7) Hai Tướng Tây Sơn Trần Quang Diệu và Vơ văn Dũng vây
thành B́nh Định
Tháng 2/1800 hai Đại Tướng của Tây Sơn là Trần Quang Diệu
và Vơ văn Dũng đem Thủy Lục Quân từ Phú Xuân quyết tâm
chiếm lại B́nh Định ( Quy Nhơn cũ ). Vơ Tánh cố thủ, sai
người phi báo về Gia Định. Diệu chỉ huy Bộ Binh sai đắp
lũy quanh thành và bao vây 4 mặt !. Dũng chỉ huy Thủy Binh
với 2 Tàu lớn cùng hơn 100 chiến thuyền nhỏ ra đặt ngang
cửa bề Thị Nại, xây đồn và đặt đại bác ở 2 bên bờ bể để
pḥng ngự Thủy Quân của nhà Nguyễn. Nguyễn Vương được tin
cấp báo sai Nguyễn văn Thành đem bộ binh tiến quân c̣n
ḿnh đích thân chỉ huy Thủy Binh khởi hành ngày 6/1800 với
3 Đ̣an, mỗi Đ̣an có 1 Chiếc Tàu Chiến kiểu Tây Phương do 3
người Pháp ( Chaigneau, Vannier, De Forçan ) chỉ huy với
1200 chiến thuyền nhỏ. Thành tiến quân ra Phú Yên gần tới
B́nh Định th́ bị Diệu chặn lại. Hạm Đội do Vương chỉ huy
tiến ra Cửa Thị Nại th́ bị chiến thuyền và pháo đài của
Dũng bắn đại bác chặn lại. V́ hai đạo quân Thủy Bộ của
Nguyễn Vương không liên lạc được với nhau nên không cứu
được Vơ Tánh sau 7 tháng - đến 2/1801 không về Gia Định mà
kéo về đóng tại Nha Trang !.
Nguyễn Vương chiếm Cửa Thị Nại
Trong khi quân Tây Sơn vây thành B́nh Định đă 14 tháng
qua với quyết tâm chiếm lại v́ là nơi xuất phát của Nhà
Tây Sơn. Nguyễn Vương vẫn chưa có thể giải vây. Cuối
tháng 2/1801 ( đầu Xuân năm Tân Dậu ) Vương sai Nguyễn
Phúc Trương đem Thủy Binh lén lên bờ đánh tập hậu các Đồn
Thủy Binh của Vơ văn Dũng và sai Lê văn Duyệt cùng Vơ di
Nguy đem Thủy Quân đánh thẳng vào Cửa Thị Nại. Vơ di Nguy
trúng đạn chết, Lê văn Duyệt ra sức xung đột, đánh phá đốt
hầu hết Tàu chiến và chiến thuyền của Tây Sơn –sau đó
c̣n cho quân lặn nơi chiến thuyền của Tây Sơn ch́m để vớt
lên 500 đại bác cùng nhiều vũ khí không đếm xuể !Trong
Trận này theo lời kể lại của Linh Mục Lelabousse đi theo
cuộc Hành Quân : Cửa Bể Thị Nại có vị trí rất lợi hại – v́
hẹp lại được pḥng thủ nhiều đồn ở 2 bên bờ với nhiều Đại
Bác. Quân Tây Sơn cho 3 tàu chiến lớn với nhiều Đại Bác
nằm quay ngang chiếm mọi lối vào, phía trong đầy ắp chiến
thuyền nhỏ.Vương không cho Chiến Thuyền lớn tiến tới mà
bảo đậu ở một eo kế cận chỉ dùng 26 chiến thuyền hạng
Trung và 100 chiến thuyền nhẹ. Nhờ đêm tối và nhờ Gió Nồm
Vương cho chiến thuyền tiến thuyền tiến vào Hải Cảng đồng
thời 1 số quân bỏ thuyền lên bờ đánh tập hậu – và Đại Bác
ở 3 Tàu lớn do 3 người Pháp chỉ huy. Quân Nguyễn Vương leo
lên Thuyền Tây Sơn đốt cháy- một phần do Đạn qủa Bưởi do 3
Thuyền Chiến bắn vào. Cuộc chém giết rùng rợn suốt đêm,
bên Tây Sơn các chiến thuyền đều bị lửa đốt cháy gần hết !.
