|
-----˜
] ™ -----
T ừ
"Haiku"
được phiên âm từ Tiếng Hán là
"bài cú" hay
"bài
hài", nghĩa là nguyên một bài thơ chỉ có một câu, mang tính chất hài hước
vui nhộn. Ban đầu nó có tên gọi là
haikai, cách gọi vắn tắc của
haikai no
renga (bài hài liên ca). Nó kế thừa h́nh thức phát cú liên ca, là lối xưng
hô được phổ biến rộng răi sau cuộc vận động cách tân thể thơ hài hước của
Chánh Cương Tử Quy vào giữa thời Minh Trị Thiên Hoàng. Đặc điểm của loại
thơ này có rất ít từ ngữ, và chỉ cô đọng trong 17 âm tiết (tiếng Nhật)
theo thể vận 5-7-5.
T ừ tên gọi ban đầu
haikai, nó từng bước thoát khỏi sự
dung tục, vượt qua sự giải trí đơn thuần, để rồi định mệnh của nó rơi vào
tay Matsuo Basho. Ông ta đă sáng tạo một cách thơ mới, dung hợp sự trào
lộng đời thường của haikai hiện đại với yếu tố cao nhă tâm linh của renga
cổ điển trong một khổ thơ ngắn gọi là
hokku (phát cú), nguyên là khổ thơ
mở đầu cho bài liên ca. Khi hokku trở thành thể thơ độc lập, không phụ
thuộc vào liên ca nữa, nó mới có tên là
haiku.
Haiku là một sản phẩm đặc biệt của thiên tài Nhật Bản.
Tác giả của loại thơ này chủ yếu là các vị Thiền sư, hoặc các thi sĩ có xu
hướng yêu chuộng hay tu tập theo pháp môn
Zen (Thiền). Về măït h́nh thức,
thơ Haiku rất đơn giản như vậy là v́ theo thời gian, nó được thai nghén,
chắc lọc rất tự nhiên từ những tâm hồn hết sức tĩnh lặng của các Thiền sư.
Như mặt nước hồ thu, bóng nhạn lướt qua không c̣n dấu vết, tâm thức yên
tĩnh ấy diễn tả nên một thực tại sinh động, không hề vướng mắc; đó là thời
điểm để một bài thơ Haiku ra đời. Haiku là một đóa hoa đẹp đẽ, thắm đượm
màu sắc văn hóa Đông Phương, là một cách sống linh động và chịu ảnh hưởng
của phái Zen trong Phật Giáo Nhật Bản.
T hơ Haiku đi với cuộc đời b́nh thường mà không hề tầm
thường, để đạt đến cảnh giới không phân biệt trong một vũ trụ thuần khiết:
Quán bên đường
Các du nữ ngủ
Trăng và đinh hương.
Các du nữ, hoa đinh hương và mặt trăng cùng nằm với
nhau trong một vùng trời vô định trước mắt nhà thơ. Với Basho, "tất cả đều
có cuộc sống, có Phật tính, có sự b́nh đẳng trong ánh sáng và trong cát
bụi."
X ét về h́nh thức, bài Haiku thường có 17 âm tiết (có
khi cũng không nhất thiết), nhưng cái ngắn đó không khiến chúng ta phải
nặng óc suy tư để t́m bên trong cái h́nh thức ngắn ấy một ư tưởng không
ngắn. Bởi haiku là sự cô đọng của một sự t́nh vắn tắt đă được t́m ra trong
h́nh thức vừa vặn của ḿnh. Sự cô đọng của Haiku là đặc điểm nổi bật, một
sự cô đọng đi vào chiều sâu, vào chân không chứ không phải là ư muốn dùng
sự ít lời để diễn tả nhiều ư nghĩa khác nhau.
Và do đó, cho dù Haiku nói đến những sự vật nhỏ nhoi
nhất, ta thấy nó vẫn mênh mông, hùng vĩ và huyền diệu lạ thường. Haiku
thường được Basho nhắc tới qua những cảm giác hằng ngày:
như sabi (linh hồn tịch liêu):
Ôi tiếng ve kêu
Thấu xuyên vào
đá
Trong cơi quạnh
hiu.
như wabi (những cái đơn sơ nghèo nàn):
Mái lều êm
Một con chim gơ kiến
Gơ ngoài trụ hiên.
và như karumi (niềm khinh thanh dịu nhẹ):
Mưa mù sương
Phù dung một đóa
Làm mùa lên hương.
