Ngày mai là ngày lễ Mẹ,
tôi xem bài của người bạn văn Trần Trung Đạo trong ư nghĩ tán đồng và tâm
tư rung động qua ḍng văn của anh. Tôi nghe kể anh không may mắn như nhiều
người. Me. anh mất khi anh c̣n tấm bé. V́ thế nên khi anh mô tả sự bao la
của t́nh mẹ trong nỗi niềm cần thiết một bóng h́nh người mẹ đi bên cạnh
cuộc đời. Anh dẫn nhập bài viết bằng câu ngạn ngữ ví h́nh ảnh người mẹ như
sau:
"Một
danh ngôn mà chúng ta thường nghe “thế giới có rất nhiều kỳ quan, nhưng kỳ
quan tuyệt vời và vĩ đại nhất vẫn là trái tim người mẹ” Thật vậy, bao
nhiêu thơ viết về mẹ cũng không đủ, bao nhiêu nhạc hát về mẹ cũng không
vừa. Biển Thái B́nh bao la, nước sông Hằng cuồn cuộn nhưng không sao có
thể so sánh được với tấm ḷng của mẹ. Bản nhạc nào viết về mẹ cũng hay,
bài thơ nào viết về mẹ cũng cảm động bởi v́ ngôn ngữ dành cho mẹ là ngôn
ngữ của trái tim.
Mẹ là biểu tượng trọn vẹn và tuyết
đối của tinh thần Chân Thiện Mỹ. Nếu có một người để chúng ta có thể san
sẻ những điều thầm kín, riêng tư nhất, th́ người đó phải là mẹ. Nếu có một
người có thể tha thứ cho chúng ta dù phạm phải bất cứ một lỗi lầm ǵ,
người đó sẽ là người mẹ. Tôi tin, nếu chúng ta biết dành ư nghĩ đầu tiên
của một ngày, thay v́ để nghĩ đến chuyện hơn thua, danh lợi nhưng là để
nghĩ về mẹ, nghĩ về khuôn mặt của mẹ, tiếng cười của mẹ, lời dặn ḍ của mẹ
hay thậm chí chỉ để gọi tiếng mẹ thôi, chúng ta sẽ có một ngày an lành và
hạnh phúc.
Mẹ là người mang ta
đến cuộc đời, và cũng là nơi ta trở về. Người đàn bà chân mang đôi dép
ngược, khoát chiếc mền rách, như trong một câu chuyện thiền mà chúng ta có
thể đă từng nghe kể, dù bao mùa mưa nắng vẫn không than van, không oán
trách, vẫn chờ đơi ngày về của đứa con măi mê trên đường đi t́m chân lư.
Nếu chân lư mà chàng trai trẻ kia đi t́m là t́nh thương và sự thật th́
chân lư sẽ không ở đâu xa mà trái lại vô cùng gần gủi. Trong tấm thân gầy
yếu nhỏ nhoi của người mẹ chứa đựng cả một đại dương của hy vọng, t́nh yêu,
sự thật và ḷng vị tha sâu thẳm."
Mọi người nói chung
dễ dàng đồng thuận một kỳ quan vĩ đại nhất của thiên nhiên vẫn là người
hiền mẫu, như Trần Trung Đạo viết dáng mẹ hiền dù có nhỏ bé, gầy guộc,
nhưng ḷng của mẹ thương con cái chứa đựng cả một đại dương của hy vọng,
t́nh yêu, sự thật và ḷng vị tha sâu thẳm.
Trần Trung Đạo là
một nhà văn, anh chọn viết về những đề tài thuộc khuynh huớng xă hội và
nhân bản. Anh c̣n là một nhà thơ. Tôi c̣n nhớ bài thơ gây nhiều xúc động
là "Đứa bé và viên sỏi", về chuyện vượt biên buồn thảm, cha mẹ mất, cháu
bơ vơ, nhạc được nhạc sĩ Phan Văn Hưng phổ nhạc. Bài thơ khác của Đạo được
giới văn học chú ư là "Đổi Cả Thiên Thu Lấy Tiếng Mẹ Cười", được nhạc sĩ
Vơ Tá Hân phổ nhạc. Lời thơ sâu sắc thắm đượm t́nh mẹ, trích dẫn:
"Buổi
ấy con đi chẳng hẹn thề
Ngựa rừng xưa lạc dấu sơn khê
Mười năm tóc mẹ màu tang trắng
Trắng cả ḷng con lúc nghĩ về
Mẹ vẫn ngồi đan một nỗi buồn
Bên đời gió tạt với mưa tuôn
Con đi góp lá ngh́n phương lại
Đốt lửa cho đời tan khói sương"
Rồi
cuối bài, anh cho 2 câu kết như một câu nói bất hủ trong văn chương hay
đời sống:
"Ví
mà tôi đổi thời gian được
Đổi
cả thiên thu tiếng mẹ cười."