Dũng phải bỏ Cửa Thị Nại đem quân về hợp với Diệu vây
thành B́nh Định. Cũng thời gian này, ngày 20/3/1801 Đông
Cung Cảnh đang trấn thủ Gia Định thay Vương bị bệnh đậu
Mùa chết, thọ 22t ( Hạn Thái Bạch+Ḱnh Đà ) để lại
vợ và 2 con trai. Khi sắp mất, ông mới chịu phép rửa tội
vào Đạo Công Giáo – dù từ nhỏ đă theo sát GM Bá Đa Lộc và
đă nhiều lần từ chối rửa tội theo Đạo ( cũng v́ hành
động này, theo 1 số người nhận định là nguyên nhân khi Vua
Gia Long sắp mất không truyền ngôi cho Ḍng Trưởng - Về
Ḍng Thứ : v́ Hoàng Tử thứ 2 là Hy tuổi Nhâm Dần 1782 chết
sớm : năm Tân Dậu 1801 « Hạn La Hầu 19t»-Ḥang Tử Tuấn thứ
3 cũng chết sớm « 1785/1797 : năm Tuổi+Hạn Thái Bạch »,
nên Ḥang Tử Đảm thứ 4 mới được kế vị, tức là Vua Minh
Mệnh ).
Vơ Tánh và Ngô Tùng Châu tử tiết tại thành B́nh Định.
Nguyễn Vương tiến chiếm Phú Xuân.
Sau 14 tháng giải vây, Nguyễn Vương vẫn chưa phá được ṿng
vây của Tây Sơn, Vương cho người lẻn vào thành đưa thư cho
Tánh và Châu bảo 2 người bỏ thành mà trốn ra. Nhưng Tánh
phúc thư nói : « Quân Binh của Tây Sơn ở cả B́nh Định
cùng 2 tướng giỏi, vậy xin đừng giải vây vội, hăy kíp đem
quân ra đánh Phú Xuân th́ hơn ». Vương theo kế của Vơ
Tánh đầu tháng 5/1801 sai tướng Nguyễn văn Trương đem quân
ra chiếm Quảng Ngăi và Quảng Nam để cắt đứt liên lạc giữa
Vua Cảnh Thịnh và 2 Tướng Diệu, Dũng. Đồng thời để Nguyễn
văn Thành ở lại để cầm chân Diệu, Dũng. Ngày 5/6/1801
Vương đem Đại Quân Thủy Bộ từ Cửa Thị Nại ra Cửa Đà Nẵng
để hợp với Tướng Nguyễn văn Trương. Sáng ngày 9/6/1801 Đại
Quân tiến đánh Cửa Tư Hiền. Pḥ Mă Tây Sơn là Nguyễn văn
Trị trấn giữ ở núi Quy Sơn nên tiền quân Nguyễn đánh không
được !. Vương sai 2 tướng Lê văn Duyệt và Lê văn Chất đem
Thuỷ Binh đánh tập hậu. Trị bỏ đồn trốn chạy nhưng bị bắt
lại.
