|
TUỆ
TRUNG
THƯỢNG
SĨ
NGỌN ĐUỐC SÁNG CỦA
THIỀN HỌC ĐỜI TRẦN
Mục
Đồng
|


N ói đến
lịch sử Việt Nam, không ai là người dân Việt mà không lấy làm tự hào và
hănh diện về cha ông ḿnh trong các triều đại thịnh trị Lư - Trần. Điểm
son lớn của lịch sử dân tộc Đại Việt này đă viết nên những trang sử rất
oanh liệt, hào hùng, thật đáng ngưỡng mộ và khâm phục. Đỉnh cao của mỗi
triều đại này là các vị vua, nhất là các vua Trần tiền triều: từ Thái Tông
đến Nhân Tông, rồi Anh Tông, c̣n sau đó th́ không kể. Tiếp nối huyết mạch
quốc gia độc lập thái b́nh từ triều Lư, các vua Trần đă nêu những tấm
gương sáng trị quốc, an dân đúng theo các tiêu chuẩn mà nhà Nho tôn thờ: "Tu
thân, tề gia, trị quốc, b́nh thiên hạ".
Ba lần quân Nguyên Mông xâm lược đều bị vua quan, cùng toàn dân đứng lên
kháng chiến, đánh bật ra khỏi bờ cơi. Đó phải chăng là nhờ sự đoàn kết
trên dưới một ḷng, sự đoàn kết này được tạo nên nhờ các vị vua đầy đủ đức
tài, yêu nước thương dân, lấy dân làm gốc và ḥa hợp ḷng dân? Đó là những
hạt nhân tạo nên sự quy tụ và ủng hộ của toàn dân, v́ các nhà lănh đạo này
có lư tưởng phụng sự, có đầy đủ sức mạnh để biến lư tưởng làm hiện thực.
Sức mạnh đó là tấm ḷng trung kiên, ư chí nhiệt t́nh?
Đất nước thanh b́nh, nhân dân an cư lạc nghiệp th́
đương nhiên các mặt kinh tế, văn hoá, xă hội ... cũng ḥa nhập vào sự
thăng hoa ấy mà phát triển rực rỡ. Trong hào khí đó, người Phật tử Việt
Nam đời Trần cũng đă biết vận dụng sức mạnh tâm linh, nâng giá trị Phật
giáo Việt Nam lên một tầm cao và đóng góp rất nhiều vào công cuộc tô bồi
nền văn hóa dân tộc.
T rên hết, phải nói đến ngọn đuốc sáng Trần Thái Tông -
một tấm gương đời đạo vẹn toàn; vừa là một đấng minh chủ, vừa là một bậc
thiền giả giác ngộ và giải thoát thật sự. Tiếp theo ngọn đuốc sáng ấy là
một vị Bồ-tát tại gia: Tuệ Trung Thượng sĩ - h́nh ảnh tự tại giải thoát, "ḥa
quang đồng trần"; và người tiếp
nối tinh hoa thiền học của ông là Trần Nhân Tông, vị vua xứng đáng là một
anh hùng dân tộc, một sáng Tổ đă từng từ bỏ ngôi vị cao quư lên núi xuất
gia và sáng lập ḍng Thiền Trúc Lâm - Yên Tử, một ḍng Thiền mang đậm bản
sắc Phật giáo Việt Nam. Ḍng Thiền này tiếp tục rực sáng và soi nẻo tâm
linh cho bao thế hệ Phật tử dưới sự truyền thừa của hai vị Tổ: Pháp Loa và
Huyền Quang.
N ét đặc biệt của Phật giáo đời Trần là Thiền "biện tâm".
