
Nh́n lại trong lịch sử nhân loại, chúng ta thấy Đức Phật là một con
người có nhân cách đặc biệt siêu phàm. Một văn hào Âu châu nhận định
rằng: “Không có nơi nào trong thế giới tôn giáo, sùng bái và tín
ngưỡng mà chúng ta có thể t́m thấy một vị Giáo Chủ chói sáng như thế!
Trong hàng loạt các v́ sao, Ngài là v́ tinh tú khổng lồ, vĩ đại nhất”.
Một số các nhà khoa học, triết gia, các nhà văn hóa đă tuyên bố về
Ngài là
con
người vĩ đại nhất chưa từng có.
Ánh hào quang của vị thầy vĩ đại này soi sáng thế giới đau khổ và tối
tăm, giống như ngọn hải đăng hướng dẫn và soi sáng nhân loại.
Đức Phật – một con người vĩ đại. Giáo thuyết của đức
Phật xuất phát từ kinh nghiệm thông thường phổ biến, cho nên hiểu một
cách chính xác về Ngài là một điều bất khả. Tất cả mọi áng văn chương,
cho dẫu TAM TẠNG KINH ĐIỂN đi nữa cũng chỉ là sự cố gắng diễn bày một
khía cạnh nào đó về sự toàn hảo của đấng Như Lai. Kinh điển, sử liệu th́
tùy thuộc vào không gian, thời gian, hệ phái, sự truyền thừa, ... nên có
nhiều nguồn khác nhau, ghi chép có sự sai lệch nhau, nhưng chung quy
cũng chỉ có một mục đích là dùng ánh sáng chân lư soi sáng cuộc đời,
nhằm vơi bớt khổ đau trầm luân của chúng sanh muôn kiếp.
Kỷ niệm ngày đản sanh Ngài, một h́nh ảnh đầy ư nghĩa
thiêng liêng mà hầu như tất cả Phật tử theo truyền thống Bắc Tông đều
cảm nhận và được nh́n thấy hằng năm khi mùa Phật Đản lại về, đó là h́nh
ảnh đức Phật Hài Nhi bước đi trên bảy đóa hoa sen, một ngón tay chỉ lên
trời, một tay chỉ xuống đất, hào quang rực sáng xung quanh Ngài. Bất kỳ
nơi đâu và trong tầm mắt của một Phật tử nào, hễ nh́n thấy khung cảnh
này, đều liên tưởng đến một sự kiện vĩ đại của nhân loại:
Đức Thế
Tôn thị hiện đản sanh.
Tuy nhiên, để ghi nhớ rơ hơn về công hạnh và ân đức to lớn của đức Từ
Phụ, xin chia sẻ cùng các bạn vài điều nho nhỏ xung quanh
Ư nghĩa bảy bước hoa sen:
Mùa sen nở tháng tư về
Bước chân từ nẻo sông mê giật ḿnh
Về thôi mỏi cuộc tử sinh
Về thôi thế sự nhân t́nh đa đoan
Chùa xưa thắm sắc y vàng
Nụ cười mang cả thênh thang cuộc đời
Xa rồi nông nổi mù khơi
Trở về trong ánh đạo ngời niềm tin.
Tự khúc tháng tư – Thi Trúc
Trong một đóa sen thôi ẩn chứa bao điều mầu nhiệm. Hoa
sen biểu trưng cho nhiều ư nghĩa cao đẹp. Trước hết là một loại hoa mọc
từ bùn mà không nhiễm bùn, ví như Phật tánh vắng lặng trong suốt vẫn mặc
nhiên tồn tại giữa chốn Ta Bà uế trược khổ đau, chỉ một niệm tâm đầu, mê
và ngộ bên nhau từng nháy mắt. Nhà thơ Nguyễn Bảo Sinh viết “Khi mê
bùn chỉ là bùn - Khi ngộ mới biết trong bùn có sen” chính là ư này
vậy. Giống sen cũng là loại nhân quả đồng thời, nên thường dùng để ví
von Phật tánh vốn hằng hữu trong mỗi chúng sanh là ư niệm trong kinh
Pháp Hoa. Cành sen th́ chỉ nhỏ bé mong manh, nhưng có thể cưu mang đóa
sen thơm đứng vững trong chốn nước bùn, lung lay trước gió và tỏa ngát
hương lành. Với nhiều ư nghĩa cao đẹp như vậy, nên hoa sen thường được
dùng để chỉ cho sự thanh tịnh, cho Phật quả, Thánh quả. Ngay cả sự ra
đời của Đấng Giải Thoát, chúng ta cũng thấy biểu tượng hoa sen xuất hiện
để nâng gót chân Ngài.