Nguyễn Vương tiến chiếm Phú Xuân ngày 15/6/1801 ( năm Đinh
Dậu )
Sáng ngày 11/6/1801 Quân Nguyễn tiến vào Cửa Thuận An sau
đó tiến đánh Phú Xuân do 2 lực lượng :
a) Tướng Nguyễn văn Trương chỉ huy 6 chiến hạm và 36
thuyền chở Đại Bác đánh vào Cửa Tây thành Phú Xuân ;
trong đó có 4 chiến hạm do Vannier, Chaignau, De Forçan và
Barisy chỉ huy với nhiệm vụ trợ chiến bằng Đại Bác.
b) Nguyễn Vương với tướng Lê văn Duyệt phụ tá, đích thân
chỉ huy với 45 chiến thuyền chèo tay, 300 thuyền buồm chở
Đại Bác và 15000 quân, đổ bộ đánh vào Cửa Đông. Vào 5 giờ
sáng ngày 12/6/1801 chiến thuyền của Nguyễn Vương tiến tới
trước Cửa Đông. Quần thảo trong 2 ngày, bị Đại Bác qủa
Bưởi của Olivier ( Nguyễn văn Tín tên Việt) mạnh hơn và
hiệu qủa hơn Đại Bác của Tây Sơn và bị 2 mặt giáp công.
Vua Tây Sơn Cảnh Thịnh ngự giá đốc quân chống không nổi
phải bỏ Phú Xuân chạy ra Bắc ( Thời điểm này Vua Cảnh
Thịnh 19t đi vào Hạn La Hầu ). 8g sáng ngày 15/6/1801
( Tân Dậu ) Nguyễn Vương vào Thành Nội sau 26 năm cách
biệt kể từ ngày 3/2/1775 (Ất Mùi ) khi Phú Xuân thất thủ (
Thời điểm này Nguyễn Vương : Đại Tiểu Vận trùng phùng
tại Điền Trạch +Tam Minh « Đào Hồng Hỉ »,Ṿng Lộc Tồn ;
Nguyệt Vận vào Mệnh « Thái Tuế »).
Vơ Tánh và Ngô Ṭng Châu tử tiết tại B́nh Định
Hai ông Tánh và Châu cố thủ thành B́nh Định từ 2/1800 đến
tháng 7/1801 – đă 17 tháng. Lương thực đă cạn , voi chiến,
ngựa chiến đều bị đem ra làm thịt nuôi quân dân trong
thành v́ quân Tây Sơn vây kín mà không đánh – vây chặt chẽ
không để 1 chỗ hở để dân trong thành không thể ra ng̣ai
t́m kiếm thức ăn !. Dù Nguyễn Vương đă chiếm được Phú Xuân
ngày 15/6/1801 nay đến ngày 5/7/1801 – đă 20 ngày không
thấy viện binh. Trong khi đó Diệu và Dũng nghe Phú Xuân
thất thủ liền tấn công gấp, quyết tâm chiếm thành bằng mọi
giá. Ông Châu hỏi Tánh nên chống cự Tây Sơn thế nào ? Tánh
chỉ vào Lầu Bát Giác gần đấy và nói : « Kế của Tôi đó,
Tôi là Chủ Tướng, nghĩa là không thể cùng sống với giặc ;
c̣n ông là quan văn th́ ông nên t́m cách tự toàn ! ».
Châu cười đáp : « Trung Nghĩa th́ ai cũng như ai, Văn
với Vơ có khác chi nhau ! Tướng Quân có thể chết theo
Nghĩa, Tôi há không thể chết v́ ḷng Trung hay sao ?
». Nói rồi ông Châu trở về mặc đồ Triều Phục, hướng về
Bắc, lạy rồi uống thuốc độc tự tận. Được tin ấy ông Tánh
buồn rầu nói : « Ông Ngô đă tranh đi trước Ta rồi ! ».