Một thứ thiền mà người nào thực hành cũng được, ở bất cứ nơi nào, thời
điểm nào, cũng thực hành được, không phân biệt Tăng hay tục, tại gia hay
xuất gia, như Trần Thái Tông có nói: "Không
phân biệt là sống giữa đời hay ẩn dật trong rừng, không phân biệt là tại
gia hay xuất gia, Tăng hay tục, chỉ cốt biện tâm. Vốn không nam nữ, sao
c̣n chấp tướng?". Thiền không
phải là một sự trốn chạy thực tế, một sự bó buộc, khép kín như một số
người đă lầm tưởng, mà Thiền là một phương pháp khai phóng nguồn năng
lượng vô cùng tận của nội tâm, để thấy được giá trị chân thật và nhiệm mầu
của các pháp. Nếp sống Thiền cũng không phải chỉ thích hợp riêng với bậc
xuất gia "cát ái
từ sở thân", mà bất ḱ ai, nếu có
cơ duyên đều có thể lănh hội và thích ứng. Điển h́nh như Cư sĩ Duy Ma Cật
thời Phật c̣n tại thế, Cư sĩ Bàng Long Uẩn ở Trung Hoa... đều là những cư
sĩ ngộ đạo. Đặc biệt ở Việt Nam, có Tuệ Trung Thượng sĩ Trần Tung, cũng là
một cư sĩ thấu triệt tôn chỉ Thiền tông, được "Tổ
ấn tâm truyền". Ông được từ trên
vua quan, Tăng sĩ, dưới đến thứ dân đều kính trọng và đến tham vấn tu học.
T uệ Trung Thượng sĩ tên
húy Trần Tung (có nơi ghi Trần
Quốc Tung), là con trai An Sinh Vương Trần Liễu, anh ruột Hưng Đạo Vương
Trần Quốc Tuấn và Hoàng hậu Nguyên Thánh Thiên Cảm (vợ vua Trần Thánh Tông).
Khi Trần Liễu mất, Thượng hoàng Trần Thái Tông (em ruột Trần Liễu) cảm
nghĩa, đă phong Thượng sĩ tước "Hưng Ninh Vương".
Thuở nhỏ, Thượng sĩ đă có bẩm chất thuần hậu, cao sáng
và kính mến đạo Phật. Lớn lên, được cử trấn đất Hồng Lộ (tức Hải Dương
ngày nay). Trong ba cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông, Thượng sĩ cũng như
các vương hầu thân tín khác, đă trực tiếp tham gia cầm quân chống giặc.
Trong cuộc kháng chiến thứ hai, ông đă cùng Quốc Công Tiết Chế Trần Quốc
Tuấn, đem quân kịch chiến với tướng giặc là Lưu Thái Anh và đuổi Thoát
Hoan chạy đến sông Như Nguyệt. Trong cuộc kháng chiến thứ ba, Thượng sĩ
được giao những nhiệm vụ ngoại giao quan trọng, nhiều lần đến đồn giặc
thương thuyết, trá hàng để quân giặc mất cảnh giác, sau đó cho quân đến
cướp doanh trại giặc. Sau ngày kháng chiến thắng lợi, ông được thăng chức
Tiết Độ Sứ, trấn giữ hải đạo Thái B́nh. Nhưng chỉ ít lâu sau, Thượng sĩ
lui về ấp Tịnh Bang (trang ấp được phong), lập Dưỡng Chân Trang, tiếp tục
tham cứu Ph?t học và tu thiền định. Ông tự xưng hiệu là Tuệ Trung, vua
Thánh Tông tặng hiệu là Thượng sĩ, nên ta thường gọi là Tuệ Trung Thượng
sĩ.
T huở thiếu thời,
Thượng sĩ đă mến mộ cửa Không, thờ Thiền sư Tiêu Dao ở tịnh xá Phước Đường
làm thầy và lănh hội được yếu chỉ nơi Ngài. Thiền sư Tiêu Dao - một nhân
vật nổi tiếng cuối đời Lư, là đồ đệ của Cư sĩ Ứng Thuận, thiền phái Vô
Ngôn Thông. Thượng sĩ tuy tu Phật mà không hề xuất gia, vẫn có gia đ́nh
như bao vương hầu khác. Nhưng v́ ngộ đạo rất sớm nên thường lấy thiền
duyệt làm vui, không ham công danh sự nghiệp mà lui về chốn thôn dă để tu
tĩnh. Đối với thầy, ông luôn tâm nguyện đền đáp công ơn giáo dưỡng:
"Thân tuy ngoài
cơi sâm với thương,
Ư vẫn trong
gương loan và phượng,
Nhàn nhă ngâm
khúc vô sinh
Hầu đáp ơn Thầy
mớm sữa...".