Trích
bài "Happy Mother's Day 2009: Mẹ và Quê Hương", rồi Đạo tâm sự thêm:
"Bài
thơ ra đời trong một đêm mưa, sau lần điện thoại đầu tiên với mẹ tôi từ
Việt Nam. Giọng của mẹ như vọng lại từ một thế giới khác xa xôi. Tôi viết
rất nhanh, nhanh hơn khi viết những bài thơ khác nhiều. Những ḍng chữ,
những câu thơ đúng ra là từ mơ ước, thao thức đă ấp ủ trong tâm thức tôi
từ lâu lắm, chỉ chờ dịp để tuôn ra. Tôi không làm thơ, tôi chỉ chép như có
một người nào đang nhắc nhở bên tai ḿnh. Nguyên văn bài thơ như thế này:
« Nhấc chiếc phone lên bỗng lặng người
Tiếng
ai như tiếng lá thu rơi
Mười
năm mẹ nhỉ, mười năm lẻ
Chỉ
biết âm thầm thương nhớ thôi
Buổi
ấy con đi chẳng hẹn thề
Ngựa
rừng xưa lạc dấu sơn khê
Mười
năm tóc mẹ màu tang trắng
Trắng
cả ḷng con lúc nghĩ về
Mẹ
vẫn ngồi đan một nỗi buồn
Bên
đời gió tạt với mưa tuôn
Con đi góp lá ngh́n phương lại
Đốt
lửa cho đời tan khói sương
Tiếng
mẹ nghe như tiếng nghẹn ngào
Tiếng
Người hay chỉ tiếng chiêm bao
Mẹ
xa xôi quá làm sao vói
Biết
đến bao giờ trông thấy nhau
Đừng
khóc mẹ ơi hăy ráng chờ
Ngậm ngùi con sẽ dấu trong thơ
Đau thương con viết vào trong lá
Hơi ấm con t́m trong giấc mơ
Nhấc chiếc phone lên bỗng lặng người
Giọng buồn hơn cả tiếng mưa rơi
Ví mà tôi đổi thời gian được
Đổi cả thiên thu tiếng mẹ cười.”
Bài
thơ đơn giản và dể hiểu, không có ǵ phải cần b́nh giải. Tất cả chỉ để nói
lên tâm trạng của một người con xa mẹ, bay đi như chiếc lá xa cành, mười
năm chưa về lại cội. Năm tôi viết bài thơ, mẹ tôi, đă ngoài 60 tuổi và
đang sống trong căn nhà tôn nghèo nàn ở Ḥa Hưng Sài G̣n. Căn nhà nhỏ có
giàn hoa giấy đỏ đó là nơi tôi đă sống 8 năm.
Nhớ lại đêm cuối cùng ở Sài G̣n, tôi
đón xe xích-lô từ cửa sông về chào mẹ. Trời mưa lớn. Nhưng khi gặp mẹ, với
tâm trí ngàn ngập những lo âu, hồi hộp cho chuyến đi, tôi không kịp nói
một câu cho trọn vẹn ngoài ba tiếng “con đi nghe”. Và như thế tôi đi, đi
không ngoảnh lại, đi như chạy trốn. Để rồi hai ngày sau, khi chiếc ghe nhỏ
của chúng tôi được hải quân Mỹ cứu vớt trên biển Đông vào khuya ngày 13
tháng 6 năm 1981, đứng trên boong chiến hạm USS White Plains nh́n về phía
Nam, tôi biết quê hương và mẹ đă ngoài tầm tay vói của ḿnh. Đời tôi từ
nay sẽ như chiếc lá, bay đi, bay đi, chưa biết ngày nào hay cơ hội nào trở
về nguồn cội."
Bạn bè của Đạo biết bà mẹ Ḥa Hưng
là mẹ nuôi, nhưng trong cái tâm đạo của người con, Đạo rất qúy bà như mẹ
ruột.
"Tôi nhớ đến mẹ, người mẹ Ḥa Hưng
vất vả nuôi nấng bảy đứa con, trong đó tôi là con lớn nhất, trong một hoàn
cảnh hết sức khó khăn. Mẹ tôi bán bánh bèo ở đầu đường để nuôi chúng tôi
ăn học. Mẹ tôi t́nh nguyện đi kinh tế mới ở Sông Bé để các em tôi c̣n được
phép ở lại Sài G̣n học hết bậc phổ thông. Mẹ tôi đi mót lúa, mót khoai gởi
về nuôi nấng chúng tôi trong những ngày đói khổ.
Trong tâm trí tôi, h́nh ảnh bà mẹ
Ḥa Hưng, đêm đầu tiên trong căn nhà không vách trên vùng Kinh Tế Mới,
khoảng 20 cây số phía Nam thị trấn Đồng Xoài vào năm 1976. Cánh rừng vừa
được khai hoang vội vă này không ai nghĩ một ngày sẽ được gọi bằng một cái
tên rất đẹp, khu Kinh Tế Mới. Kinh Tế Mới là những căn nhà lá mỗi chiều
chỉ hơn mười mét do những bàn tay học tṛ của thanh niên xung phong dựng
lên, nối nhau chạy dọc theo cánh rừng hoang.
Tôi kính yêu mẹ. Mẹ Ḥa Hưng là
người săn sóc tôi trong những tháng ngày khó khăn nhất của tôi và người đă
thôi thúc tôi viết nên bài thơ Đổi Cả Thiên Thu Tiếng Mẹ Cười trong đêm
mưa hơn mười năm trước. Tuy nhiên, mẹ của Đổi Cả Thiên Thu Tiếng Mẹ Cười
không phải là người đă mang tôi vào cuộc đời này.
Người mẹ sinh ra tôi đă chết khi tôi
c̣n rất nhỏ. Nhỏ đến nỗi tôi gần như không biết mặt mẹ ḿnh. Trong tuần
hoàn của vũ trụ, giọt nước c̣n biết mẹ ḿnh là mây, chiếc lá c̣n biết mẹ
ḿnh là cây, c̣n tôi th́ không. Tôi là đứa bé cô độc, một con người cô độc,
không anh em, không chị em. Tôi lớn lên một ḿnh với cha tôi trong cảnh gà
trống nuôi con trong căn nhà tranh nhỏ ở làng Mă Châu, quận Duy Xuyên. Đêm
đêm nằm nghe cha kể chuyện thời trai trẻ buồn nhiều hơn vui của đời ông.
Những ngày tản cư lên vùng núi Quế Sơn. Những ngày sống trong túp lều
tranh dưới hàng tre Nghi Hạ. Và dưới hàng tre Nghi Hạ nắng hanh vàng đó,
cha mẹ tôi đă gặp nhau, đă chia nhau ly nước vối chua chua thay cho chén
rượu tân hôn nồng thắm. Dù sao, bên khung cửi vải, bên ḷ ươm tơ, họ đă
cùng nhau dệt một ngày mai đầy hy vọng. Mặt trời rồi sẽ mọc bên kia rặng
tre già, mặt trăng rồi sẽ tṛn bên kia gịng sông Thu, những ngày chiến
tranh, tản cư cực khổ sẽ qua đi nhường bước cho ḥa b́nh sẽ đến.
Nhưng rồi chiến tranh như một định
nghiệp, đeo đuổi theo số phận của đất nước chúng ta, đeo đuổi theo số phận
của đời tôi. Năm tôi 13 tuổi, chiến tranh đă cướp đi cha tôi, người thân
yêu cuối cùng của tôi. Chiến tranh lan tràn đến làng Mă Châu, đẩy tôi ra
khỏi xóm lụa vàng thân quen để làm người du mục trên quê hương đổ nát của
ḿnh. Từ đó tôi ra đi. Từ chặng đường đầu tiên trên căn gác hẹp trong con
hẻm 220 Hùng Vương Đà Nẵng, đến chùa Viên Giác Hội An, xóm nghèo Ḥa Hưng,
trại tỵ nạn Palawan và hôm nay trên nước Mỹ, nơi cách chặng đầu tiên trong
hành tŕnh tỵ nạn của tôi hàng vạn dặm."