Hai hôm sau vào ngày 7/7/1801 Tánh sai người đem ra cho
Trần Quang Diệu một bức thư nói rằng : « Phận sự Ta làm
Chủ Tướng th́ đành liều chết dưới Cờ. C̣n các Tướng Sĩ
không có tội ǵ, không nên giết hại !». Ông cho chất
rơm cỏ cùng thuốc súng ở dưới Lầu Bát Giác, mặc Triều Phục
trèo lên Lầu, nói mấy câu vĩnh biệt với Tướng Sĩ rồi tự
đốt mà chết. Diệu và Dũng tiến quân vào thành, tha hết
quân dân, làm Lễ tống táng cho 2 ông Tánh và Châu rất
trọng thể. ( Nhiều Sử Gia thắc mắc về Nguyễn Vương khi
chiếm được Phú Xuân từ ngày 15/6/1801 trước 20 ngày Tánh
và Châu tử tiết – tại sao không đem quân giải vây : nên
nhớ vào năm Tân Sửu 1781 Nguyễn Vương đă sai người ám sát
Đỗ Thành Nhơn v́ sợ lộng quyền cướp ngôi. Vơ Tánh lại là 1
trong Tam Hùng Gia Định - cựu Tướng của Nhơn – nay bỏ rơi
- có thể mượn tay Tây Sơn để trừ hậu họan !).
8) Trận Trấn Ninh, cố gắng cuối cùng của Vua Cảnh Thịnh có
Nữ Tướng Bùi thị Xuân giúp sức (2/1802 )
Mất Phú Xuân ngày 13/6/1801 Vua Tây Sơn Cảnh Thịnh chạy ra
Bắc, bèn đổi Niên Hiệu là Bảo Hưng, lấy viện binh ở các
Trấn, sai em là Nguyễn Quang Thùy vào giữ Nghệ An. Trong
khi đó Nguyễn Vương sai tướng Nguyễn văn Trương ra trấn
giữ ở Sông Linh Giang ( nghĩa là Nguyễn Vương đă chiếm lại
ṭan bộ Đàng Trong ). Sau 6 tháng hưu chiến, tháng 12/1801
vua Cảnh Thịnh chiêu mộ được 3 vạn quân kéo vào Nghệ An có
thêm Nữ Tướng Bùi Thị Xuân đem 5000 quân đi hộ giá. Tháng
1/1802 vua Cảnh Thịnh cùng Nguyễn Quang Thùy và Bùi thị
Xuân đem Đại Quân vượt sông Gianh và cho hơn 100 chiến
thuyền tiến xuống Cửa Nhật Lệ ( Quảng B́nh ). Nguyễn văn
Trương phải lui quân về Đồng Hới. Nguyễn Vương liền thân
chinh đem Đại Quân lên tiếp ứng ; sai Nguyễn văn Trương ra
giữ mặt Biển, Phạm văn Nhân và Đặng Trần Thường giữ mặt
bộ. Tháng 2/1802 vua Cảnh Thịnh sai Quang Thùy tiến quân
xuống đánh Lũy Trấn Ninh, đánh măi không được ; thấy thế
trận ngày càng bất lợi Bùi Thị Xuân cỡi voi liều chết đánh
riết vào Lũy Trấn Ninh, nơi Nguyễn Vương đang cố thủ, từ
sáng đến chiều, máu và mồ hôi ướt đẫm áo giáp ; Bà c̣n
giành lấy dùi tự tay thúc trống liên hồi. Lúc bấy giờ
Nguyễn Vương cùng tướng tá đă hỏang hốt vội chia quân vượt
sông Linh Giang đánh bọc hậu ḥng mở đường máu thóat thân.
Nào ngờ vua Cảnh Thịnh thấy quân Nguyễn tràn qua nhiều,
tưởng nguy khốn ra lệnh lui binh ; Bùi thị Xuân nắm áo
ngự bào của vua để khuyên cố đánh. Nhưng khi nghe tin
Nguyễn văn Trương phá tan Thủy Binh của Tây Sơn ở Cửa Biển
Nhật Lệ cướp được hầu hết tàu thuyền và Tướng giữ Cửa Biển
Nguyễn văn Kiên đă đầu hàng th́ đội quân của Bà hốt hỏang
bỏ vũ khí đạn dược để tháo chạy. Vua Cảnh Thịnh cùng Quang
Thùy đem quân chạy về Bắc, để Nguyễn văn Thận ở lại giữ
Nghệ An và Bùi thị Xuân cũng ở lại chờ chồng !.