Theo kinh Ưu Bà Di Pháp Môn Tịnh Hạnh, khi đản sinh, đức
Phật đi bảy bước có hoa sen nâng gót và mỗi bước đều tuyên pháp ngữ. Như
đă nói, đây chỉ là h́nh ảnh biểu tượng, nên chúng ta cũng lắng nghe và
chấp nhận một cách thoải mái, phóng khoáng. Mà thường thường, mỗi h́nh
ảnh biểu tượng thường ẩn chứa nhiều triết lư sâu sắc, nhiều bài học rất
giá trị. Chúng ta hăy trầm tư thật sâu lắng để cảm nhận xem bảy đóa sen
hồng này có liên quan ǵ đến chúng ta không? Hay nó chỉ có chức năng
riêng cho ḿnh đức Phật? Nội dung của “bảy
bước xưng tôn”
cũng chính là bảy bước đi thánh thiện để đạt đến Phật quả. Xin tŕnh bày
tóm lượt như sau:
1.
Thị Đông phương giả, vị chư chúng sanh, tác đạo thủ cố.
(Nh́n về phương Đông, v́ các chúng sanh mà làm Người dẫn đường tối
thượng).
Phương Đông là phương mặt trời mọc, tượng trưng cho sự
sáng suốt. Sáng suốt trong nhận thức, trong hành xử của mỗi người là một
yêu cầu rất cần thiết. Đó cũng chính là trí tuệ, là sự hiểu biết lớn. Có
sự hiểu biết lớn, chúng ta sẽ có sự yêu thương lớn. T́nh thương yêu và
sự hiểu biết luôn đi liền với nhau, cần có đủ với nhau. Như cổ nhân có
nói: “Bi không Trí là Bi mù ḷa, Trí không Bi là Trí què quặt.”
Khi đầy đủ 2 yếu tố Đại Trí, Đại Bi, một người mới có đủ tư cách làm
người dẫn dường cho kẻ khác. Đức Phật là một tấm gương sáng về sự hiểu
biết và thương yêu lớn như thế. Kinh Sư Tử Hống - Trung Bộ, đức Phật dạy
rằng: “Này Sariputta, những ai muốn nói về Ta một cách đúng đắn th́
phải nói như thế này: Đức Phật – một hữu t́nh không bị si chi phối, đă
sinh ra ở đời v́ lợi ích, v́ hạnh phúc cho chúng sanh, v́ ḷng thương
tưởng cho đời, v́ lợi ích, v́ hạnh phúc, v́ an lạc cho chư thiên và loài
người”.
Trong kinh Trung Bộ, các học giả trí thức đương thời
cũng đă tán dương đức Phật: “Như người dựng đứng lại những ǵ bị
quăng ngă, phơi bày ra những ǵ bị che kín, chỉ đường cho kẻ lạc hướng,
đem đèn sáng vào trong bóng tối...”
Bước chân đầu tiên cũng chính là pháp môn cơ bản của một
vị Bồ tát phát tâm cầu vô thượng đạo. Đó chính là phát tâm Bồ Đề. Tâm Bồ
Đề là cội nguồn của muôn ngàn thiện pháp. Không có tâm Bồ Đề, mọi việc
làm dù to lớn đến mấy cũng dễ bị lầm đường lạc lối. Nên, kinh Hoa Nghiêm
dạy: “Vong thất Bồ Đề tâm, tu chư thiện pháp
thị danh ma nghiệp”, nghĩa là nếu
quên mất tâm Bồ Đề mà thực hành các pháp lành th́ cũng là việc làm của
ma thôi. Tâm Bồ Đề bao gồm tâm yêu thương và sự hiểu biết, đó chính là
nội dung của bước chân đầu tiên.