(Trích Lễ Thiền sư Tiêu Dao ở Tịnh xá Phước Đường)
T uệ
Trung Thượng sĩ là một nhân vật có hành trạng phi thường, một nhân vật nổi
tiếng trong Thiền môn. Tuy thân cư sĩ mà Ngài là một thiền gia đạt đạo, đă
siêu việt ngoài ṿng kiến chấp, không câu nệ giáo điều, h́nh thức. Lúc
Hoàng hậu Thiên Cảm c̣n sống, một lần Thượng sĩ được mời vào cung dự tiệc.
Bàn tiệc dọn đủ cả chay mặn, Ngài ung dung gắp thức ăn mà không hề phân
biệt. Hoàng hậu thấy thế, hỏi:
- Anh tu Thiền
mà ăn thịt cá th́ làm sao thành Phật được?
Ông cười đáp:
- Phật là Phật,
anh là anh. Anh không cần thành Phật, Phật không cần thành anh. Em chẳng
nghe cổ đức nói: " Văn
thù là Văn thù, giải thoát là giải thoát đó sao"?
Vua Nhân Tông
vốn đă chứng kiến câu chuyện ăn thịt cá của sư phụ ḿnh, nên nhân một lần
khác, bèn hỏi:
- Bạch Thượng
sĩ, chúng sinh quen theo cái nghiệp ăn thịt uống rượu th́ làm thế nào
thoát khỏi tội báo?
Ngài liền dùng
lư luận " tội tánh
vốn không" trả lời vua qua một
bài thi kệ, đại ư là: Tội phước đều do tâm sinh, tâm cảnh xưa nay đều vắng
lặng, th́ làm ǵ có tội phước? Sau đó Ngài c̣n tiếp kệ:
(Ăn cỏ với ăn
thịt, là thuộc tính vốn sẵn của chúng sinh. Như xuân đến thảo mộc sinh th́
c̣n đâu thấy tội phước?)
Qua đây, ta thấy phong thái của Ngài rất tự tại, siêu
việt ra ngoài có - không, mê - ngộ, sinh tử - Niết-bàn... Đối với giáo
điều sách vở, Ngài cũng không c̣n câu nệ. Tuy nhiên, những tư tưởng ngôn
thuyết trên chỉ thích hợp với một bậc Thượng sĩ vô chấp. C̣n những ai mới
vào cửa đạo, tâm c̣n nhiễm ái, nặng phàm phu, chỉ hồ đồ bắt chước trên
hiện tượng mà không thấy mặt quan trọng của giới luật và phần ẩn sâu bên
trong của tâm giải thoát, tuệ giải thoát th́ thật nguy hiểm. Hoà thượng
Thích Mật Thể trong
Việt Nam Phật giáo sử lược đă
khẳng định rơ: "Đừng
nên lầm sự vô ngại của các ngài đă giải thoát với những hành vi phóng túng
buông lung mà nguỵ biện giải thoát".
T hượng sĩ không những học thiền với Thiền sư Tiêu Dao
thuộc thiền phái Vô Ngôn Thông, mà Ngài c̣n nghiên cứu học hỏi nhiều ở các
ḍng thiền khác như Tỳ-ni-đa-lưu-chi, Thảo Đường... và cũng biết dung hoà
các tư tưởng Nho, Lăo để vận dụng vào cuộc sống. Cho nên ở Tuệ Trung, ta
c̣n bắt gặp một trí tuệ siêu phàm, khả năng ứng đối lanh lợi nhưng vẫn
chứa đựng đầy đủ chất liệu giải thoát.
T rong lễ cúng trai cầu siêu cho Hoàng hậu Thiên Cảm,
khi được vua Thánh Tông thỉnh chư tôn túc viết kệ tŕnh kiến giải Phật
pháp. Các vị đều tỏ ra khó khăn và nôïi dung kệ cũng c̣n luẩn quẩn chưa
khai thông. Chỉ có Tuệ Trung khi được mời, liền viết:
"Viết kệ
tŕnh kiến giải,
Như dụi mắt
thấy quái.
Dụi mắt
thấy quái xong,
Lại rơ ràng
tự tại".
Vua Thánh Tông đọc xong liền hoạ tiếp:
"Rơ ràng và
tự tại,
Cũng một
thứ thấy quái,
Thấy quái
mà không quái,
Quái ấy ắt
tự tại".
Tuệ Trung đọc rất bằng ḷng.