Về phần 2 Tướng Diệu và Dũng chiếm được thành B́nh Định
từ tháng 7/1801 khi nghe tin Phú Xuân thất thủ đă có 2 lần
sai tướng đem quân về đánh Kinh Thành, nhưng lần nào cũng
bị tướng Lê Văn Duyệt chặn đường ở Quảng Nam, rồi đánh
thốc xuống. Mặt khác tướng Nguyễn văn Thành ở Cửa Thị Nại
đánh lên , tướng Tống viết Phúc ở Phú Yên đánh ra. Ba mặt
thụ địch, quân Tây Sơn phải hết sức chống đỡ. Tháng 4/1802
hai tướng Diệu Dũng nghe tin thua ở Lũy Trấn Ninh, liền bỏ
thành đem binh tướng đi đường Thượng Đạo qua Lào để ra
Nghệ An.
B- Giai Đoạn lên ngôi Hoàng Đế
Ngày mồng 2 tháng 5 năm Nhâm Tuất ( 1/6/1802) Nguyễn
Vương ở Phú Xuân lập Đàn tế cáo trời đất, rồi thiết Triều
để các quan lạy mừng lên ngôi Hoàng Đế và đặt Niên Hiệu là
Gia Long nguyên niên ( Niên hiệu Gia Long có ngụ ư muốn
thống nhất đất nước từ Gia Định đến Thăng Long : Tiểu
Vận vào THÂN cư Quan Lộc và Phúc Đức gặp Ṿng Tràng Sinh
« Sinh Mộ Vượng » – năm đầu 42t của Đại Vận Thái Tuế «
42t- 52t »- Đại Tiểu Vận trùng phùng ).
Vua Gia Long tiến chiếm Xứ Đàng Ngoài ( Thống Nhất đất
Nước )
Hạ Tuần tháng 6/1802 vua Gia Long đem Đại Binh Thủy Bộ
tiến ra Bắc. Thực ra chỉ c̣n là cuộc tảo thanh và truy
kích vua tôi nhà Tây Sơn. Tướng Tây Sơn Nguyễn văn Thận bỏ
nghệ An rút về Diễn Châu. Tháng 3/1802 hai tướng Trần
Quang Diệu và Vơ văn Dũng giữ thành B́nh Định nghe tin Vua
Cảnh Thịnh và Bùi Thị Xuân thua tại Trấn ninh liền bỏ
thành đem binh tướng theo đường Thượng Đạo qua Lào ra Nghệ
An để hội quân với Cảnh Thịnh. Nhưng khi tới Châu Qui Hợp,
xuống huyện Hương Sơn gặp Bùi Thị Xuân th́ nghe tin đă mất
Nghệ An. Vợ chồng Diệu lui về huyện Thanh Chương, quân sĩ
bỏ trốn hết, mấy hôm sau 2 người bị bắt. Về phần Dũng chạy
ra huyện Nông Cống cũng bị dân bắt được đem nộp. Đại quân
của vua Gia Long qua Thanh Hóa, rồi ngày 20/7/1802 tới
Thăng Long bỏ ngỏ. Vua Cảnh Thịnh và 2 em Quang Thùy,
Quang Thiệu cùng vài bề tôi là vợ chồng Đô Đốc Tú, Nguyễn
văn Tứ đă chạy qua sông Nhị Hà, nhưng đến Phượng Nhỡn th́
bị dân bắt được. Thùy và vợ chồng Đô Đốc Tú tự vẫn. Mấy
người c̣n lại bị đóng cũi đem về nộp cho Vua Gia Long ở
Thăng Long.