Nói đến haiku, dĩ nhiên chúng ta phải nói đến và cần
t́m hiểu đôi nét về Basho. Matsuo Basho (Tùng Vĩ Ba Tiêu, 1644-1694), nhà
Haiku sống vào đầu thời đại Giang Hộ, tên thật là Tông Pḥng, hiệu là
Haseo, biệt hiệu Đào Thanh, Bạc Thuyền Đường, Điếu Nguyệt Am, Phong La,
v.v. người vùng Thượng Dă, Y Hạ. Ông xuất thân từ giai cấp
samurai, là
người có ư chí muốn học về haiku, nên từng theo hầu hạ Lương Trung và Bắc
Thôn Quư Ngâm ở Kyoto. Về sau, Basho từ bỏ lâu đài lănh chúa, xuống vùng
Giang Hộ đi làm du sĩ lang thang, rồi dời về Ba Tiêu Am (Basho-an - am
tranh của Basho) ở vùng Thâm Xuyên, Giang Hộ. Cái duyên để có tên người và
tên am cũng khá thú vị:
M ột đêm mưa, trong căn cḥi tranh nhỏ bé, chủ nhân của
nó đang đối diện với chính ḿnh. Từng giọt mưa rơi trên tàu lá chuối,
tiếng kêu lộp độp nhưng thánh thót vang xa, dung hoà cả những tâm hồn đồng
điệu dù đang ở bất cứ phương trời nào. Trước cảm xúc ấy, ông thích được
như cây chuối tắm trong thi vũ, liền đặt bút hiệu cho ḿnh là "Basho", và
am tranh nhỏ cũng theo đó mang tên là "Basho-an". Chúng ta biết, nhà thơ
Lư Bạch thời Đường cũng trong một khung cảnh như thế, đă thốt lên câu thơ
rằng:
"Cách song tri dạ vũ
Ba tiêu tiên hữu thanh."
(Qua song cửa sổ biết có mưa đêm, v́ cây chuối lên
tiếng trước).
K hông lập gia đ́nh, đương làm quan với Mạc Phủ Đức
Xuyên th́ ông từ chức, sống nghèo nàn với bộ nâu sồng rách vá, nhàn du
khắp từ Bắc chí Nam đảo Bản Châu để t́m thi tứ, thi cảm cho sự nghiệp sáng
tác. Tư cách thanh cao đến độ thiếu thốn th́ chịu, chứ nhất định không t́m
vào nương nhờ bất cứ một ông lănh chúa nào, mặc dù ông rất được giai cấp
này trọng vọng v́ thi tài. Ông lưu chơi nơi am tranh với một vài nhà tu
cũng nghèo nàn th́ chịu, ở lại với nhà nông dân hẻo lánh một vài bữa th́
rất lấy làm vui, nhưng đến đâu cũng cố t́nh lẫn tránh cửa quyền quư. Đương
thời ông được coi là vị địa tiên v́ thi tài th́ quán thế mà chỉ sống ẩn
dật, không muốn phiền lụy một ai. Sáng lập ra phong cách haiku độc đáo của
ḿnh, ông để lại rất nhiều danh cú và qua đời tại một lữ quán ở vùng
Nanba.
Basho là bực thánh thi vô tiền về thể thơ haiku. Các
b́nh luận gia vẫn sánh ông với Lư Bạch, Đỗ Phủ của Trung Quốc.
Năm 1680, từ khi trú chân tại am Ba Tiêu , ông bắt đầu
tu hành Thiền đạo dưới sự hướng dẫn của một Thiền sư gần miền. Một năm sau,
ông rời bỏ am tranh và sống như đám mây trôi nổi, để t́m đến cái rốt ráo
của thơ ca, mà theo Yuasa gọi là "cái bản ngă vĩnh cửu." Trong thời gian
này, bài thơ "Xuân Nhật" của ông đă gây nên một chấn động trong nền văn
học:
Phiên âm Latin:
Furuike ya kawazu tobikomu mizu no woto
Nhật Chiêu dịch:
Ao cũ
Con ếch nhảy vào
Vang tiếng nước xao.
Chỉ một tiếng vang của nước mà con ếch của Basho đă
khuấy động nên một dư âm đă ngân qua bao nhiêu thời đại và xứ sở.
Cuộc đời của Basho cũng như thơ của ông luôn hướng về
một lư tưởng là t́m thấy sự nhẹ nhàng thanh thoát ngay giữa cuộc đời ô
trọc, một niềm khinh thanh êm đềm bay lượn giữa tro than và cát bụi trần
gian.
T rước và sau Basho c̣n nhiều những thiên tài như thế
nữa, nhưng chỉ nêu một ḿnh ông cũng đủ để thấy cái linh hồn cốt tủy của
haiku thế nào rồi. Chỉ cần xem người ta xưng tụng và sùng mộ Basho, chúng
ta có thể kết luận ông là một h́nh bóng vĩ đại của văn hóa Nhật Bản, một
nhà thơ huyền bí, và ông đă hóa thân vào haiku, vào trong linh hồn của
Nhật Bản. R. H. Blyth tán thán ông như sau: "Nước Nhật sinh ra cùng với
Basho năm 1644. Ông chính là người đă sáng tạo ra linh hồn của Nhật Bản."
Trong cơi siêu tuyệt của haiku, một nhà thơ với một
thiền sư được đánh đồng với nhau, không c̣n phân biệt. Basho cũng vậy,
nhiều bài thơ của ông cũng chính là công án, thoại đầu. Cuộc hội ngộ của
bậc thiên tài này với các thiền sư, thi sĩ chẳng khác nào những thiền
thoại hay buổi truyền tâm ấn giữa các Tổ sư. Bởi tâm thức luôn an trú
trong một cơi dù đó là cơi thơ hay cơi tịnh lự, lời phát ra như gió như
mây, thanh trong, thiện xảo, không hề vướng bận ti hào nào sự trau chuốt
ngôn từ. Ư tưởng này có thể được t́m thấy qua những giai thoại sau:
Một đêm trăng, trên đường du hóa, Basho gặp một nhóm
các nghệ sĩ đang thưởng trăng và hoà thơ (dĩ nhiên là thơ haiku, v́ lúc ấy
ở Nhật Bổn loại thơ này đang thịnh hành). Ông được mời làm thơ trước, đề
tài chắc chắn phải là trăng rồi. Basho liền thốt lên:
Vầng trăng non dại...
Cả nhóm cười ồ lên, (v́ có lẽ trong ư họ nghĩ: trăng
thế này mà non dại), như như mỉm cười, Basho cứ vậy mà tiếp nhịp:
Theo tôi từ độ ấy
Ai có ngờ hôm nay.
Ồ! Tiếng ngạc nhiên của các thi sĩ cùng nhẹ nhàng thốt
lên sau khi lắng nghe một tuyệt tác. Có người h́nh như ngộ ra liền hỏi:
Có phải là Basho tiên sinh không? Vâng, đúng là chỉ
có Basho.
Ông đă nhiều lần đến tham thiền với Hoà Thượng Phật
Đảnh ở chùa Căn Bổn thuộc vùng Lộc Đảo. Nhân một ngày trời tạnh mưa xuân,
Ḥa Thượng tự ḿnh đích thân đến thăm am Ba Tiêu. Basho mừng quưnh chạy ra
nghênh đón. Khi vừa mới giáp mặt nhau, Ḥa Thượng muốn biết xem Basho có
chuyện ǵ bèn hỏi ngay:
- Gần đây có ǵ không?
- Mưa qua rêu xanh mướt. Basho đáp liền.
N ếu như con mắt tâm mà khai mở th́ chân như thật tướng
hiển hiện ngay. Chính cảm giác mới mẻ như
"mưa qua rêu xanh mướt" không ǵ hơn là con mắt giác ngộ. Tuy nhiên, Ḥa Thượng không dễ ǵ mà tha
cho ngay, bèn tấn công tiếp rằng:
- Như thế nào là Phật Pháp trước khi rêu xanh chưa mọc?
Có phải chăng đây cũng là diệu nghĩa của "ngọc Côn
Lôn đen thui chạy trong đêm" chăng ?
Song, quả không hổ danh là Basho, người không bị rơi
vào "động ma tối om như vậy. Ông trả lời ngay:
- Ếch nhảy, tiếng nước vang.
Thật quả là khoảnh khắc khai nhăn tài t́nh!
Một loại h́nh nghệ thuật để nuôi dưỡng tâm hồn, một
nghi mẫu thơ ca, những h́nh dung và thể hiện trong haiku th́ hầu như không
có ǵ nhưng lại biến nhiệm tam thiên. Một truyệt tác thiên tài, một tâm
hồn khoáng đạt, những ḍng thi ca bất tận của Basho đă thắp sáng và thăng
hoa haiku lên tột đỉnh không biên cương của nó. Đem cái biết hữu hạn hữu
lượng để bàn cái vô lượng vô biên, thỏa đáng chăng! Chỉ hề! Chỉ hề!
Mục
Đồng
-----˜
] ™ -----
CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO:
- Thích Nguyên Tâm: Mỗi Ngày Một Câu Chuyện Thiền, nxb
Tôn Giáo, 2005.
- Thích Nguyên Tâm biên dịch: Phật Giáo Nhật Bổn, tập
1&2, Hội Chấn Hưng Học Thuật Nhật Bổn, bản thảo.
- Châm Vũ Nguyễn Văn Tần dịch: Nhật Bản Tư Tưởng Sử,
tập 1&2. Phủ Quốc Vụ Khanh đặc trách Văn Hoá xuất bản, 1972-1973.
- Nhật Chiêu: Văn Học Nhật Bản Từ Khởi Thủy Đến 1868,
nxb Giáo Dục, 2003.
- Thiên Ân Đoàn Văn An: Trao Đổi Văn Hoá Việt Nam-Nhật
Bản, Đông Phương xuất bản, 1963.
- Vương Ngọc: Từ Điển Nhật-Việt Việt-Nhật, nxb Văn Hoá
Thông Tin, Hà Nội, 2004.

Mục
Đồng
|