2.
Thị Nam phương giả, vị chư chúng sanh tác lương phước điền cố.
(Nh́n về phương Nam, v́ chúng sanh làm ruộng phước tốt).
Phước điền là ruộng phước. Mỗi nguồn tâm của chúng ta là
một đám ruộng, trong đó hạt giống thế nào tùy vào hành nghiệp của riêng
ta. Nếu gieo những hạt giống thiện mỹ, an vui th́ hoa trái gặt được sẽ
là tịnh lạc hạnh phúc. Ngược lại, nếu gieo những hạt giống ác tâm, tàn
hại th́ kết quả thu được chỉ là sự khổ đau. Mỗi người chúng ta là ông
chủ của chính đám ruộng tâm của ḿnh. Như vậy, ruộng phước là đám ruộng
chỉ để gieo những hạt giống tốt đẹp, hạt giống lành, có khả năng đem lại
an vui, hạnh phúc cho chính ḿnh và tha nhân, trong giờ phút hiện tại và
cho cả tương lai.
Như chúng ta biết, không ai từ lúc mới sinh ra đă là
Thánh nhân. Từ vô lượng kiếp xa xưa, chúng ta đă trầm luân, ch́m đắm
không biết qua bao nhiêu kiếp luân hồi. Ngay cả đức Thế Tôn cũng vậy
thôi, từ vô thỉ kiếp về trước, Ngài cũng đă từng là một đọa nhân ở dưới
địa ngục A-tỳ. Nhân một lần chứng kiến cảnh đau khổ của vô số chúng sanh,
Ngài đă phát khởi ư niệm trắc ẩn về bản chất đau khổ của chúng sanh,
Ngài ước mong có thể gánh hết tội lỗi cho tất cả tội nhân trước mắt để
họ được thoát cảnh đau khổ. Từ ư niệm ban đầu đó, trải qua từng giai
đoạn tu tập các hạnh Ba-la-mật của một hành giả Bồ Tát, Ngài cuối cùng
đă chứng đắc Phật quả ở thân tối hậu này. Như thế, Phật cũng từ chúng
sanh mà thành. Mỗi chúng sanh đều có cái khả năng to lớn gạn lọc thân
tâm ḿnh, chuyển mê thành ngộ, chuyển ác sang thiện. Do vậy, muốn cái
khả năng sáng suốt của một vị Phật trong mỗi tự tâm được thanh lọc và
thể hiện trọn vẹn, chúng ta hăy làm công việc cải tạo đám ruộng tội
thành ruộng phước, để chính chúng ta cũng như tất cả tha nhân được hưởng
kết quả an lành từ hạt giống tốt đẹp của chúng ta. Đức Phật c̣n được gọi
là bậc Ứng Cúng, nghĩa là xứng đáng nhận sự cúng dường của trời người.
Như thế, đức Ứng Cúng chính là một đám ruộng phước toàn hảo, là nơi để
những ai có duyên quay về nương tựa Ngài được gieo hạt giống tốt lành.
Phương Nam là phương có ánh sáng êm dịu, mát mẻ, tượng
trưng cho tâm hồn an nhiên sau khi gạn lọc các ác pháp, các tâm lư lăng
xăng loạn động, và trở về với sự định tĩnh, thảnh thơi. Với tâm lư ấy,
chúng ta dễ dàng ḥa hợp với mọi người xung quanh, và người khác cũng dễ
dàng bằng ḷng với chúng ta khi tiếp cận. Đó chính là bước thứ hai của
quá tŕnh tu tập, bước quy hướng Tam Bảo, tŕ giới, trau dồi thiền định
và trí tuệ, xả ác thủ thiện để trở nên hoàn thiện trong phạm vi nhân bản,
của đạo làm người.
3.
Thị Tây phương, vị chúng sanh dĩ tối hậu thân cố.
(Nh́n về phương Tây, v́ chúng sanh thị hiện thân cuối cùng).