N hững câu chuyện
về ăn thịt cá và có vợ con đă được kể trên đây cho ta thấy Tuệ Trung
Thượng sĩ là một trong những mẫu người như thế. Sống với cuộc đời, không
lánh đời mà siêu việt khỏi thói thường t́nh vọng chấp của đời. Vua Nhân
Tông viết: "Thượng
sĩ sống giữa ḷng thế tục, hoà ánh sáng ḿnh trong cuộc đời bụi bặm; trong
mọi cuộc tiếp xúc, Thượng sĩ luôn giữ thái độ hoà ái, nên chưa bao giờ gặp
phải những trường hợp phiền nghịch. Do đó, Ngài có thể tiếp nối được hạt
giống chánh pháp, d́u dắt được những kẻ mới học... Thượng sĩ không bị ràng
buộc bởi h́nh thức; khi ẩn, khi tàng, khi th́ lộ diện, Ngài không chấp vào
h́nh thức danh từ". Với một nhân
cách tuyệt vời như vậy, th́ không lạ ǵ khi Trần Nhân Tông nhận Tuệ Trung
làm vị đạo sư hướng dẫn tâm linh cho ḿnh.
Trong bản dịch
Thượng sĩ ngữ lục
của Diệu Pháp Đăng, có lời tán thán Ngài: "Thuở
nhỏ Thượng sĩ đă là người trung hiếu, cư xử trọn đạo vua cha. Gặp thời
nước nhà lâm nạn, Ngài đă hai lần ngăn giặc. Sau khi xong nghiệp lớn, Ngài
cất ḿnh nẻo thiền rong chơi khắp".
Lời tán thán trên đă làm rơ hơn cuộc đời và đạo nghiệp
của Ngài. Dù ngộ đạo rất sớm nhưng gặp lúc cần th́ Ngài cũng ra tay pḥ
vua giúp nước, làm tṛn bổn phận một công dân thời chiến. Khi đất nước
thanh b́nh, Ngài lui về ẩn dật nơi thôn dă để tiếp tục con đường tu hành.
Thật là đời - đạo vuông tṛn.
Thượng sĩ với h́nh thức là một cư sĩ đă khiến tinh thần
hoà quang đồng trần kia càng nổi bật thêm. Ngài đă tiếp nối h́nh ảnh của
những cư sĩ ngộ đạo từ cổ chí kim, tạo nên một nét đặc thù, làm rạng rỡ
ḍng giải thoát. Tinh thần này cũng được t́m thấy rơ qua Thiền sư Thường
Chiếu và đệ tử là Thần Nghi, người có sở đắc tâm linh cao từ thầy ḿnh, tu
phạm hạnh, giới luật nghiêm minh nhưng không cạo đầu mà tóc vẫn để dài.
C ó thể nói, nhân cách của Tuệ Trung Thượng sĩ như một
đóa sen xuất thân từ chốn bùn nhơ mà không bị nhiễm bẩn. Những biến chuyển
cuộc đời, sự vận hành các pháp diễn ra trước mắt không hề làm Ngài mảy may
xao động. Thiền sư Pháp Loa trong
Thượng sĩ ngữ lục
đă viết một bài đă có thể nói lên được tính chất con người của Thượng sĩ:
"Á! Gang ṛng
nhồi lại,
Sắt sống đúc
thành,
Thước trời tấc
đất,
Gió mát trăng
thanh".
(Trúc Thiên
dịch)
Người xuất gia mỗi ngày thường nhắc đến vấn đề lớn của
cuộc đời, đó là sinh tử. Kinh dạy: "Sanh
tử sự đại, tấn tốc vô thường".
Người tu cần phải luôn tỉnh giác để giải quyết vấn đề này. Sinh tử chưa
được giải quyết xong th́ tâm không bao giờ được yên ổn.
Có một vị tăng đến hỏi: Bạch Thượng sĩ, tôi v́ việc lớn
sinh tử, vô thường nhanh chóng, song chưa biết rơ thân này từ đâu sinh ra,
chết rồi đi về đâu?
Thượng sĩ đáp:
"Bầu không dù
có đôi vành chuyển,
Biển cả ngại ǵ
ḥn bọt con."
