òng thời gian đã lùi xa, rất xa. Nếu tính ra đã hơn một đời người. Thế mà
hai chữ kỷ niệm trong tôi. Không thể nào diễn tả nổi.
Tôi đã sống dọc theo quốc lộ 1 cả một hành trình dài, bắt đầu là Phan Rang
đến Tu Bông, Ba Ngòi, Diên Khánh, và cuối cùng trụ chân ở Ninh Hòa. Khi
Tôi đến, Ninh Hòa vẫn là vùng đất đìu hiu tạm bợ. Phương tiên di chuyển đi
lại lúc bấy giờ là xe ngựa. Vào năm 1955 đến 1956, nơi đây rất êm đềm bình
dị, gia đình tôi sống gần ga Ninh Hòa, và Tôi bắt đầu cuộc đời biết đánh
vần A, B, C,… từ đây.
Trường tiểu học Phạm Ngũ Lão là một ngôi trường nhỏ tre lá, trường có ba
gian, chia làm nhiều lớp. Tôi được học lớp 5A do anh Mười (không hiểu
sao? Lúc đó tôi gọi Thấy Mười là anh) phụ trách. Tuổi thơ và những kỷ niệm
đầu đời được đánh dấu tại Ninh Hòa.
Trường Tiểu học Phạm Ngũ Lão nằm gần một cái hồ sen, mỗi lẫn ra chơi chúng
tôi thường ra gần bờ hồ ngắm sen nở. Vì thế, màu hoa sen, mùi sen nở nó
luẩn quẩn trong trí nhớ của tôi khi tôi khôn lớn. Đường Ninh Hòa từ ngã ba
đi Nha Trang lúc đó trồng vườn cây keo (cây me đất) là loại cây có gai,
trái giống trái me, cong như trái me nhưng nhỏ hơn trái me, ruột màu trắng
hạt đen, ăn được. Các ngày nghỉ học, chúng tôi tụ năm tụ ba, ra ngã ba mua
kẹo gừng, loại kẹo không gói giấy, họ lăn bột để khỏi dính tay, một đồng
mua được mười cục kẹo. Thế là kẹo bỏ túi và trang bị một cây gậy có dây
chì ở đầu để khều trái keo chín.
Tản bộ ra ruộng đi dọc theo chiều đường rày xe lửa tìm dế để bắt, đem ra
trường để đá dế. Về đến ga, nằm dưới các gốc cây phượng ngửa mặt lên nhìn
trời xem hoa phượng nở và rơi, khều các con ve trên cây phượng, đem hoa
phượng về ép vào sách, vì là thời không chiến tranh, nên cuộc sống lúc đó
rất thanh bình, đêm nằm nghe tiếng vó ngựa, sáng nghe tiếng rao bánh mì.
Hồi đó các em bán bánh mì bằng cái bao vác trên vai đi vào các ngõ rao
bán, tiếng rao bánh mì buổi sáng nghe hay hay, nó làm sống động một buổi
sáng, trưa lại lang thang ra ga, ngắm các đoàn tàu đi và về, ngắm hàng
phượng của ga Ninh Hòa, tối nằm nghe tiếng còi tàu, ấn tượng không tả. Các
hình ảnh này nó in đậm vào sâu thẳm ký ức không bao giờ quên, nhất là món
nem Ninh Hòa tuyệt vời.
Đến năm 1958 gia đình tôi chuyển về Dục Mỹ, ngày đầu đến Dục Mỹ phải căng
lều ngủ vì chưa có nhà, Dục Mỹ lúc đó chỉ là vùng đất nghèo nàn lơ thơ vài
căn nhà lá, sau vài tháng mới tạm ổn nhà ở. Do các lính của sư đoàn 23 làm
chia đều cho vợ con của lính. Chùa Mỹ Sơn Tự là rừng cao su còn sót lại.
Nhà Thờ Dục Mỹ là vùng cát dựng tạm để sinh hoạt tôn giáo, từ đây hình
thành ngôi trường Tiến Đức. Lúc này, tôi cũng đã khá khôn, học lớp ba, lớp
nhì, ở trường bằng tường lá. Đến năm 1960, trương Tiến Đức mới xây xong,
tôi học lớp nhất tại đây (Thầy Tăng Hùng Phi dậy). Suốt hành trình từ năm
1958 đến năm 1975, không biết bao nhiêu là kỷ niệm từ con đường, dòng
suôi, cây cầu, rừng cây, bạn bè,… Dục Mỹ không có cây phượng, chỉ có loài
hoa màu vàng nở vào mùa hè, mọc ở hai bên suối, nên chúng tôi đặt là hè
vàng cộng với cầu ông Ngọ, vì cứ đến 12 giờ là chúng tôi tụ tập nơi đây để
tắm để nô đùa, xong lên nằm trên bãi cát nhìn màu hoa vàng, kéo nhau chui
vào rừng bắn chim, tìm trái cây rừng như trái bứa ăn rất chua, bứa to như
một quả cam, nên không có thằng nào ăn nổi một trái.