Phương Tây là phương mặt trời lặn, biểu trưng cho sự
lắng xuống của tâm hồn, những xao động, những tư tưởng bất thiện, so đo,
ganh tỵ, thù ghét... và tâm thức hoàn toàn yên tĩnh, không c̣n một chút
xao động do cả nội thân lẫn ngoại cảnh. Đó là kết quả cuối cùng của quá
tŕnh tu tập “không làm các điều ác, thực hành các hạnh lành, giữ tâm
ư trong sạch”. Tuy nói đơn giản như thế, nhưng để đạt được trạng
thái tâm hoàn vắng lặng ấy, đức Phật đă trải qua những cuộc chiến đấu dữ
dội với chính nội ma của tâm thức, và ngoại ma do hoàn cảnh bất toàn đưa
đến, không chỉ kéo dài suốt 6 năm khổ hạnh mà trải qua vô lượng kiếp. Vị
hành giả ấy phải cô độc một ḿnh, không có bất kỳ sự hỗ trợ nào ngoài sự
nỗ lực, dũng mănh của tự thân. Cuối cùng, bằng thiền định và trí tuệ,
Ngài tận diệt mọi ô nhiễm, chấm dứt tiến tŕnh tham ái, sinh tử và chứng
ngộ thực tướng của vạn pháp. Ngài trở nên hoàn toàn viên măn, trong suốt
từ thân đến tâm như một đóa sen thơm ngát giữa bùn nhơ. Như có lần,
ngoại đạo Dona thấy dấu chân quá đẹp của đức Phật in trên cát, ông đă
đến hỏi Ngài là ai. Đức Thế Tôn nói một bài thi kệ đáp rằng:
Như hoa sen tinh khiết và dễ thương
Không ô nhiễm bởi bùn nhơ và nước đục
Giữa đám bụi trần, ta không nhiễm chút bợn nhơ
Như vậy, này Bà-la-môn, ta là Phật.
(kinh Tăng Nhất A Hàm)
Như vậy, ở bước thứ ba, hành giả đă trút bỏ gánh nặng tử
sinh, ṿng luân hồi từ nay thôi chạm gót, sự thị hiện bằng thân phàm phu
kiếp này là “tối hậu thân”, không c̣n tái sinh nữa. Tuy nhiên, đó mới
chỉ là “tự giác”. Quả Phật tṛn đầy c̣n đ̣i hỏi thêm “giác tha”
và “giác hạnh viên măn” nữa. Cho nên, đức Thế Tôn đă bước tiếp
thứ tư; biểu trưng cho chúng ta - những hành giả - phải bước tiếp bước
nữa:
4.
Thị Bắc phương, vị chúng sanh, ngă đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu-tam-bồ-đề.
(Nh́n
về phương Bắc, v́ chúng sanh mà đức Phật thị hiện cơi đời ngũ trược,
thành tựu Chánh Đẳng Chánh Giác).
Phương Bắc là phương ảm đạm, lạnh lẽo, dụ cho những nơi
mà chúng sanh chưa từng được gặp Phật, chưa từng nghe chánh pháp. Sự thọ
sanh của họ là sự ch́m đắm trong ṿng luân hồi mà măi măi t́m không ra
lối thoát. V́ ḷng ham muốn dục trần quá mạnh, nên dù chư Phật, Bồ tát
xót thương với tâm từ vô lượng, chúng sanh các cơi này vẫn bị che lấp
tâm tánh, không nhận được ánh sáng tiếp độ của các Ngài.
Tuy nhiên, không phải v́ thế mà các vị Bồ tát nản ḷng,
không đoái thương đến ḍng chúng sanh khó độ. Đức Phật dạy “tất
cả chúng sanh đều có Phật tánh”, nghĩa là tất cả mọi loài,
mọi người đều có khả năng giải thoát an vui, có khả năng điều phục tâm
thức ḿnh trở nên chân thiện, và có khả năng đem an vui, hạnh phúc đến
cho tha nhân. Do đó, các vị Bồ tát phát tâm vô thượng Bồ Đề, thệ nguyện
độ tận chúng sanh, chừng nào chúng sanh hoàn toàn hết khổ, các Ngài mới
vào Niết Bàn. Bồ tát Địa Tạng Vương, h́nh ảnh đại diện của tất cả chư
Phật, Bồ tát đă từng phát nguyện:
Địa ngục vị không thệ bất thành Phật
Chúng sanh độ tận phương chứng Bồ Đề.