K inh Phạm Động (Trường A-hàm) có nói, tất cả như tư
tưởng, kiến giải hệ luận của bao nhiêu nhà tư tưởng kim cổ đều không ra
khỏi hai vấn để lớn "sinh
ra từ đâu, chết đi về đâu?" và
tất cả những luận thuyết trên được đức Phật liệt kê trong sáu mươi hai tà
thuyết. Ở đây, ta dễ dàng nhận thấy câu hỏi của vị tăng kia c̣n đang luẩn
quẩn trong tà thuyết mà chưa có lối ra. Để mở lối cho thiền khách, Thượng
sĩ trả lời: "Việc
sinh tử cũng như mặt trời mặt trăng so với vũ trụ bao la. Ḥn bọt con (thân
sanh tử) th́ có sá ǵ so với biển cả bao la (cái không sinh tử). Nhận chân
được cái không sinh tử như như thường tại th́ cái thân sinh tử này có sá
ǵ mà phải bận tâm!". Các thiền
gia khi nhận ra được bản lai diện mục th́ xem sinh tử như là một tṛ chơi
mà thôi. Thiền sư Từ Minh nói: "Sanh
như đắp chăn đông. Tử như thay áo hạ".
T rong
bài thơ Sống chết
nhàn vậy thôi, Thượng sĩ có câu:
"Sinh tử xưa nay tánh vốn không, thân hư dối này rồi cũng diệt".
Nếu quán sát rơ nhân duyên các pháp th́ không c̣n lo âu trước cái thân hư
dối này, v́ từ nhân duyên sinh nên cũng từ nhân duyên mà diệt. Thấy được
vậy rồi, th́:
"Phiền năo
Bồ-đề bỗng mất tiêu,
Địa ngục,
thiên đường tự khô kiệt,
Lửa bỏng dầu
sôi thoắt mát liền.
Núi kiếm rừng
đao chốc găy hết".
Bàn về tinh thần này của Thượng sĩ, Ḥa thượng Thanh Từ
viết: " Sinh là cái
người đời nâng niu, quư trọng; tử là cái mọi người sợ hăi. Thượng sĩ xem
nó như tṛ đùa, như chiếc pháo hoa nổ tung trong bầu trời rạng rỡ. Sinh tử
với con mắt Thanh Văn thảy là biển khổ mênh mông, đây là tinh thần vừa
tích cực vừa siêu thoát của con người đạt được lư Thiền. Không sợ sinh tử
nên sẵn sàng lao ḿnh vào cuộc đời, vào sinh tử để làm lợi ích cho chúng
sinh. V́ làm lợi ích cho mọi người nên vào ra trong rừng danh lợi mà không
dính mắc… Thượng sĩ hành đạo và hóa đạo ngay trong gia đ́nh lăng xăng, bận
rộn, trong ṿng tay thân thiết vây quanh. Đây quả thật là tinh thần siêu
phóng phi thường của Tuệ Trung Thượng sĩ".
T heo tinh thần kinh Kim Cương, một vị Bồ-tát phải hoàn
toàn thoát ly các tướng ngă, nhân, chúng sinh, thọ giả để hành đạo mới
thật sự là Bồ-tát. Nếu cứu khổ mà c̣n thấy ḿnh độ, thấy đối tượng độ sinh
tức là đầy vướng mắc ngă tướng, như thế không thể độ sinh được. Cho đến
cuối kinh, đức Phật thâu tóm lại trong một bài kệ:
"Nhất thiết
hữu vi pháp,
Như mộng
huyễn bào ảnh,
Như lộ diệc
như điển,
Ưng tác như
thị quán";
và Ngài đă khẳng định: " Phàm
sở hữu tướng giai thị hư vọng".
T uệ Trung Thượng
sĩ đă thể nhập hoàn toàn nội dung này. Trước hết, Ngài không vướng kẹt vào
tướng xuất gia, tại gia, thế mà vẫn hoàn thành bản nguyện độ sinh của một
vị Bồ-tát. Điều Ngự Giác Hoàng khi chưa xuất gia đă nhận ra Tuệ Trung là
bậc chân tu, mặc dù không phải tu sĩ; là bậc xuất thế, mặc dù không xuất
gia, nên đă tôn làm thầy. Không phải là một vị thầy thế học, mà là một Đạo
sư hẳn hoi.