Cuộc trả Thù của Vua Gia Long
Tháng 8/1802 vua Gia Long về kinh đô Phú Xuân, đem vua tôi
Tây Sơn về làm « Lễ Hiến Phù » ở đền Thái Miếu. Quang
Tỏan, Quang Thiệu và các Tướng Tây Sơn bị đưa ra pháp
trường xử tử. Ông Cố Đạo Lemonnier de la Bissachère đă có
mặt ở nước Nam từ năm 1789 về Pháp năm 1807 viết cuốn sách
có kể lại cuộc hành h́nh do 1 thuộc viên Công Giáo được
mục kích kể lại cho ông : « Họ đào mả Nguyễn Nhạc và
Nguyễn Huệ, đem 2 bộ xương khô tới pháp trường vứt bừa băi
xuống đất, sai lính đái vào 2 đầu lâu, để Quang Toản nh́n
thấy mà đau khổ. Rồi đập nát những bộ xương đó. Xong họ
cho các phạm nhân 1 bữa cơm ngon, nhưng chỉ một ḿnh Quang
Tỏan ăn, c̣n Quang Thiệu không chịu ăn. Các đao phủ thủ
căng dây 4 chân tay Quang Tỏan cho 4 con voi xé ra làm 4 ;
đầu chặt sau. Trần Quang Diệu bị chém đầu. Bùi thị Xuân
và con gái 13 tuổi bị voi xé. Đứa con gái bị xé trước, kêu
thét mẹ cứu con… rồi đến lượt Bùi thị Xuân. Bùi thị Xuân
mặt không đổi sắc, tiến đến trước mặt voi như chọc tức nó.
Mấy tên lính la thét om ṣm bắt Bà qùy xuống, nhưng Bà vẫn
thản nhiên tiến bước. Voi lùi lại ; bọn lính phải lấy giáo
thọc vào đùi voi. Bấy giờ voi mới quặp lấy bà tung lên
trời. Bà chết bọn lính liền lấy dao cắt lấy tim, gan, thịt
ở cánh tay để ăn sống v́ muốn được can trường như bà.
Trong Việt Nam Sử Lược kể : Gia Long sai quật mả Nguyễn
Nhạc và Nguyễn Huệ đem vất thây đi, c̣n sọ th́ đem bỏ vào
Ṿ giam vào ngục tối. C̣n Ḥang Hậu Ngọc Hân đem 2 con thơ
là Quang Đức 14t và Ngọc Bảo 12t trốn xuống Quảng Nam ;
sau bị bắt và bị ép uống thuốc độc tự tử, 2 con bị thắt cổ
chết ( thực ra Ḥang Hậu Ngọc Hân sinh năm Canh Dần
« 24/4/1770 » đă mất năm Kỷ Mùi « 4/12/1799 » lúc29t có 2
con Quảng Đức chết lúc 10t và Ngọc Bảo chết lúc 12 t
«18/5/1802 » trước tháng 8/1802, ngày trả thù của Gia
Long. Bà Nguyễn thị Huyền, mẹ Ngọc Hân đă đem hài cốt cả 3
về Bắc chôn 3 ngôi mộ trong 1 Miếu Thờ - đến thời Thiệu
Trị, do sự tố giác « Mả Ngụy » mới bị phá Miếu đào mả cả
3 ngôi mộ, rồi quẳng hài cốt xuống Sông Hồng ).
Trường hợp 2 Vợ chồng Trần Quang Diệu và Bùi Thị Xuân
Trần Quang Diệu sinh ngày 9 tháng 9 năm Canh Th́n ( 1760 )
rất giỏi vơ, là 1 trong Thất Hổ Tướng trong Triều
Đại Tây Sơn - một hôm trên đường từ Hoài Ân và Kiên Mỹ để
gặp Thủ Lĩnh Tây Sơn là Nguyễn Nhạc th́ bị cọp dữ tấn
công, chống trả 1 hồi, ông vừa bị thương vừa đuối sức, may
gặp Bùi thị Xuân t́nh cờ qua đó, liền xông vào cứu được.