Nói về h́nh ảnh mẹ, điển h́nh qua âm
nhạc, nhạc sĩ Y Vân sáng tác cho mẹ ḿnh bài ca bất tử mà đời sống và văn
học biết ơn cho tác phẩm thật tuyệt vời này:
"Ḷng Mẹ chan chứa trên bao xóm
làng gần xa.
T́nh Mẹ dâng tới trăng ngàn đứng
lặng để nghe,
Lời ru xao xuyến núi đồi suối
rừng rặng tre.
Sóng ven Thái B́nh im ĺm khi
tiếng Mẹ ru.
Một ḷng nuôi nấng vỗ về những
ngày c̣n thơ.
Một t́nh thương mến êm như tiếng
đàn lời ca.
Mẹ hiền sớm tối khuyên nhủ bao
lời mặn mà.
Khắc ghi bên ḷng con trẻ muôn
bước đường xa.
Thương con Mẹ hát câu êm đềm,
Ru ḷng thơ ấu quản ǵ khi thức
trắng đêm.
Bao năm nước mắt như suối nguồn.
Chảy vào tim con mái tóc trót
đành đẫm sương.
Dù ai xa vắng trên đường sớm
chiều về đâu.
Dù khi mưa gió tháng ngày trong
đời bể dâu.
Dù cho phai nắng nhưng ḷng
thương chẳng lạt mầu.
Vẫn mong quay về vui vầy dưới
bóng mẹ yêu"
(Ḷng Mẹ)
Tôi có cô bạn khi theo chồng sang
định cư tại Paris, Hải Yến xúc động mỗi khi cô ca đoạn cuối của bài hát
này v́ câu hát nói về ước muốn gặp mẹ, nhớ mẹ từ xa: “Vẫn mong quay về
vui vầy dưới bóng mẹ yêu".
Một bài ca khác tôi muồn nói đến là
bài Khóc Mẹ Đêm Mưa của nhạc sĩ Anh Bằng, mà nội dung nhớ người mẹ đă quá
văng với lời nhạc thật xót xa như sau:
"Có những lần con
khóc giữa đêm mưa
Khi h́nh mẹ hiện
về năm khói lửa
Giặc đêm đêm về
quê ta vây khốn
Bắt cha đi mẹ
khóc suốt đêm buồn
Ôi thương mẹ vất
vả sống nuôi con
Đi vội về sợ con
thơ ngóng chờ
Nhưng mẹ đi không
bao giờ về nữa
Ngă trên đường
tức tưởi chết trong mưa
Mẹ ơi mẹ ơi tan
chiêm bao nước mắt thành ḍng
Con gọi mẹ một
ḿnh trong đêm vắng
Mẹ ơi mẹ ơi có
nghe chăng lời con vang vọng
Tới mộ phần trên
vuông đất quê hương
Con lang thang
giữa đời quạnh hiu quá
Đâu cũng sống
nhưng không đâu là nhà
C̣n quê mẹ xa nửa
ṿng thế giới
Con không về từ
ngày mẹ ra đi
Đêm tha hương con
gục đầu tưởng nhớ
Trên đời này mẹ
con không gặp nữa
Trên đời này
không bao giờ gặp nữa
Mẹ ơi mẹ con khóc
giữa đêm mưa"
Nhạc sĩ Anh Bằng tâm sự với tôi khi
ông tiễn đưa mẹ của một người bạn trẻ, bạn ông thương, khóc mẹ như mưa.
Tối về khi cơn mưa đến bên ngoài, ông dâng nguồn thơ ư nhạc từ sự kiện
người mẹ của người bạn qua đời, ông nhớ đến thân mẫu của ḿnh trong ray
rứt nhớ thương, để rồi bài hát này đóng góp tích cực vào kho tàng những
bài ca về mẹ. Trở lại với Trần Trung Đạo, anh sáng tác bài thơ "Đổi Cả
Thiên Thu Lấy Tiếng Mẹ Cười" vào một đêm mưa nhớ mẹ Ḥa Hưng. Trong đoạn
văn khác anh tâm sự về mẹ ruột ở làng Mă Châu, anh nhớ đến ngôi mộ chôn
cất mẹ trong hoang phế, khi ấy anh c̣n bé lắm với bao suy tư về cuộc đời
và về thân phận của ḿnh, tôi hiểu tư tưởng và ḷng anh lắm. Bài viết này
tôi xin gửi đến Trần Trung Đạo, Anh Bằng, Vơ Tá Hân, Hải Yến, Thụy Trinh,
Bạch Hạc, Vân Khanh, Mỹ Hạnh, Vương Hà, Mai Ngọc Lư, Khánh Trang, cũng như
Quỳnh Giao và Thúy Anh,... nhiều nguời bạn mà tôi có dịp trao đổi ư tưởng
về mẹ.
Hăy nghe tiếp lời của Trần Trung Đạo:
"H́nh ảnh duy nhất của tôi về mẹ là
ngôi mộ đầy cỏ mọc dưới rặng tre già ở làng Mă Châu. Ngày tôi c̣n nhỏ, mỗi
buổi chiều khi tan trường tiểu học, trên đường về tôi thường ghé thăm mộ
mẹ. Nhổ những bụi cỏ hoang, trồng thêm những chùm hoa vạn thọ. Tôi ưu tư
về cuộc đời và về thân phận của ḿnh ngay từ thuở chỉ vừa năm, bảy tuổi.
Tại sao tôi chỉ có một ḿnh? Tại sao mọi người đều lần lượt bỏ tôi đi? Nếu
mai mốt ba tôi cũng đi th́ tôi sẽ sống với ai? Lớn lên tôi sẽ làm ǵ? Tại
sao đất nước tôi lại có chiến tranh? Những người du kích bên kia sông là
ai? Và ở đó những buổi chiều vàng, bên ngôi mộ nhỏ của mẹ, tôi để ḷng
tuôn chảy những suy tư, dằn vặt đang bắt đầu tích tụ. Từ khi năm bảy tuổi
tôi đă linh cảm cuộc đời tôi sẽ là những ngày đầy biến cố. Tôi đă nghĩ đến
chuyện một ngày nào đó tôi sẽ đi xa khỏi rặng tre già, khỏi ngôi làng tơ
lụa Mă Châu dường như thôn làng nhỏ bé này sẽ không đủ lớn để chứa hết
những buồn đau, u uất của tôi. Nếu tuổi thơ là tuổi hồn nhiên với những
cánh diều bay, với những con bướm vàng thơ mộng th́ tôi đă không có tuổi
thơ. Tuổi thơ tôi là một chuổi ngày ưu tư và chờ đợi một điều ǵ sắp đến.
Mẹ tôi qua đời v́ bịnh trong một xóm
nhà quê nghèo khó nên không có ngay cả một tấm h́nh để lại cho tôi. Cha
tôi thường bảo, tôi giống cha nhiều hơn giống mẹ. Tôi cũng chẳng có cậu
hay d́ nên tôi lại càng không thể t́m đâu ra được một nét nào của mẹ trong
những người thân c̣n sống. V́ không biết mẹ, nên mẹ trở thành tuyệt đối.
Khi nh́n ánh trăng tṛn trong ngày rằm tháng Bảy, tôi nghĩ đó là khuôn mặt
dịu dàng của mẹ, nh́n nước chảy ra từ ḍng suối mát tôi nghĩ đến ḍng sữa
mẹ, nh́n áng mây trắng bay trên nền trời tôi nghĩ đến bàn tay mẹ, nh́n
những v́ sao trên dải thiên hà tôi nghĩ đến đôi mắt mẹ. Nói chung, h́nh
ảnh nào đẹp nhất, tinh khiết nhất, thiêng liêng nhất, đều được tôi nhân
cách hóa nên h́nh ảnh mẹ. Vẻ đẹp của mẹ tôi là vẻ đẹp không những tuyệt
vời mà c̣n tuyệt đối.
Tôi về thăm mộ mẹ lần cuối vào năm
1980 trước ngày vượt biển. Ngôi mộ đầy cỏ mọc hoang vu. Sau 1975, ngay cả
người sống cũng không ai chăm nom đừng nói ǵ chuyện chăm nom cho người đă
chết. Hôm đó, tôi ngồi nơi tôi đă từng ngồi trong thời thơ ấu và kể cho mẹ
nghe đoạn đời ch́m nổi của ḿnh. Tôi nói với mẹ rằng tôi sẽ ra đi khỏi
nước và hứa sẽ về dù biết nói như thế chỉ để an ủi hương hồn mẹ mà thôi.
Tôi cầu mong mẹ pḥ hộ cho đứa con duy nhất của mẹ được b́nh an trong
những ngày sóng gió sắp xảy ra."
Đại thi hào Nga Aleksandr
Sergeyevich Pushkin là người có những đóng góp to lớn trong việc phát
triển ngôn ngữ văn học Nga hiện đại và toàn châu Âu. Ông mất khi mới 37
tuổi nhưng đă để lại nhiều kiệt tác như "Evgeny Onegin", "Con gái viên đại
úy", "Con đầm pích", "Boris Godunov",... Ông được coi là biểu tượng của
ḍng văn học lăng mạn và tả chân của nước Nga và châu Âu thế kỷ 19.
Pushkin làm thơ gửi mẹ nuôi mà ông thương, kính trọng như nhũ mẫu của ḿnh:
"Mẹ thân thiết
trong những ngày cơ cực
Nguồn mến thương
nâng bước đời con!
Rừng thông thăm
thẳm cô đơn
Ngóng con ngày
tháng mỏi ṃn mẹ trông
Trong pḥng khách
bên song cửa sổ
Như người canh,
thương nhớ mênh mang
Tay già lần mũi
kim đan,
Như đang đếm bước
thời gian chậm buồn
Mẹ thẫn thờ nh́n
đường thăm thẳm
Lối cổng vào bỏ
vắng từ lâu
Buồn thương, linh
cảm, lo âu
Lại càng chất
nặng thắt đau ngực già..."
(Gửi mẹ nuôi - Thúy Toàn dịch từ
Nga ngữ)
Từ Aleksandr Sergeyevich Pushkin đến
Trần Trung Đạo đều có mẫu số chung, dù dưỡng mẫu hay nhũ mẫu, hai nhà thơ
đă dành những tâm tư trang trọng nhất cho 2 mẫu người mẹ trong văn học,
thực vậy từ Âu sang Á, sự xúc cảm về mẹ cho văn chương mẹ măi măi thăng
hoa.
"Ôi đời mẹ như một vầng trăng
khuyết
Vẫn ngh́n năm le lói ở đầu sông.
Vâng, vầng trăng bên ḍng sông Thu
Bồn từ đó không c̣n tṛn như trước nữa.
Ai cũng có một cuộc đời để sống. Nỗi
bất hạnh nào rồi cũng nguôi ngoai. Vết thương nào cũng lành đi với thời
gian. Tuy nhiên có một nỗi bất hạnh sau bao nhiêu năm dài vẫn c̣n, đó là
bất hạnh của dân tộc Việt Nam. Điều làm tôi đau xót nhiều hơn cả, không
phải v́ tôi mất mẹ, không phải v́ tôi xa mẹ nhưng chính là sự chịu đựng
của hàng triệu bà mẹ Việt Nam triền miên suốt mấy chục năm qua, từ chiến
tranh sang đến cả ḥa b́nh.
Trên thế giới này, bà mẹ Nga, mẹ Ư
cũng thương con như một bà mẹ Việt Nam. Trong lúc t́nh yêu của một bà mẹ ở
quốc gia nào cũng bao la, cũng rộng lượng, cũng vô bờ bến, tôi vẫn tin một
bà mẹ Việt Nam th́ khác hơn nhiều. Bà mẹ Việt Nam, ngoài là biểu tượng cho
tất cả những nét đẹp của quê hương, đất nước, t́nh thương, c̣n là những
h́nh ảnh đầy thương tích, tủi buồn nói lên sự chịu đựng, gian nan, khổ cực
không thể nào đo lường hết được. H́nh ảnh bà mẹ giăng tấm vải dầu trên một
góc đường Trần Hưng Đạo để che nắng che mưa cho bầy con thơ dại đang đói
khát. H́nh ảnh bà mẹ chết đói sau khi ghe của mẹ đi lạc nhiều tuần trên
biển. H́nh ảnh bà mẹ chết trong mỏi ṃn tuyệt vọng dưới gốc me già trên
góc phố Sài G̣n vào một ngày mưa băo. H́nh ảnh bà mẹ chết cô đơn trong
chiếc thuyền chài nghèo nàn. Tất cả h́nh ảnh đau thương đó đă trở thành
mối ám ảnh thường xuyên trong tâm trí tôi. Ám ảnh nhiều đến nổi, dù viết
về bất cứ chủ đề ǵ, thể loại ǵ, văn hay thơ, cuối cùng tôi cũng trở về
với h́nh ảnh mẹ. Mỗi bước chân tôi đi trên đường đời mấy chục năm qua vẫn
c̣n nghe vọng lại tiếng khóc của những người phụ nữ Việt Nam bất hạnh, đă
khóc trong chiến tranh, khóc trong ḥa b́nh, khóc trong bàn tay hải tặc
giữa biển Đông và khóc trên xứ người hiu quạnh.
Mơ ước lớn nhất của tôi, v́ thế,
không phải cho tôi mà cho những người mẹ đang chịu đựng, để các mẹ có cơ
hội được sống trong một đất nước không c̣n hận thù, rẻ chia, ganh ghét,
một đất nước chan chứa t́nh đồng bào, một đất nước thật sự tự do, ấm no,
hạnh phúc. “Đổi cả thiên thu tiếng mẹ cười” trong một ư nghĩa rộng hơn là
ước mơ của tôi, của anh chị, của cô chú và của tất cả những ai c̣n nghĩ
đến sinh mệnh của dân tộc, về một ngày đẹp trời cho đất nước ḿnh. Quá
nhiều máu và nước mắt đă đổ trên mảnh đất linh thiêng và thống khổ Việt
Nam. Mỗi người Việt Nam, hơn bao giờ hết hăy trở về với mẹ như trở về với
chính cội nguồn uyên nguyên của dân tộc ḿnh. Trong đêm rằm tháng Bảy này,
xin hăy cùng nhau thắp lên những ngọn nến, dù nhỏ, dù đơn sơ nhưng được
làm bằng chất liệu dân tộc, nhân bản và khai phóng đă được tổ tiên chúng
ta hun đúc sau hơn bốn ngàn năm lịch sử.
Đời tôi là những cơn mưa dài. Mưa
khi tôi rời làng Mă Châu, mưa trong đêm đầu tiên trong căn gác trên đường
Hùng Vương Đà Nẵng, mưa dưới gốc đa già ở Chùa Viên Giác, mưa khi tôi vừa
đặt chân đến Sài G̣n lần đầu tiên và mưa lớn trong đêm tôi rời đất nước ra
đi. Nhưng tôi chưa bao giờ tuyệt vọng, chưa bao giờ cảm thấy cuộc đời là
hố thẳm. Tôi không sống trong hôm qua, trái lại mỗi ngày là một chặng
đường mới của đời ḿnh. Tôi b́nh tĩnh đến độ hồn nhiên khi đón nhận những
khắc nghiệt đến với đời tôi và tôi rất lạc quan trong khả năng chuyển hóa
hoàn cảnh của chính ḿnh."
Tôi xin dùng kết luận của Trần Trung
Đạo để chấm dứt bài viết "Mother's Day Nhớ Mẹ" này v́ chính lời văn và thơ
của anh tạo cho tôi nguồn suy tư về Trần Trung Đạo và Alexander Pushkin
chia sẻ những ẩn ư về Mẹ trong văn học:
"Trong cuộc đời này, tôi đă nhiều
lần vấp ngă nhưng nhiều người cũng đă giúp vực tôi dậy, lau khô những vết
thương trên thân thể và trong cả tâm hồn. Tôi mang ơn xă hội nhiều đến nỗi
biết ḿnh sẽ không bao giờ trả hết. Tôi biết ơn những người đă che chở cho
tôi và cũng cám ơn cả những người đă dạy tôi hiểu giá trị của gian lao,
thử thách. Cám ơn đất nước đă cho tôi được làm người Việt Nam, cám ơn mẹ
Duy Xuyên mang tôi đến thế gian nầy, cám ơn mẹ Ḥa Hưng nuôi nấng tôi
trong những ngày bà con thân thuộc đă ruồng bỏ tôi, cám ơn cây đa già chùa
Viên Giác che mát cho tôi suốt năm năm dài mưa nắng. Nếu một mai tôi ra đi
không kịp viết điều ǵ, th́ đây, những kỷ niệm của một lần ghé lại. Trần
Trung Đạo".
Happy
Mother’s Day! May 2009.
Hoàng Nam Trần Việt Hải