Dục Mỹ dần dần được nâng lên thành yếu khu, dân số Dục Mỹ lúc này các nơi
tụ về khá đông vì nơi đây có đến ba quân trường, lính lúc nào cũng ồn ào
nào nhiệt, trường Tiến Đức tôi sinh hoạt cả trí tuệ lẫn trí dục, tôi sinh
hoạt văn nghệ rất hăng say, tham gia các hội đoàn, vào hướng đạo sinh quân
đội, thỉnh thoảng nếu nhớ Ninh Hòa, tôi lại đạp xe về ga Ninh Hòa ngắm
hàng phượng của ga Ninh Hòa, vì hàng phượng của ga Ninh Hòa gây cho tôi
nhiều ấn tượng đẹp. Đến năm 1967, tôi lại được về Ninh Hòa học, tôi học
tại trường Đức Linh, lớp đệ tứ, duy chỉ học có một năm nhưng tôi lúc nào
cũng tản bộ theo bờ tường để thăm trường học cũ, trường Phạm Ngũ Lão. Lúc
này, hồ sen đã biến mất, tôi không hiểu tại sao? Hàng keo hai bên đường
cũng không còn, bến xe ngựa năm xưa bây giờ thành cây xăng, các dấu ấn kỷ
niệm dần dần biến mất. Thời gian cứ từ từ lặng lẽ trôi, chiến tranh hai
miền mỗi ngày càng ác liệt, tôi tạm gác bút và vào Lạng Sơn. Quên đi những
ngày tháng của tuổi thơ, quên đi những hàng phượng hàng me, cây cầu, con
suối nhưng mỗi lần có dịp về qua, tôi vẫn tạt vào thăm trường cũ.
Năm 1975, biến động đất nước, thế là chia tay bạn bè, ngôi trường các dấu
ấn kỷ niệm, quên hẳn một chặng đường dài gần bốn mươi năm. Các bạn thử
nghĩ đi! bốn mươi năm đi qua quá nhanh, những kí ức thì chậm, nó luôn luôn
canh cánh làm ta nhớ đến dấu ấn kỷ niệm, thế là lên đường tìm lại chuyện
ký ức Ninh Hòa - Dục Mỹ.
Các bạn biết không? Có thể tôi chết đứng lặng hàng giờ trước thực tế, khi
còn ngồi trên xe tôi luôn luôn nghĩ nó thơ nó mộng nó vẫn đẹp như ngày
nào, thế mà con đường ngã ba đi về trường Bán công và trường Đức Linh,
không có một tà áo trắng, không có một quần tây xanh, nó lặng lẽ im lìm.
Trường Phạm Ngũ Lão cũng biến mất, nhường chỗ cho khu dân cư, các hàng keo
bên đường tuyệt gốc không còn một cây, duy nhất chỉ còn tám cây phượng
trên đường vào ga Ninh Hòa. Về đến Dục Mỹ, tôi còn sững sờ và đau đớn hơn
nhiều, dòng suối khô cạn, cây hai bên bờ bị phá vô tội vạ, trường học Tiến
Đức sập mái, vắng bóng học sinh, tôi tạt qua trường Bồ Đề, cũng không hơn
gì trường Tiến Đức. Các hình ảnh trên tạo cho tôi sự chán nản, vô cảm, tôi
không còn từ nào để diễn tả. Nhưng, cũng còn cái may, tôi đã liên lạc được
với bạn bè cũ, lúc đó tôi nghĩ không còn ai cả, vì khi ra nghĩa trang tên
tuổi bạn bè tôi nằm ở đây quá đông, tôi chỉ biết dùng từ “Ôi thời gian!”.
Sau đó, tôi liên lạc được với hội đồng hương Ninh Hòa – Dục Mỹ, các bạn ạ!
Nếu ký ức thực tế biến mất, vậy ta tìm đến ký ức trong tim trong tâm hồn,
đúng đó các bạn ạ, nếu nói đến Ninh Hòa thì phải nói đến Dục Mỹ, và ngược
lại. Vì trong chúng ta, bạn chúng ta phải có một lần học ở Ninh Hòa và Dục
Mỹ, vậy hỏi trong một năm chúng ta tìm về ký ức tuổi thơ trong vòng có vài
tiếng đồng hồ ngắn ngủi, khi đầu đã bạc, đã lên chức ông bà, nhưng chúng
ta vẫn nhớ đến thời học trò thời áo trắng đẹp nhất trong cuộc đời người,
đừng vì một lý do gì chúng ta làm mất đi một phần đẹp đẽ của hội đồng
hương Ninh Hòa – Dục Mỹ, vì hội phải là nơi khơi nguồn sức sống kỷ niệm
cho ngày hôm nay, không chỉ là hai mà chỉ là một.
Có cô bạn hỏi tôi: “hồi đó ở Dục Mỹ sao anh không chịu nói?”
Tôi nói: “Anh phải đi học ở Ninh Hòa”
“Ô… vậy sao!” cười trừ. Huề, vì tóc đã bạc.
8X, 9X Ninh Hòa – Dục Mỹ có vui không? Ông bà như vậy đó, Ninh Hòa – Dục
Mỹ luôn ở trong tim mọi người.

ĐỒNG HƯƠNG HỘI
Anh đến Hà thôn một buổi chiều
Làng xa đô thị gió đìu hiu
Lòng buồn thổn thức chờ thu đến
Bóng dáng thủy tiên dưới bóng chiều
Cốt cách dung nhan dáng ngọc ngà
Hương lan thoang thoảng gió mặn mà
Đồng hương Hội Dục Mỹ - Ninh Hòa
Căn nhà muôn thủa khó phôi pha
Kỷ niêm nơi đây ta với ta
Lòng người mãi mãi với căn nhà
Này đồng hương hội của chúng ta
Sống mãi với chúng đến tuổi già.
Trần Đình Nguyên Soái