Nghĩa là, khi nào chốn địa ngục khổ đau chưa hoàn toàn
trống rỗng, th́ Bồ tát vẫn chưa thể an hưởng Niết Bàn bất sanh bất diệt
cho riêng bản thân ḿnh. Khi nào chúng sanh tánh hoàn toàn vắng lặng,
các Ngài mới có thể chứng quả Bồ Đề, tức thành Phật quả. Hoặc như ngài
A-Nan trong bài kệ Thần Chú Lăng Nghiêm đă phát nguyện:
Như nhất chúng sanh vị thành Phật
Chung bất ư thử thủ Nê-hoàn.
Nghĩa là, nếu c̣n một chúng sanh nào chưa thành Phật,
th́ rốt ráo, tôi không ở nơi đây mà nhập vào trạng thái Niết bàn tịch
lặng. Thật là cao cả thay! Vĩ đại thay! Cửa vô sanh bất diệt đă mở rồi,
đường an vui đă hiển bày trước mắt. Nhưng ngoái đầu nh́n lại, chúng sanh
v́ không có trí sáng nên không thấy mười phương cơi nước chư Phật hiện
bày. Một phút lạc bước vào mê lộ, thương ghét phân tranh, lợi danh bỉ
thử th́ mây đen phiền năo giăng kín. Thế là mặc t́nh treo ḿnh nơi ba
cơi, lăn lóc trong sáu đường. Có khách phiêu trầm nào mà không thẩm thấu
cái nỗi khổ nhân sinh! Và v́ thế chư Phật lại hiện ra nơi đời. Đức Phật
đến với chúng sanh bằng cái tâm Phật sẵn có nơi mỗi chúng ta. Khi chúng
ta nhớ đến Ngài th́ mọi phiền năo tiêu tan, tâm thái trở nên mát mẻ
thanh lương.
5.
Thị Hạ phương, vị chúng sanh dị dục hàng ma cố.
(Nh́n về phương Dưới, v́ chúng sanh hàng phục các loài ma).
Hạ phương là phương dưới, phương của những sự thấp kém,
trần tục. Ma quỷ ở đây chính là những tâm ma của mỗi chúng sanh. Những
tư tưởng tham đắm, vị kỷ, độc ác, ... một khi khởi lên th́ có thể tàn
hại chính bản thân ḿnh và những người khác. Trong kinh kể rằng, ma
thường xuất hiện để trở ngại quấy phá việc tu hành của chúng ta. Ma lại
có 2 loại: Nội ma và Ngoại chướng. Như thế, nội tâm chúng ta đă tồn tại
biết bao nhiêu loài ma quái. Ví dụ con ma sân hận chuyên đốt lửa dữ dằn,
thiêu cháy tâm can và phun ra nộc độc thô ác, chửi mắng, trù rủa. Hoặc
con ma si mê lôi kéo chúng sanh sa đọa vào các nẻo vui thú giả tạm mà
bản chất là khổ đau. Con ma ích kỷ trói buộc chúng ta lại với những sở
hữu của riêng ḿnh, không muốn chia sẻ mà bo bo ôm giữ, ... Chỉ trong
con người bé nhỏ này thôi, tất cả sáu đường ba nẻo đều có mặt đầy đủ.
Địa ngục không ở đâu xa, cơi Cực Lạc an vui cũng nằm ngay trong tầm tay
với. Một niệm khởi lên, ba ngàn cơi nước hiện bày.