Tuệ Trung đă để lại cho chúng ta một bài học nhân cách
tuyệt vời. Đạo Phật là đạo giải thoát, c̣n chấp vào các tướng th́ bị các
tướng ấy trói buộc, phiền năo quấy nhiễu, làm sao giải thoát! Là hành giả
tu đạo giải thoát, nếu vẫn thường xuyên vướng kẹt vào tướng xuất gia, chưa
thông suốt chỗ tế nhị của giới luật, th́ sẽ gặp nhiều chướng ngại trong
việc tu tập và giao tiếp.
T hật ra th́ người tu theo đạo Phật, dù tại gia hay xuất
gia, nên giữ tâm b́nh đẳng, thái độ khiêm tốn, ôn hoà, nhă nhặn, không có
ư niệm ta hơn người kém th́ có lợi hơn, và con đường tiến đến giải thoát
mới không bị chông gai. Nhưng đây chỉ là tướng thô, c̣n những tướng nhỏ
nhiệm nằm ẩn sâu trong phần tâm thức, đó là những cặp phạm trù như phàm -
thánh, phiền năo - Bồ Đề, mê - ngộ, sinh tử - Niết Bàn… Từ những danh
tướng này sinh ra những quan niệm nhị kiến khiến hành giả luôn rong ruỗi
t́m cầu theo Thánh bỏ phàm, t́m Bồ Đề từ phiền năo, cầu Niết Bàn thoát
sinh tử… cứ như thế thành ra Niết-bàn, Bồ-đề nằm bên ngoài ta, càng t́m
càng không thấy. Với những vọng chấp nhị kiến đó, Thượng sĩ dùng pháp vô
tướng đánh tan:
"Thân từ vô
tướng vốn là không,
Huyễn hóa
sinh ra thành nhị kiến,
Ta, người như
nước cũng như sương.
Phàm, Thánh
như sấm cũng như chớp,
Muôn kiếp sưu
tầm mất căn tính,
Không tâm,
không thị cũng không phi;
Không kiến,
chẳng tà cũng chẳng chánh".
T hân ta, thân người vốn nhân duyên sinh, là một hợp thể
của ngũ uẩn, không hề có một ngă thể cố định, nên nó là Không, Vô tướng,
Vô ngă. Ngă - nhân, phàm - thánh vốn chỉ có mặt trong ư niệm mà không thật.
Nếu không có khái niệm phân biệt th́ sẽ không c̣n thị phi, chánh tà. Nếu
không thấy như thế mà cứ suốt đời rong ruổi, bị giam cầm trong thế giới
nhị nguyên, Thượng sĩ gọi đó là bỏ bột t́m bánh:
"Tự mích man đầu nhi khí miến".
T rong quá tŕnh giáo hóa những người tham cứu Thiền học,
Thượng sĩ dùng nhiều phương tiện khai tâm bằng cách ứng cơ đối đáp; có khi
nhẹ nhàng nhưng cũng có lúc mạnh bạo, nhưng cốt để cho người học đạo trừ
bỏ vướng mắc, ngộ ngay chân lư, thực tại. Có vị Tăng hỏi: Thế nào là Đạo?
Thượng sĩ đáp: Đạo không có trong câu hỏi, câu hỏi
không có trong Đạo.
Chữ " Đạo"
mà vị Tăng muốn hỏi đây chính là cái không sinh tử, cái bản giác vốn thanh
tịnh, thường tại trong chân tâm. Nhưng vị Tăng không nắm được chỗ này nên
khởi tâm t́m cầu. Khổ nỗi, vừa móng tâm th́ Đạo liền mất, nên Thượng sĩ
chỉ liền: Trong câu hỏi không có Đạo.
Ông Tăng lại hỏi: Cổ đức nói, không tâm là Đạo, đúng
chăng?
Thượng sĩ đáp: Không tâm chẳng phải đạo, không đạo cũng
không tâm. Nếu người nói không tâm là đạo th́ tất cả cây cỏ đều là Đạo sao?
Bằng ngược lại, nói không tâm chẳng phải đạo, tại sao lại nói có nói không?
Nghe ta nói kệ:
" Vốn
không tâm không đạo,
Có đạo
chẳng không tâm,
Tâm, đạo
nguyên rỗng lặng,
Chỗ nào mà
đuổi tầm".
