là những viên đá xanh
tim rũ rượi
đôi khi anh muốn tin
ngoài đời đầy cỏ hoa tinh khiết
mà bên cỏ hoa quyến rũ cánh tay em
ṿng ân ái
đôi khi anh muốn tin
ôi những người khóc lẻ loi một ḿnh
đau đớn lệ là những viên đá xanh
tim rũ rượi »
("Lệ đá xanh“)
Trong ngôn ngữ t́nh yêu của Thanh Tâm Tuyền thật mượt mà,
những sợi tóc em không c̣n chỉ là những sợi tóc đen nhánh như một chuỗi
cười. Những giọt lệ nhớ nhung như mưa lệ rơi, như những viên đá xanh. Thơ
nâng niu môi em là làn mật ngọt và vùng ngực em mang như đồi thơ bao la,
bát ngát, tôi cho là nhà thơ đă diễn đạt cái nội tâm sâu kín nhất của ông:
"Đêm hiền từ nhỏ to trên trán
Màu đen sáng đủ ngó vào nụ cười
Có đấy không này em mưa chan hoà
Trên ngực trên ngực em bát ngát"
Sự lăng mạn hơn nữa khi thi sĩ mô tả làn da trắng toát của
người yêu thật xác thực ư nghĩ, hỡi đôi mắt trần gian đăm chiêu với dục
vọng, hôn em như muốn cắn môi cho vơi đi nỗi nhớ nhung:
"Da trắng như tiếng hát ở trên trời...
Anh cúi xuống hôn cánh môi tím màu đêm mà thương nhớ...
Đừng trói anh vào trần gian bằng mắt em nh́n kia...
Người đàn bà rũ tóc thành một cơn băo mặn
Hương nồng chiều ḍng kinh mùa hè... "
(trích thơ Thanh Tâm Tuyền)
Đôi mắt em là mộng chiều tưởng nhớ, là cửa sổ của tâm hồn
tương tư. Đôi môi em là chiều vương kỷ niệm, khi những con tim đi t́m sự
đồng lơa của tâm hồn khi t́nh nồng trao nhau:
"Cửa sổ trời những mắt chưa quen
trán hoang đồng cỏ
run đường môi kỷ niệm
đi qua những thành phố đầy tim
cười đổ mưa một ḿnh"
(Bài "Của Em“, Thanh Tâm Tuyền)
Trong bài "Sầu Khúc" Thanh Tâm Tuyền tả về t́nh yêu như đám lau
buồn, như tư lự về tuổi ấu thơ như ḥn cù lao xa khuất trong tiềm thức
cũ. Ta nghe t́nh yêu của sự lăng mạn nhẹ nhàng. Thi sĩ mơ về những ngày xa
xưa tắm sông có tiếng cười thầm của người t́nh ru ông về kỷ niệm:
"Tuổi ấu thơ ḥn cù lao xa khuất
Và t́nh yêu như đám lau buồn
Vàm sông nước xoáy như tiếng cười thầm
Ở sau lưng ở trước mặt
Anh thả người trôi nổi"
("Sầu Khúc“, Thanh Tâm Tuyền)
Thơ Thanh Tâm Tuyền mang nụ hôn lăng mạn, có những đắm đuối bờ
môi, có thiên nhiên hiền ḥa mộng mị khi ḥ hẹn, và cũng có những nỗi đau
của thú yêu đương. Khi thi sĩ mơ say em như say thơ cùng men rượu, có một
chút Paris để mơ về nửa đêm Hà Nội, rồi ôm em trong tay mà đă
nhớ em ngày sắp tới. Tôi thích bài "Dạ Khúc" lắm, hồn thơ Thanh Tâm
Tuyền đă bay vào văn học sử với những lời thơ bất hủ này:
"Đi đi chúng ta đến công viên
Nơi anh sẽ hôn em đắm đuối
Ôi môi em như mật đắng
Như móng sắc thương đau
Đi đi anh đưa em vào quán rượu
Có một chút Paris
Để anh được làm thi sĩ
Hay nửa đêm Hà Nội...
Ôm em trong tay mà đă nhớ em
ngày sắp tới."
(“Dạ Khúc”, Thanh Tâm Tuyền)
Thiên nhiên và t́nh yêu trong cơi thơ của Thanh Tâm Tuyền đậm đà tha thiết
và nỗi đau trong thơ Thanh Tâm Tuyền cũng không kém ǵ nỗi đau thống thiết
trong những ḍng thơ Apollinaire:
«Ta đă hái nhành lá cây thạch thảo
Em nhớ cho, mùa thu đă chết rồi
Chúng ta sẽ không tao phùng đựợc nữa
Mộng trùng lai không có ở trên đời
Hương thời gian mùi thạch thảo bốc hơi
Và nhớ nhé ta đợi chờ em đó... »
(Lời Vĩnh Biệt, Apollinaire, Bản dịch của Bùi Giáng)
T́nh yêu trong thơ Thanh Tâm Tuyền, chịu ảnh hưởng của ḍng
thơ văn lăng mạn Pháp chất chứa bao ư tưởng phóng khoáng ra khỏi lằn ranh
nho học trong cổ văn, và h́nh như được cho thấy nhà thơ điễn tả tâm tư
ḿnh trong nỗi gian truân, dang dở, không vẹn toàn. T́nh yêu của nỗi chia
ly muộn màng như:
"Điếu thuốc bỗng trở niềm hắt hủi
Khói tím buồn
V́ chiều theo chân em sang bên kia đồi
Nụ cười mang theo
...
Em có biết sau lúc em từ biệt
Điếu thuốc cháy trên môi như người bạn chết
Hơi nóng khô nhành củi gẫy tàn... "
T́nh yêu trong thơ Thanh Tâm Tuyền cho tôi cảm nhận rằng
nó không mang giới hạn của t́nh yêu đôi lứa, t́nh yêu mến thiên nhiên mà
c̣n bao trùm cả t́nh yêu giữa con người và con người, t́nh đồng loại bị
trói buộc bởi gông cùm của sự đàn áp, bất công và tủi nhục…, và nhiều ư
tưởng rất nhân bản. Bởi lẽ tất cả mọi thứ t́nh yêu đều thuộc phạm trù trừu
tượng, bởi con người, v́ con người và cho con người:
"Một người da đen một khúc hát đen
Bầu trời đen sâu không cùng
Những ḍng nước mắt
Xé nát thân thể bằng tiếng kèn đồng
Bằng giọng của máu của tủy của hồn bắt đầu ngày tháng
Giữa rừng không lời rừng măi trống không…"
(bài "Đen", Thanh Tâm Tuyền)
Trong phần bài viết "Nỗi Buồn Trong Thơ Hôm Nay" của Thanh Tâm
Tuyền, ông đề cập về thơ mới. Ông viết vào năm 1955 khi chưa đầy 20 tuổi:
"...thơ hôm nay không hoàn toàn về h́nh thức tự do của nó. Thơ không vần,
không điệu, thơ suôi nếu quả thật là thơ - nghĩa là đạt được đến ngôn ngữ
mầu nhiệm, không chỉ chuyên chở ư tưởng mà c̣n ám ảnh vang vọng măi trong
tâm hồn - th́ sớm muộn ǵ người đọc cũng t́m thấy và quen dần với một thứ
nhịp điệu rộng răi phức tạp ở một tŕnh độ nghệ thuật cao hơn đối với thứ
nhịp điệu đơn giản rút gọn... Tôi thường nghe người ta nói "thơ mới" là
một cuộc cách mạng trong thơ Việt Nam. Sự thực "thơ mới” chỉ là sự biến
dạng của "thơ cũ" mà thôi, trong "thơ mới" cái tâm hồn người thi nhân của
quá khứ vẫn c̣n được lưu truyền."
Đó là lời của Thanh Tâm Tuyền c̣n in trên giấy trắng về "thơ mới", mà ông
là một trong những thi sĩ tiên phong khai phá, phiêu du vào cánh đồng thơ
mới. Trong bài ông đề cập đến nhà thơ thân hữu Quách Thoại, một trong
những nhà thơ sáng tác thơ mới tuyệt vời. Ông c̣n đề cập triết gia
Nietzsche khi phê b́nh vở bi kịch Hy Lạp qua hai xu hướng nghệ thuật
Dionysos khác hẳn với quan niệm Apollon, v́ "nghệ thuật phá vỡ những
h́nh thức sẵn có hỗn loạn trong những niềm cảm xúc, một nghệ thuật của say
sưa, một vẻ đẹp hăi hùng mọi rợ, nghệ thuật bắt nguồn từ một nhân sinh
quan bi thảm".
Đọc thơ Thanh Tâm Tuyền, ta đi vào những thiên đường của dĩ
văng, của hoài niệm và kư ức. Thơ ông có lúc là tiếng gọi của nhịp tim yêu
thương gơ vào kư ức đă qua. Ông quả thật là mang tâm hồn thi sĩ đa t́nh,
mẫn cảm. Ḍng thơ của ông đem đến cho ta muôn vàn cảm xúc giản dị và gần
gũi. Như André Breton đă từng định nghĩa: “tính cách siêu thực là cái tính
cách tự động thuần túy xét trên mặt tâm linh, qua đó, nó được diễn tả ra
hết sức rơ ràng - bằng chữ viết, hoặc bằng bất cứ một thể thái nào khác -
cái tiến tŕnh tư duy thật sự của con người. Đây là tiếng nói của bất cứ
một h́nh thái thẩm mỹ hay đạo đức nào.”, và ḍng thơ của ông cũng là ḍng
thơ trí tuệ mang nhiều màu sắc như những bức tranh trừu tượng. Bút pháp
của ông với cung cách khai phá chữ nghĩa và nghệ thuật tương phản như
những đường nét họa tài t́nh của Picasso kích thích ḷng hiếu kỳ của người
xem khiến cho họ phải tự đi t́m ṭi nội dung mà tác giả muốn diễn đạt. Thơ
ông mang nhiều nhạc tính tuy rằng thể thơ tự do của ông không bị g̣ bó
trong vần điệu như các thể thơ nho học, cổ văn. Xét cho cùng nhà thơ Thanh
Tâm Tuyền đă cống hiến cho nền văn học Việt Nam những ḍng thơ tràn ắp thi
vị thi ảnh, được viết lên từ những khát vọng của tự do, từ những cái nh́n
linh cảm về những chặng đường của cuộc đời mà ông đă đi qua, như Musset đă
nói:
«Đó là tiếng nói và hơi thở của trái tim
Đang rung động qua những ḍng thơ văn»
(A.Musset)
Vào tháng 12-1956, Thanh Tâm Tuyền qua bài thơ mang tên “Nhịp
Ba” đă nêu lên ḷng ước muốn lúc nào cũng nóng bỏng trong tâm tư thầm kín
của ông, đó là ước muốn sao cho đất nước sớm được thống nhất tự do.
Xin xét đến bài thơ “Nhịp Ba” của Thanh Tâm Tuyền viết tặng nhà văn Doăn
Quốc Sỹ như sau:
Nhịp Ba
(Tặng Doăn Quốc Sỹ)
«Ngực anh thủng lỗ đạn tṛn
Lưỡi lê thấu phổi
Tim c̣n nhảy đập
Nhịp ba nhịp ba nhịp ba
T́nh yêu, tự do măi măi
...
Nhịp ba, nhịp ba, nhịp ba
T́nh yêu, tự do, măi măi
Sóng bồi phù sa
Ruộng lúa trổ hoa
Núi cao uốn cây rừng
Nhịp ba, nhịp ba, nhịp ba
T́nh yêu tự do măi măi
Đất nước ào vỗ nhịp
Triều biển chập chùng
Hà Nội, Huế, Sàig̣n
Ôm nhau nức nở
...
T́nh yêu tự do măi măi
T́nh yêu tự do
măi măi anh ơi”
Doăn Quốc Sỹ và Thanh Tâm Tuyền gặp nhau trong văn chương, hai
ông chia sẻ những ngày sinh hoạt văn học trong nhóm Sáng Tạo, hai ông cũng
chia sẻ nỗi thao thức quê hương và hai ông đă chia chung định mệnh của
những năm tháng tù đầy của chế độ Cộng Sản. Nhà văn Doăn Quốc Sỹ trong bài
diễn văn tiễn đưa nhà thơ Thanh Tâm Tuyền trong buổi Lễ Tưởng Niệm “Dạ Tâm
Khúc” tại Houston, ông nói:
"Thanh Tâm Tuyền! Chắc hẳn anh c̣n nhớ vào năm 1956 – cách đây
đúng nửa thế kỷ - khi tập truyện cổ tích “Sợ Lửa” của tôi ấn hành lần đầu,
ông bạn Nguyễn Sỹ Tế của chúng ta viết TỰA và chính anh Thanh Tâm Tuyền là
người viết BẠT . Với tinh thần tri âm tri kỷ, cũng chính anh Thanh Tâm
Tuyền qua bài thơ mang tên “NHỊP BA” đă nêu lên ḷng ước muốn thường xuyên
nóng bỏng trong tâm tư thầm kín của tôi: đó là ước muốn sao cho đất nước
sớm được thống nhất tự do!....
Anh Thanh Tâm Tuyền! Những câu thơ mà anh đă tặng thật chân t́nh nên
tôi vẫn hằng ghi nhớ, hôm nay tại chiều Dạ Tâm Khúc tưởng niệm anh, tôi
xin được phép vừa đọc lên để anh, quư vị và các bạn v́ ḷng quư mến anh đă
đến đây cùng thưởng thức, trước khi tôi có lời chào vĩnh biệt anh. Và chúc
anh thân tâm an lạc ở cơi Vĩnh Hằng."
Đó là t́nh bằng hữu, t́nh bạn văn của hai vị văn hữu đă đóng
góp cho vườn văn học Việt Nam những áng văn thơ qua bao năm rồi.
Tôi đọc tiếp Giai phẩm Văn trên tay, tập san văn học này số
đặc biệt về nhà thơ mà tôi đang viết th́ trang 2 có bài b́nh luận văn học
khá dài, bài do tác giả Lê Huy Oanh phân tích thơ Thanh Tâm Tuyền, trong
bài "Kư Sự Về Một Chuyến Đi Kỳ Thú Vào Vùng Rung Cảm", và tôi xin chỉ
trích dẫn đoạn của bài viết mà lời Lê Huy Oanh nhận xét như sau:
"Thế giới huyền hoặc của Thánh Kinh, thế giới đầy nhục cảm của
Beaudelaire, hoặc của Anna de Noailles. Thế giới say sưa đầy mộng, đầy mơ
của Verlaine hay Gerard de Nerval. Tâm hồn tôi miên man rung động với
những cảnh trí giầu sang kỳ diệu như thế. Đầu óc tôi ngất ngây, say đắm
nhưng thuật t́nh chưa hề bàng hoàng, kinh ngạc. Cho tới lúc tôi đọc thơ
Thanh Tâm Tuyền...
"Tại sao em thích gọi tên hoa
nào ngày mai của chúng ta buông từng cành
xuống vai trần
viền cỏ
bồng tóc nâu
em sẽ gọi tên anh
mùa hoa hôm nay..."
(bài Hoa, thi tập "Tôi Không C̣n Cô Độc", Thanh Tâm Tuyền)
…
Để rồi nhà văn Lê Huy Oanh đi đến kết luận sau những gịng văn
dẫn chứng dài trong bài viết:
"Có thể thơ Tuyền chứa đựng cả những cái hay nhất và những cái
dở nhất, nhưng điều đó có hề chi, tôi có thể giải quyết dễ dàng điều đó
bằng cách quên đi những cái dở và chỉ nhớ tới những cái hay. Điều quan
trọng là thơ Tuyền đă tạo được một sinh khí mới trong văn chương Việt, đă
truyền được những t́nh cảm cao quư sang tâm hồn rất đông các bạn trẻ yêu
thơ, đà khiến tôi ghét anh lắm lắm, rồi lại yêu anh thật nhiều, cả t́nh
ghét lẫn t́nh yêu đều là những hành trang tư tưởng quư báu đối với một kẻ
vốn ham thích văn chương như tôi; thơ Tuyền đă là một động lực thúc đẩy
tôi, đă đưa tôi vào một cuộc phiêu lưu kỳ diệu để tới thăm những vùng mới
khai phá của tâm linh và nghệ thuật. Trong cuộc phiêu lưu ấy tôi đă gặp
những người bạn thật giầu t́nh cảm, rất yêu đời, rất ham sống, rất công
b́nh trong phạm vi nhân sinh quan riêng của ḿnh và nhất là giầu t́nh
thương, giầu ḷng bác ái, rất mực thiết tha với những chân lư cần thiết
cho nghệ thuật và tư tưởng xác thực của con người."
Trong sự gom góp thơ Thanh Tâm Tuyền để nhớ về ông, tôi muốn
mượn lời nhận xét của Lê Huy Oanh xin được chấm dứt bài viết này.
Xuân 2006
Việt Hải Los Angeles
oOo
Lê Huy Oanh vs Thanh
Tâm Tuyền
Trong lịch sử b́nh luận thơ Thanh Tâm Tuyền, nhà phê b́nh Lê
Huy Oanh tạo ra mấy điểm mốc đáng nhớ. Trên số Văn đặc biệt về Thanh Tâm
Tuyền (năm 1973), Lê Huy Oanh nhắc lại ḿnh từng chê bôi, thậm chí mạt sát
tập Tôi không c̣n cô độc đến như thế nào. Bài viết ấy giờ không dễ t́m, nó
nằm trên tạp chí Sinh Lực, ấn phẩm nằm dưới sự điều hành của Vơ Văn Trưng
(chủ nhiệm) và Tôn Nhật Huy (chủ bút). Nên nhớ bài viết dưới đây (toàn
văn) đăng không lâu sau khi Tôi không c̣n cô độc được ấn hành.
Đọc “TÔI KHÔNG C̉N CÔ-ĐỘC”
của Thanh-tâm-Tuyền
Lê-Huy-Oanh
Giữa lúc này, người ta khao khát một tập thơ hay, như những kẻ
lạc lơng trên sa-mạc thèm muốn một gốc dừa xanh bên hồ nước. Thơ
Thanh-Tâm-Tuyền ra đời trong khi bao người đang chờ đợi một thi nhân có
tài. Chúng ta vui-vẻ đón con người đó, hy-vọng sẽ thấy trong thơ chàng một
nguồn rung cảm mới, một nghệ-thuật cao đẹp.
Tôi không muốn đọc cuốn “Tôi không c̣n cô độc” quá trơ trẽn.
Tôi thắp lên hai cây nến trắng. Chuông đồng-hồ thong thả điểm 2 tiếng.
Ngoài cửa sổ, con đường vắng trải nhựa đen im ĺm dưới ánh đèn đêm
thấp-thoáng. Trời hơi lành lạnh.
Tôi ưa chọn giờ để đọc thơ - nhất là đọc một tác phẩm mà tôi
trót gửi vào đấy biết bao nhiêu hy vọng. - Kể ra như thế cũng hơi cầu kỳ,
cái cầu kỳ của những người yêu thơ.
Tôi bắt đầu lần giở những trang giấy thơm tho một cách thành
kính. Một trang, hai trang, rồi chín, mười trang… Tội nghiệp chưa, đầu tôi
nóng bừng; có lúc tôi bàng hoàng như vừa ngă từ mấy từng lầu cao xuống hố
bùn đen: thật khó mà t́m thấy cái hay của thơ Tự-do - một thứ tự-do kiểu
Thanh Tâm-Tuyền!
Lật về trang giấy sau bức chân dung tác giả, tôi đọc đi đọc
lại mấy hàng chữ đầu tiên mà tôi bắt đầu e ngại rằng đây chỉ là những lời
ngạo mạn:
………
Để cai trị tôi có những luật lệ tinh-thần mà người phải thần
phục nếu người muốn nhập lănh thổ
Người hoàn toàn tự do và có thể ném cuốn sách ra cửa sổ
Tôi định ném cuốn sách ra cửa sổ thật, v́ lúc đó, tôi có
cảm-tưởng đă gặp phải một người khùng. Kể cũng lạ. Độc giả, yêu thơ đi t́m
thơ, nghệ-thuật không thấy, thấy một chiếc ngai lạ kiểu, trên đó sừng sững
một quái thai: Ông Hoàng Thanh-Tâm-Tuyền. Ông kêu lên những câu nghe rất
chối tai, có lúc lại hoàn toàn vô nghĩa và ông bảo đó là thơ: một thứ thơ
không cần vần, không cần âm điệu và cũng chẳng cần để ai hiểu!
Có một lúc tôi không dám phán đoán thêm nữa. Tôi lặng-lẽ nh́n
ngọn lửa nến đang leo lét cháy không sao thoát khỏi cái lưới thắc-mắc, tôi
cho rằng chỉ đọc một lần th́ chưa thể nhận thức nổi những tinh-hoa của lối
thơ này. Tôi hơi hối-hận v́ đă không ḱm nổi giận-dữ. Ḷng dịu lại đôi
chút, tôi ép má vào song cửa sổ, mặc cho gió lạnh ùa vào mặt. Cuốn thơ mầu
trắng oái oăm kia nằm lệch trên bàn. Tôi trân-trối nh́n nó và tự hỏi: “nó
đă lừa cảm giác tôi hay chính tôi đă lừa cảm giác tôi?”
*
Suốt một tuần lễ sau tôi đọc lại cuốn thơ này. Một tuần lễ có
bẩy ngày, tôi đọc lại nó tới hơn ba lần. Nghĩ mà thương cho tôi, có những
đêm quá khuya, tôi vẫn c̣n cặm cụi trước những ḍng chữ quái đản:
Tại sao em thích gọi tên hoa
Nào ngày mai của chúng ta buông từng cánh
Xuống vai trần
Viền cỏ
Bông tóc nâu
Em sẽ gọi tên anh
Mùa hoa hôm nay
Nhưng thời gian đă ngả vào ḷng vô định
Chút sữa huệ ấm đời thiếu tiếng chim
Cánh hồng ngọt không gian tàn phá
Những thời gtan [sic] không rời nhau mang đến bao nhiêu mùa
Dạy em yêu phía sau cửa sổ
Thiếp điên trong chuỗi dài giấc ngủ
Rất vui
………
(Trang 32, HOA)
Tôi lật xuống những trang dưới, đọc tiếp.
………
Tôi ru chim ngủ trong cổ họng
Mặt trời kêu xuống thái dương những màu ánh sáng thơm
Tim kinh ngạc
Đời tạo câu cười thiên nhiên măi
Hy vọng đứng ra ngoài ô ngục, ngực bâng khuâng
Lần gặp gỡ thứ nhất
Rồi kỷ niệm kim khí thủy tinh hành hạ
Đau xé trời đêm không sao bánh máy quay vũ khí
Tôi chối từ giam cầm chim đẹp trong rừng tóc
Dù tiếng hót đă chạm mấy hàm răng
Người bộ hành cô đơn chờ đêm để lên đường
Về quá khứ
Chim bay vào trận mưa sao
(Trang 46 - CHIM)
Trời ơi! đă trót yêu thơ th́ tôi đành gian-díu [sic] với thơ
chứ cứ đọc măi cái điệu thơ này rồi cũng đến loạn óc mất thôi. Thi ca lập
dĩ đến thế là cùng. Người ta bỏ hết dấu, người ta vứt vần xuống gót chân
thô bạo, người ta cố t́nh ép uổng cho ư tứ thành bí hiểm: không phải người
ta làm thơ mà định giết chết thơ. Hành hạ Nàng thơ đến như vậy thật dă man
hết chỗ nói. Ấy thế mà Thanh Tâm Tuyền c̣n kêu là thơ anh bắt nguồn từ ca
dao; ở trang 42 anh viết:
Không đa đa siêu thực
Thẳng thắn
Khởi từ ca dao sang tự do
Tôi ngờ rằng Thanh-Tâm-Tuyền nói dối. Âu cũng là một mánh-khóe
ḷe đời của những người cuồng chữ. Bảo rằng thơ anh chuyển từ ca-dao sang
th́ quả là định làm hại cái hay mộc mạc nhưng đầy vẻ quyến dũ [sic] của
ca-dao. Ca-dao là một thứ văn chương b́nh-dân, đơn giản, phóng khoáng,
sáng-sủa biết bao nhiêu, sao lại có thể chuyển nó sang một lối thơ “hũ
nút” như vậy được.
*
Thật ra, tôi vẫn mến Thanh-Tâm-Tuyền v́ anh là một thanh-niên
tha-thiết với cách-mạng và anh đă muốn dùng thơ để ca-ngợi cách-mạng.
Nhưng nếu định dùng một lối thơ lập-dị để phát huy và
truyền-bá tinh-thần cách-mạng, tôi e rằng khó mà thành-công. Tinh-thần
cách-mạng cần được phát huy bằng những lời thơ sáng-sủa, nhịp-nhàng, giầu
âm-điệu hơn.
H́nh-thức của thơ càng linh-động, càng hấp dẫn, càng có năng
lực làm người ta rung động; h́nh thức bí hiểm, tư tưởng cũng thành tối om,
làm sao nó gây được ảnh-hưởng trong ḷng người đọc.
Tôi không phủ nhận vai tṛ cần thiết của sự tự-do trong thơ,
nhưng tôi chủ trương sự tự-do đó không tuyệt đối, nó phải được giới hạn
trúng mức truyền cảm. Giới hạn đó không bắt buộc đứng yên một chỗ; nó có
thể biến đổi, di-động tùy theo không gian và thời gian, tùy theo vài
sáng-tạo của mỗi thi sĩ. Sự thực, chúng ta chẳng cần bàn nhiều về nó, ở
đây, ta chỉ cần nêu ra một kết luận hết sức đơn giản:
“Thi sĩ có toàn quyền định giới hạn cho sự tự do trong thơ ca
của ḿnh miễn làm sao thơ của họ phải đạt được mục đích chính yếu là
truyền cảm. Thiếu tính chất truyền cảm nó hết là thơ”.
Buồn thay, đọc thơ Thanh-tâm-Tuyền ta hầu như không thấy
tính-chất truyền cảm có nghĩa là ít khi ta thấy rung động mà phần nhiều
chỉ thấy bực ḿnh v́ thơ.
*
Tuy nhiên, nếu cố giữ b́nh thản để đọc thơ anh, ta cũng t́m
thấy đôi chỗ tạm gọi là nghe được. Những gịng hiếm hoi đó nằm trong vài
bài thơ tương đối đỡ kỳ-quặc hơn. Bài TRƯỜNG-THÀNH (trang 18) đă khiến ta
súc cảm [sic] nhờ ư tưởng nồng nàn của tác giả:
Anh biết v́ sao Cộng-Sản thủ tiêu Khái-Hưng.
Mỗi lần hoàng hôn tôi bước cùng đám đông
Ḷng khẫn cầu [sic] cách mạng
Anh biết v́ sao Cộng-Sản thủ tiêu Phan-văn-Hùm
Mỗi lần hoàng hôn chạm mặt từng người
Có phải chúng ta đang sửa soạn
Anh biết v́ sao Cộng-Sản thủ tiêu Tạ-thu-Thâu
Mỗi lần hoàng hôn tôi cố thở cho nhiều
Các anh nhớ tôi c̣n sống
Quờ quạng tay dan díu
Cách-mạng nổi trong sự nín thinh.
………
Mỗi lần hoàng hôn tôi chỉ là người văn-nghệ bé nhỏ.
Hoặc tôi câm mồm hoặc tôi thét la.
Mặc chúng dụ-dỗ mặc chúng dọa-nạt
Chúng sợ cách mạng vô cùng.
………
Bài “MƯA NGỦ” (trang 48) gợi cho ta tính chất quyến dũ [sic]
của một thứ “poème en prose” của Baudelaire (1).
Mấy bài thơ này khiến tôi nghĩ hoài về Thanh-tâm-Tuyền tuy tôi
đă cất cuốn “TÔI KHÔNG C̉N CÔ ĐỘC” vào ngăn tủ. Tôi tin rằng, nếu anh chịu
rời bỏ lối thơ kỳ-quái hiện nay của anh để nhận lấy một lối thơ hợp lư
hơn, thơ anh sẽ có nhiều triển vọng. Anh là người giầu t́nh cảm, giầu ḷng
yêu nước, thèm khát TỰ-DO và có óc tưởng-tượng thật phong-phú. Tiếc thay,
cái tính ưa lập-dị của anh đă phản anh đă bóp nghẹt mất cả một hồn thơ
rộng mở trong anh.
Tháng giêng 1957
(1) Ngoài ra, trong tờ sáng tạo số 4 [sic], ra hồi đầu tháng
giêng 1957, ta c̣n được thưởng thức một bài nhan đề:
HĂY CHO TA KHÓC BẰNG MẮT EM,
NHỮNG CUỘC T̀NH DUYÊN BUDAPEST.
Với ư tưởng tân kỳ, bài này cũng được một số người thích,
(trích nguyệt san Sinh Lực, số 9, 1/3/1957, tr. 78-82)
-----------
Sau này, năm 1973, trên số Văn đặc biệt về Thanh Tâm Tuyền, Lê
Huy Oanh đă viết khác hẳn, chẳng hạn: “Thanh Tâm Tuyền đă tuyên bố như vậy
[tức đoạn đề từ] ở đầu tập Tôi không c̣n cô độc. Trong cơn giận dữ rất
chân thật, tôi đă mạt sát đả kích anh ta thậm tệ để rồi chỉ ít ngày sau
tôi dần dần thấy tất cả sự nông nổi bất công của những lời mạt sát đó,
những cử chỉ đả kích đó. Tôi đă không ngần ngại “ném cuốn sách ra cửa sổ”
để rồi tôi lại len lén bước ra nhặt nó lên, ấp nó vào ngực, mang nó vào
nhà. Vậy th́, vậy th́ tôi chỉ c̣n có cách phải chịu thần phục những luật
lệ tinh thần của “vị hoàng đế” ấy bởi tôi rất muốn tiếp tục chuyến đi vào
lănh thổ của ông ta” (bài “Kư sự về một chuyến đi kỳ thú vào vùng rung
cảm”, tr. 11).
8/13/12