Hàng phục ma chướng ở đây không phải là dùng bùa chú,
pháp thuật để trị đuổi, trừ giải những loài yêu tinh nghiệt súc nào bên
ngoài ta, mà hàng phục ở đây chính là đối trị với tâm ma của chính ḿnh,
dẹp bỏ mọi tư tưởng xấu. Chúng ta nên thường xuyên lắng đọng tâm hồn, để
dễ dàng nh́n nhận ḍng tâm thức của ḿnh, xem đâu là tâm ma, đâu là tâm
thánh thiện. Từ đó, gạn lọc chúng để ḍng tâm thức của chúng ta luôn
trôi chảy nhịp nhàng ḥa điệu theo hướng cao thượng, hướng đi đến giải
thoát, tịnh lạc, an vui.
Ma quỷ c̣n chỉ cho những chúng sanh cang cường khó độ.
Đối với hạng chúng sanh này, chư Phật, Bồ tát phải thị hiện ma vương quỷ
vương để nhiếp hóa chúng. Như khi vào chùa, ta thấy h́nh ảnh ông Tiêu
Diện Đại Sĩ, mặt mày ghê gớm, lửa dữ phun ra, đầu đội ba núi, tay phất
cờ vàng... để điều khiển các loại chúng sanh cứng đầu ngang ngạnh, hoặc
v́ cô đơn, không nơi nương tựa lâu ngày trở nên độc ác, phá phách... mà
chúng ta thường gọi là cô hồn. Tiêu Diện không ai khác hơn đó chính là
Bồ tát Quán Thế Âm, một biểu tượng hoàn toàn trái ngược giữa ngoại h́nh
dữ tợn và nội tâm thương yêu vô bờ bến. Hành giả cần nhận thấy rằng, đối
với các loại tâm ma càng hung tợn, chúng ta càng ôn ḥa nhưng cứng rắng,
kiên quyết, không nên đối đầu, thù ghét, hất hủi... v́ khi một con người
làm ác, chính họ đă đau khổ trước rồi, một chúng sanh khởi tâm tham, sân,
cửa địa ngục đă mở ngay trong ḷng họ rồi. Nhiệm vụ của hành giả là phải
thương yêu, càng thương yêu nhiều hơn nữa, để t́m cách vơi bớt hận thù,
xoa dịu niềm đau của họ.
6.
Thị Thượng phương, vị chư Thiên, Nhơn chi sở quy y cố.
(Nh́n về phương trên, v́ chúng sanh làm nơi nương tựa của trời người).
Phương trên th́ đương nhiên là biểu trưng cho sự tốt đẹp,
cao cả hơn phương dưới. Bên cạnh việc chú trọng hàng phục ma quân, ban
rải tâm từ cho chúng sanh đang ch́m đắm, chư vị Bồ tát vẫn không quên
các loài chúng sanh đang ở cơi trời, người. Như chúng ta thường tán thán
đức Phật là: “Thiên nhơn chi Đạo Sư, tứ sanh
chi Từ Phụ” tức là Đạo sư của trời người, cha lành chung bốn
loài. Về công hạnh đại Từ Bi, đức Phật như là một người Cha Lành, thương
yêu khắp tất cả chúng sanh như con đỏ. Về phương diện Trí Tuệ, Ngài là
nơi nương tựa an lành, chân xác, là người truyền trao và dẫn dắt các
loài trời, người đến bến bờ an vui, giải thoát.
Trong một ḍng tâm thức, tứ thánh lục phàm đều đầy đủ.
Cơi trời, cơi người thật cũng chẳng đâu xa, ngay trong từng hơi thở, nụ
cười. Nó luôn hiện hữu qua những trạng thái tâm lư theo ḍng biến chuyển
liên tục từng sát na này. Ở đây, sau quá tŕnh thăng hoa, tiến triển,
mọi tâm lư xấu xa đă như nhiên lắng dịu, những ma tâm lớn nhỏ đều được
hàng phục, chế ngự, duy chỉ c̣n lại thiện tâm - những tâm lư cao đẹp,
hướng đến tô bồi một kiếp sống hướng thiện, thánh triết ngay giữa trần
gian. Sự tỉnh giác và tâm hồn lắng dịu của hành giả lúc bấy giờ là môi
trường tốt nhất để quy hướng Bồ Đề, và làm chỗ y cứ cho tất cả thiện
nghiệp.
“Chúng sanh c̣n khổ ta c̣n nguyền sâu”. Tất cả
chúng sanh đang lên xuống ba cơi, dù có đạt trạng thái an lạc tột bật,
nhưng đó vẫn là niềm vui nhuốm màu nhân ngă, vẫn c̣n bị chi phối bởi vô
thường. Sự mê đắm vào hỷ lạc của cơi không chính là nguyên nhân để vướng
kẹt vào sanh tử luân hồi, cũng chỉ v́ sự hiện hữu của Ngă, của cái Ta cố
hữu. Với sự nhận thức như thế, ư nghĩa của bước thứ sáu là Chư Phật, Bồ
tát thường có mặt trong các cơi phương trên để dẫn dắt chúng sanh ra
khỏi ṿng đoanh vây nghiệt ngă của cái Ta ấy.
Như vậy,
dù ở bất cứ thân phận nào, trong địa vị nào, chừng nào chúng ta hoàn
toàn thoát ly chấp ngă, chấp pháp, khi ấy chúng ta mặc nhiên thành tựu
Phật quả. Và cũng chính v́ cái mấu chốt quan trọng của chữ Ngă, đức Phật
đă bước một bước cuối cùng:
7.
Thiên thượng thiên hạ duy ngă độc tôn.
(Trên trời, dưới trời chỉ có Ta là tối thượng).
Đức Phật xác định Ngài là người đă chinh phục mọi ô
nhiễm, là người cao thượng tuyệt đối đối với mọi loài chúng sanh. Ngày
nay, lời tuyên bố này đă được khái quát hóa thành câu nói đặt trong bối
cảnh biểu tượng Đản Sanh: “Thiên thượng Thiên hạ duy ngă độc tôn”.
Đó là lời tuyên bố hùng hồn trên bước sen thứ bảy, là bước cuối cùng của
quá tŕnh thể hiện nơi đời một h́nh ảnh đấng Giác Ngộ. Để chứng minh cho
lời tuyên thị hùng hồn đó, chúng ta thấy toát lên trong suốt cuộc đời
sau này của đức Thế Tôn một tiến tŕnh tu tập, tự thân hành tŕ, tự thân
chứng ngộ, đạt quả vị Giác Ngộ cao quư nhất ở đời.
Một con người, nếu không thành tựu trí tuệ vô thượng
giải thoát Niết Bàn th́ đều bị sự tác động biến hoại của luật Vô thường,
chẳng có ǵ cao quư. Chỉ có sự chứng ngộ chân lư là cao quư nhất mà
không bị tác động nào chi phối. Nếu ai thành tựu được trí tuệ giải thoát,
an trú tâm đại bi, người đó là cao quư nhất (độc tôn). Đức Phật đă trải
qua vô lượng kiếp hành Bồ tát đạo, xuất hiện kiếp này là thân sau cùng,
thành tựu quả vị tṛn đầy viên măn, vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác,
không c̣n sự quư báu nào cao hơn nữa, nên hiển nhiên Ngài xưng: “Trên
trời, dưới trời, khắp trong ba cơi, chỉ có người hoàn toàn Giải Thoát
mới là độc tôn”, đó là một chân lư, không phải là lời tự thị, tự
nâng cao ḿnh, v.v. bởi v́ những thứ này, Thế Tôn đă hàng phục và làm
lắng ch́m từ vô lượng kiếp trước rồi.
Kinh Tăng Chi Bộ, tập 1 chép: “Một người, này các
Tỳ-kheo, khi xuất hiện ở đời, là xuất hiện của một người không hai,
không có đồng bạn, không có so sánh, không có tương tợ, không có đối
phần, không có người ngang bằng, bậc tối thượng giữa các loài hai chân.
Người ấy chính là Như Lai, bậc A-la-hán Chánh Đẳng Chánh Giác...”.
Giữa các tôn giáo hiện hữu trên địa cầu, đức Thế Tôn đă nói lên tiếng
nói “Duyên
Sinh - Vô Ngă”
chấn động mọi tư tưởng, mọi từng vứt. Giữa những con đường đi đến hạnh
phúc được biết bởi nhân loại, con đường
Bát Chánh Đạo
mà đức Phật thuyết minh là con đường thánh thiện nhất, toàn mỹ nhất để
đưa tất cả chúng ta đến bến bờ an vui đích thực. Đó là ư nghĩa “độc tôn”
trong sự thị hiện của đức Thế Tôn.
Cần biết thêm rằng, thời kỳ Phật đản sinh là thời kỳ
giáo thuyết Bà-la-môn đang thịnh hành khắp toàn cơi Ấn Độ. Họ chủ trương
rằng, chỉ có Bà-la-môn là cao quư nhất, v́ họ là con chính thức của Phạm
Thiên. Phạm Thiên là đấng tạo chủ sáng tạo ra muôn loài. Trong khi sự
thật, không có ai là người sáng thế cả, mọi quan niệm về một đấng thần
linh có quyền năng đều là tác phẩm của huyễn hóa, ảo tưởng. Sự xuất hiện
của đức Phật đă đánh tan quan niệm sai lầm ăn sâu trong tín ngưỡng dân
gian này. Trước hết, Ngài thể hiện một con người rất người để xác chứng
Ngài không phải sinh ra từ Phạm Thiên, hay từ một đấng sáng thế nào cả,
mà Ngài chỉ xuất hiện v́ nguyện lực, song hành với vô số thiện nghiệp mà
Ngài đă tu tập từ vô lượng kiếp, đă nỗ lực tu hành để đạt sự giải thoát
rốt ráo, thành tựu quả vị Niết Bàn. Điều này rơ ràng rằng: sự sinh ra,
mất đi của Ta như thế đều do Ta quyết định. Cuộc đời của Ta như thế nào,
sướng khổ, sang hèn, giàu nghèo... đều do Ta quyết định. Không ai có thể
làm cho Ta nhiễm ô, không ai làm cho Ta trong sạch. Trong sạch hay nhiễm
ô, đều do tự chính ḿnh, không ai thanh tịnh ai. Như vậy, đức Phật đă từ
bi trao lại toàn bộ quyền tự quyết về hành động - kết quả, hạnh phúc -
đau khổ, cho con người. Ngài đă vựt dậy vị trí xứng đáng của con người
giữa các triết thuyết quyền năng huyền bí, thần linh mơ hồ.
Bảy
đóa sen vàng nâng gót ngọc
Bà
ngàn thế giới đón Như Lai.
Thật kỳ diệu thay! Sự xuất hiện của một Người đă tŕnh
bày trọn bộ quá tŕnh tu tập, trau dồi tự thân, chuyển từ mê sang ngộ,
từ phàm phu lăn lóc luân hồi thành một bậc Như Lai Chánh Đẳng Chánh Giác.
Ngay trong sự đản sanh, đă có mặt sự chứng thành Đạo quả tối thượng và
trạng thái tịch lặng của cơi Niết Bàn Vô Dư Y. Đó cũng là ư nghĩa v́ sao
tất cả những ngày kỷ niệm của Đức Như Lai đều nhằm vào ngày trăng tṛn,
biểu trưng cho trí tuệ sáng suốt nhưng cũng dịu mát, thanh lương. Những
năm gần đây, tổ chức Liên Hiệp Quốc đă gộp chung ba sự kiện lớn của cuộc
đời đức Phật vào trong một ngày, gọi là Lễ Tam Hợp, để tôn vinh đạo lư
Từ Bi và Trí Tuệ của Ngài, dựa vào những lời dạy của Ngài để xây dựng
một nền Văn Hóa nhân loại theo hướng nhân ái, văn minh, công bằng.
Kính
cầu nguyện tất cả mọi người mọi loài đều được sống an b́nh, hạnh phúc
trong tinh thần từ bi thương yêu cao cả nhân trong mùa “tam hợp” của đức
Từ Phụ Thích Ca Mâu Ni.
Nam mô Lâm Tỳ Ni viên, Vô Ưu thọ hạ thị hiện đản sanh, Bổn Sư Thích Ca
Mâu Ni Phật.
Mùa
Phật Đản PL. 2552