Ít lâu sau nhờ Nguyễn Nhạc đứng chủ hôn 2 người thành vợ
chồng – trong chiến thắng Mùa Xuân Kỷ Dậu 1789 hai vợ
chồng đều là 2 vơ tướng trong đội Trung Quân do Vua Quang
Trung chỉ huy. Nguyễn Ánh khi lên ngôi muốn chiêu hàng
Diệu, nhưng Ông đáp : « Trung Thần không thờ hai Vua,
nay tôi bị bắt th́ chỉ có tội chết. Nếu nhà Vua mới rộng
lượng tha cho, như trước đây tôi đă tha cho các tướng sĩ ở
B́nh Định th́ tôi sẽ về ở nơi Thôn Dă cầy ruộng nộp thuế
như thường dân, chứ nhận chức quan của Triều Đại mới th́
không phải là Trượng Phu ». Một số Sử Gia khác viết
Vua Gia Long nghĩ t́nh tha cho mẹ già 80t và không giết 1
cách tàn độc như hầu hết các Tướng Lănh của Tây Sơn mà bắt
uống thuốc độc. ( Thời điểm Tướng Diệu chết khi Vận Số đi
vào Hạn Kế Đô 43t+Ḱnh Đà )
Bùi Thị Xuân sinh năm Nhâm Thân 1752, là 1 trong Tây
Sơn Ngũ Phụng Thư, c̣n được Vua Quang Trung ban hiệu
Anh Hùng Cân Quấc – sinh trưởng trong 1 gia đ́nh
khá giả, sớm được học cả Văn lẫn Vơ – không những chỉ có
nhan sắc, khéo tay viết chữ đẹp, mà c̣n có tài về Kiếm
thuật, bắn cung cưỡi ngựa và luyện voi – chính Bà là Nữ
Tướng chỉ huy đội Tượng Binh ở Đội Trung Quân của Vua
Quang Trung trong Trận Đại Phá Quân Thanh ở Mùa Xuân năm
Kỷ Dậu 1789- được phong Nữ Đô Đốc, một thời ngang dọc cùng
chồng - được Công Luận ca ngợi oai danh và tiết tháo. Lúc
bại trận nhưng vẫn hiên ngang ; người ta c̣n truyền rằng
khi nghe Bùi Thị Xuân bị bắt, Chúa Nguyễn bèn sai áp giải
trước mặt, rồi hỏi với giọng đắc chí : « Ta và Nguyễn
Huệ ai hơn ? » Bà trả lời : « Chúa Công ta, tay
kiếm tay cờ làm nên Sự Nghiệp. Trong khi nhà ngươi đi cầu
viện Ngoại Bang, hết Xiêm đến Tàu, lần nào cũng bị Chúa
Công ta đánh cho không c̣n mảnh giáp !. Đem so với Chúa
Công ta, nhà ngươi chẳng qua chỉ là ao trời, nước
vũng ! ». Chúa Nguyễn gằn giọng : « Ngươi có tài sao
không giữ nổi ngai vàng cho Cảnh Thịnh ?
». Bà đáp : « Nếu có thêm 1 Nữ Tướng như Ta th́ Cửa
Nhật Lệ đă không để lạnh và Nhà Ngươi cũng khó mà đặt chân
đến Bắc Hà ! ». Dư luận sau cho rằng sở dĩ Nguyễn
Vương rất căm thù Bà, nên dùng h́nh phạt dă man nhất ;
nguyên nhân là Bà đă điều khiển tướng sĩ đánh vào Lũy Trấn
Ninh hết sức kịch liệt đă làm cho Chúa Nguyễn và các tướng
sĩ có phút thất thần tưởng chừng nguy khốn đến nơi !(
Thời điểm Bà mất khi Vận Số đi vào Hạn La Hầu 51t+Tam Tai
+Ḱnh Đà ). Mọi Tướng Sĩ, quan quyền dưới Triều Tây
Sơn, kể cả họ hàng thân thích – theo kiểu Chu Di Tam Tộc -
đều bị Vua Gia Long tiêu diệt bằng mọi cách, hết sức tàn
nhẫn và thâm độc – duy chỉ có 1 người độc nhất không bị
giết chết mà c̣n được « Sủng Ái » đó là Ḥang Hậu Ngọc
B́nh ( em của Ḥang Hậu Ngọc Hân ) vợ của Vua Cảnh Thịnh.