T hật là từ bi, ḷng thương bao la vô tận. Thượng sĩ
trong thiền thoại này đă giảng giải rất kỹ càng mà nhẹ nhàng dễ hiểu, chứ
không đánh, đập, hét như các Tổ thiền Trung Hoa xưa kia thường dùng. Phải
chăng là v́ căn cơ người đối diện không thể hợp với cách đó, không thích
hợp mà có đấm, đá bao nhiêu cũng trơ ra như vịt nghe sấm. Có lẽ vị Tăng
này căn cơ cũng chưa cao nên không nhận chân được Đạo vốn không khái niệm,
cho nên nói là hữu tâm hay vô tâm đều không thể thấy Đạo. Chỉ khi nào
không c̣n kẹt có hay không th́ Đạo sẽ hiện ra. Nghĩa là "vô tâm" lúc ấy
không phải là không có tâm, mà là "vô" cái tâm vọng động, hư dối, điên đảo.
Như vậy c̣n chấp thấy tâm, c̣n chấp thấy đạo là c̣n rơi vào nhị biên, th́
không nhận ra thực thể
không sinh diệt
được.
Lại có một vị Tăng hỏi:
Thế nào là pháp
thân thanh tịnh?
Thượng sĩ đáp:
"Ra vào đống phân
ngựa, nghiền ngẫm băi cứt trâu."
Nếu vị Tăng không ám ảnh bởi khái niệm pháp thân là một
cái ǵ đó thanh tịnh, trong suốt, th́ không cần phải hỏi. Đằng này ngay
chỗ vướng kẹt ấy, Thượng sĩ đă đánh chính xác vào cái chỗ chấp tịnh bằng
hai h́nh ảnh bất tịnh để dắt người học đạo vào với pháp thân - một thực
tại như thật, không có khái niệm thanh tịnh, ô nhiễm ǵ cả. Phương tiện
ngôn ngữ khá bạo, bạo không thua ǵ những giai thoại thiền xưa, như chẻ
tượng Phật làm củi, " phùng
Phật sát Phật, phùng Tổ sát Tổ".
Cảnh giới của bậc giác ngộ vô trước thật cao siêu huyền diệu, khó mà lường
tới. Chỉ biết cúi đầu cung kính, tôn thờ.
V ới bậc Thượng sĩ càng nh́n càng cao, càng khoan càng
bền như Tuệ Trung mà chúng ta đem cái tâm mê vọng ra lạm bàn th́ thật là
ngông cuồng. Có điều, ở đây người viết chỉ với thiễn ư mong rằng đem một
mẫu chuyện của người xưa kể lại cho bà con cùng nhàn tâm thưởng thức; nếu
có được một chút nào niềm pháp lạc trong cuộc sống, th́ người viết cũng
xin đem niềm vui ấy cùng hoà chung vào những bước tiến tâm linh của tất cả
những người đồng chí hướng, đồng lư tưởng tự độ, độ tha.
T hiết nghĩ, những
bước đi rạng rỡ, những dấu chân sáng ngời của biết bao nhiêu bậc tiền bối
xưa, điểm tô ḍng sử Việt và làm hưng thịnh ḍng giải thoát, chúng ta
không thể không chân thành noi theo. Là người Việt Nam và tu theo đạo Phật,
th́ nhất định chúng ta không có quyền quên những điểm sáng ngời, những dấu
ấn vàng son của lịch sử. Đằng này, đây lại là dấu ấn
bi trí vẹn toàn,
là yếu tố mà Phật giáo thường nói
trí không bi là trí cuồng,
bi không trí là bi dại. Với Tuệ
Trung Thượng sĩ th́ hai tâm vô lượng đă viên dung. Thượng sĩ thấy rốt ráo
nguồn đạo, thỏng tay thong dong đi trên bờ giác ngộ. Đấy không là trí th́
c̣n trí nào hơn! Huống chi, Ngài lại tṛn bổn phận một công dân, một con
người với gia đ́nh, đất nước. Ngài đă chỉ dạy cho bao nhiêu người thấy
được chân tâm, phát triển đạo Bồ-đề và thẳng tiến trên lộ tŕnh giác ngộ.
Một công lao to lớn khác dù không trực tiếp, Ngài đă mớm những giọt sữa
đầu tiên để về sau lớn dần, đủ khả năng khai sáng một ḍng Thiền tại đất
Việt qua vị sáng Tổ Trúc Lâm Điều ngự Giác hoàng Trần Nhân Tông. Đây không
là bi c̣n bi nào hơn!
    

Mục
Đồng
|