Khi quân Nguyễn vào Phú Xuân, Ngọc B́nh không kịp chạy
theo Cảnh Thịnh, Gia Long bắt gặp và si mê trước sắc đẹp
của Bà và kiên quyết lấy bà, bỏ qua mọi lời can ngăn – sau
đó phong làm Đệ Tam Cung !.
Việc trả thù của Nguyễn Vương - về sau, bị Sử sách nói
nhiều về Công Tội. Theo phân tích của nhiều Sử Gia, cuộc
báo thù có 2 mục đích :
- Trả thù cho những việc Nhà Tây Sơn làm với Gia Tộc và
bản thân của Nguyễn Ánh trước kia : quật lăng mộ của 8 đời
Chúa Nguyễn - lấy hài cốt vất xuống sông ; giết người thân
và cả nhiều đắng cay trong những tháng ngày lênh đênh trốn
chạy !.
- Dùng cuộc trả thù để tỏ rơ uy thế, làm khiếp sợ những
người chống đối ( nhắm vào Cựu Thần Nhà Lê - Trịnh , kể cả
Tây Sơn ) phải quy thuận trước Vương Triều mới. Ông tuyên
bố : « Trẫm v́ chín Đời mà trả thù là nghĩa lớn của
Kinh Xuân Thu ! ». Nhiều đánh giá về sau của Cuộc Trả
Thù này – phần lớn các Sử Gia ( kể cả đang ở dưới Triều
Nguyễn ! ) đều cho rằng Nguyễn Ánh thực hiện qúa tay và
đôi lúc rất Tiểu Nhân ( đúng với Bản Chất của Phá Quân cư
Mệnh – dù Phá Quân đắc địa ở Tư Ngọ ! ).
Sau khi chiếm Thăng Long hồi tháng 7/1802, Vua Gia Long
định lập Kinh Đô tại Nghệ An nhưng cận thần Nguyễn văn An
can ngăn, sau đó chọn Phú Xuân làm Kinh Đô, nơi Kinh Thành
cũ của Tổ Tiên từ năm 1687. Năm Ất Sửu 1805 nhà vua cho
xây cất lại Hoàng Thành theo kiểu Vauban. Triều đ́nh thời
Vua Gia Long giống như thời Vua Lê Thánh Tông với lục bộ (
Lại, Hộ, Lễ, Binh, H́nh, Công ) kể cả xử dụng Luật Hồng
Đức. Vẫn chính sách thủ cựu là duy tŕ nền Văn Hóa Khổng
Nho của Trung Hoa, duy tŕ chữ Hán, giữ nguyên và g̣ bó
chương tŕnh thi cử vào mấy bộ Tứ Thư , Ngũ Kinh của Khổng
Mạnh. Là vua 1 nước rộng lớn, mới thống nhất sau mấy trăm
năm nội chiến với nhiều phe phái tranh giành xâu xé nhau
xuất hiện liên tục, cộng thêm chính sách thuế khóa cao và
cưỡng bức xây dựng đền đài ; sự bất b́nh của tầng lớp Sĩ
Phu c̣n hoài nhớ Lê Triều và nạn đói thường xuyên diễn ra
ở vài khu vực khắp nước nên Gia Long thường xuyên phải đối
mặt với khoảng 73 phong trào chống đối trong suốt thời Ông
trị v́ – dù có lúc tỏ vẻ c̣n tôn trọng nhà Lê bằng cách
phong quan tước cho con cháu Nhà Lê và dùng Cựu Thần của
Lê Triều !.
Xem
PHẦN 5: