|
HÁN
VIỆT
DỊCH
SỬ
LƯỢC
GS
Nguyễn
Hữu
Quang
Nguyên
Giảng Viên Vật Lý Chuyên về Cơ Học Định Đề
(Axiomatic Mechanics, a branch of
Theoretical Physics)
tại Đại Học Khoa Học Sài Gòn trước năm 1975
CHƯƠNG 17
TAM GIÁO DỊCH
三
教
易
(Tiếp theo Kỳ 138)
Tạp-Quái-Truyện Phương-Đồ
Hình
17.3 Tạp-Quái-Truyện Phương-Đồ
CƯỚC-CHÚ
Trình-tử nghi là thứ-tự 8 quẻ chót Tạp-quái-truyện có
thác-giản, nên đánh mất phản-đối. Kỳ thực, phản-đối đã được
phục-hồi một cách kín-đáo. Nếu ta lập phương-đồ (Hình 7.26),
ta sẽ thấy rằng: trong thống-hỗ
Kiền-Khôn thì:
①
Đại-quá,
②
Cấu,
③
Di,
④
Quyết;
trong
thống-hỗ
Ký-Vi-tế thì:
①
Tiệm,
②
Ký-tế,
③
Quy-muội,
④
Vị-tế, đối-xứng ngang dọc với 54 quẻ. Năm mươi-tư quẻ giờ
đây giống như hai người song-hành, trong khi 8 quẻ cuối
Truyện, ngồi vào hai bàn đâu lưng với nhau.
Tạp-Quái Minh-Nghiã Nguyên-Đồ
Hình 17.4 Tạp-Quái Minh-Nghiã Nguyên-Đồ
CƯỚC-CHÚ
Kiền-Khôn
là thể, Ký-Vị-tế
là dụng, nên lấy Kiền-Khôn
khai hàng và lấy Ký-Vị-tế
khép hàng. Bên trái là 6 quẻ dương Bác-Phục,
Tiệm-Quy-muội,
Kiển-Giải,
lấy chấn-cấn làm chuẩn mà thống Kiền-Khôn,
bên phải là 6 quẻ âm Cấu-Quyết,
Đại-quá-Di,
Khuê-Gia-nhân,
đều lấy tốn-đoài làm chuẩn mà thống Ký-Vị-tế,
cho nên vòng ngoài cùng là 64 quẻ, vòng kế bên trong là 16
hỗ-quái, vòng kế nữa là 4 chung-thủy-quái. Lấy tượng-hạn mà
xem, ắt quẻ nào thống-hỗ Kiền-Khôn,
đứng đằng trước, quẻ nào thống-hỗ Ký-Vị-tế,
đứng đằng sau. Lấy trái phải mà xem, ắt mé trái đều thống-hỗ
Kiền-Khôn,
mé phải đều thống-hỗ Ký-Vị-tế.
Đồ-Thuyết 8 Quẻ cuối Tạp-quái-truyện không dùng Phản-đối
Năm mươi sáu quẻ đầu cuả Tạp-quái-truyện (từ Kiền-khôn đến
Nhu-Tụng) đều phản-đối từng đôi một. Nhưng cớ sao tám quẻ
cuối lại không phản-đối? Có vị như Trình-tử ngờ là
thác-giản. Nhưng sau khi hiệp-vận, ta lại thấy đúng. Chu-tử
không hiều duyên-cớ, đành để tồn-nghi. Hậu-nhân cực-lực suy
cầu, lấy 6 hào quẻ Đại-quá trải ra theo hình tròn, dùng phép
hỗ-quái, theo dõi hào, mà suy-di được 5 quẻ Cấu, Tiệm, Di,
Quy-muội, Quyết ngõ hầu tin vào thuyết cuả mình. Nhưng sau
quẻ Lâm lại thừa mất quẻ Kiền, mà không có chỗ nào để xen
vào hai quẻ Ký-Vi-tế.
Nay xét phương-vị bát-quái tiên-thiên 6 quẻ vừa nêu, hợp
phương-vị dọc, mà quẻ Khảm nên hợp phương-vị ngang. Theo dõi
nữa, đoài-tốn giáp kiền, khởi Đại-quá, tái do kiền thành
trạch-thiên Quyết, rất hợp với bát-quái tiên-thiên. Khúc
giữa thiếu mất khôn. Hơn nữa, tháp-nhập Ký-Vị-tế
sai chỗ, phản-luận-lý, nên Chu-tử tồn-nghi là phải lẽ. Kinh
Dịch tuyệt nhiên không có chỗ nào dùng chữ 'hỗ' để
thích-nghiã hỗ-quái. Đức Khổng-tử nói: "Thiếu trung-hào thì
không đầy-đủ". Đây Ngài không muốn nói 4 hào chính giữa quẻ,
mà muốn nói hai hào sơ-thượng vô-vị, tức là Ngài muốn nói :
không có 4 hào chính giữa quẻ thì không tài nào hỗ được, từ
đó mới lộ rõ đầu đuôi (sơ-thượng). Tượng-truyên có nói: "Nhu
tiến mà đi lên trên, cương lại mà đắc-trung, đều là trục-hào
tiến lui trên dưới, lưu-chuyển không ngừng". Chu-tử dùng
nhầm quái-biến, nên thuyết mới không hợp với thoán-truyện.
Khổng-tử lại không giải-thích tại sao lại như vậy. Hơn nữa,
tiên-nho bảo kiền-khôn là thể, khảm-ly là dụng, nên
Thượng-Hạ-Kinh đều lấy khảm-ly để khép hàng. Cho nên,
Đại-quá-Di,
Tiểu-quá-Trung-phu
là tượng khảm-ly vậy. Trên thực-tế, ta thấy rằng Khổng-tử
tạp 8 quẻ cuối Tạp-quái-truyện này, quả có thâm-ý bên trong,
không phải là chuyện ngẫu-nhiên. Xem ý đó, Ký-Vi-tế
bên dưới Đại-quá, hẳn có thể lấy Đại-quá làm tượng đại-khảm,
Di tượng đại-ly. Đó là thực-chứng. Mới hay rằng Khổng-tử tạp
8 quẻ là có thâm-ý. Nay ta có thể vẽ quẻ Đại-quá bên trái
trục hào hướng thượng, thông-chuyển một vòng, ắt 4
trung-hào hỗ Cấu, nếu sau Cấu lại lập lại động-tác dây
chuyền thông-chuyển, ắt 4 trung-hào hỗ Tiệm. Sau Tiệm, lại
tiếp-tục thông-chuyển, ta được Di. Nhân Đại-quá có tượng
đại-khảm, Di có tượng đại-ly, khảm trên, ly dưới là thủy-hoả
Ký-tế. Cho nên, dưới Di, trên Quy-muội, giáp-nhập Ký-tế,
tái-thông-chuyển lần nữa, ta được Quy-muội. Sau Quy-muội, hỗ
Di thành tượng ly ở trên, Đại-quá thành tượng khảm ở dưới.
Ly trên, khảm dưới là hoả-thủy Vị-tế. Nên dưới Quy-muội,
trên Quyết, giáp-nhập, tái-thông-chuyển, được Quyết. Cho
nên, tái-thông-chuyển lần chót là trở về Đại-quá, mà là
tượng đại-khảm. Ta được mô-thức (pattern) sau đây:
QUẺ TRUNG-HỖ
TẠP-QUÁI-TRUYỆN
Đai-quá, Đại-tượng khảm Đại-quá là
ngã đổ
Hào sơ quẻ Đại-quá sang nhị, nhị sang tam, tam sang tứ, tứ
sang ngũ, ngũ sang thượng, thượng lui về sơ, thành Độn,
trung-hỗ Cấu.
Độn, trung-hỗ Cấu Cấu là gặp, mềm
gặp cứng vậy.
Độn. sơ sang nhị, nhị sang tam, tam sang tứ, tứ sang ngũ,
ngũ sang thượng, thượng lui về sơ, thành Vô-võng, trung-hỗ
Tiệm.
Vô-võng, trung-hỗ Tiệm Tiệm là con gái đợi
con trai mà đi vậy.
Vô-võng, sơ sang nhị, nhị sang tam, tam sang tứ, tứ sang
ngũ, ngũ sang thượng, thượng lui về sơ, thành Trung-phu,
trung-hỗ Di.
Trung-phu, trung-hỗ Di, tượng đại-ly Di là nuôi điều
chính.
Dưới quẻ Di này, không dùng hỗ, mà lại giáp-nhập Ký-tế như
thấy bên trên.
Ký-tế Ký-tế là
đã định rồi.
Trung-phu, sơ sang nhị, nhị sang tam, tam sang tứ, tứ sang
ngũ, ngũ sang thượng, thượng lui về sơ, thành Đại-súc,
trung-hỗ Quy-muội.
Đại-súc, trung-hỗ Quy-muội Quy-muội là sự toàn vẹn
cuả người con gái.
Dưới quẻ Di này, không dùng hỗ, mà lại giáp-nhập Vị-tế như
thấy bên trên.
Vị-tế Vị-tế là đường
cùng cuả người con trai.
Đại-súc, sơ sang nhị, nhị sang tam, tam sang tứ, tứ sang
ngũ, ngũ sang thượng, thượng lui về sơ, thành Đại-tráng,
trung-hỗ Quyết.
Đại-tráng, trung-hỗ Quyết Quyết là quyết, là
cứng quyết mềm.
Đạo
người quân-tử tăng-trưởng;
đạo kẻ
tiểu-nhân lo âu.
Đại-tráng, sơ sang nhị, nhị sang tam, tam sang tứ, tứ sang
ngũ, ngũ sang thượng, thượng lui về sơ, thành Đại-quá.
Đại-quá phục-thành đại-tượng khảm.
Dưới đây là hai dịch-đồ tân-kỳ cuả Hồ-Vạn để cắt nghiã sự
hình thành cuả tám quẻ chót cuả Tạp-quái-truyện, phá lệ
phản-quái cuả 56 quẻ đầu Truyện.
Hình 17.5 Tuần-Hoàn Hỗ-Quái-Đồ I
CƯỚC-CHÚ
Sáu hào cuả quẻ Đại-quá (Hình 17.5), chính-quái tả-triền,
hỗ-quái hữu-chuyển : từ sơ đến tứ là Cấu, từ thượng đến tam
là Tiệm, từ ngũ đến nhị là Di, từ tứ đến sơ là Quy-muội, từ
tam đến thượng là Quyết, từ nhị đến ngũ là Kiền.
Nói khác đi, lập quẻ từ sơ lên thượng; đọc quẻ từ thượng
xuống sơ. Tinh-ba cuả Ký-tế là các hào dương cuả Kiền;
tinh-ba cuả Vị-tế là các hào âm cuả Khôn.
Hình 17.6 Tuần-Hoàn Hỗ-Quái-Đồ II
CƯỚC-CHÚ
Trong phép này (Hình 17.6), ngoại trừ Khôn không dùng, lấy
tốn khởi đầu, lấy đoài kết-thúc, khúc giữa khảm-ly qua lại,
kiền tả, đoài hữu, tốn hợp trạch-phong Đại-quá, kiền-tốn hợp
thiên-phong Cấu, tốn-cấn hợp pghong-sơn Tiệm, cấn-chấn hợp
sơn-lôi Di, chấn-đoài hợp lôi-trạch Quy-muội, đoài-kiền hợp
trạch-thiên Quyết. Mặt khác, tốn-cấn-chấn-đoài, chính giữa
có khảm-ly, nên dưới Di có thủy-hoả Ký-tế, dưới Quy-muội, có
hoả-thủy Vị-tế. Đồ này có thấy trong sách Chu-Dịch
Biến-thông-giải周易變通解.
Chung-thiên bát-quái cuả Đức Khổng-tử đặt ra cốt để quản-trị
các quẻ cuả Tạp-quái-truyện.
Hình 17.7 Bát-Quái Khổng-tử
Chung-thiên Bát-quái, suy từ Tạp-quái-truyện của Khổng-tử,
đối-xứng
thác-tổng qua trục hoành và có thể nhớ bằng câu :
Bên này Kiền, Khảm, Chấn, Ly,
Bên kia Tốn, Cấn nữa thì Đoài, Khôn.
Trọng-ni cửu-quái, tức 9 quẻ có đề-câp trong Hệ-Hạ VII &
VIII:
{J,
O,
X,
`,
i,
j,
o,
p,
y}
{Lý,
Khiêm, Phục, Hằng, Tổn, Ích, Khổn, Tỉnh, Tốn}
Chương VII định-danh, còn Chương VIII xiển-minh
đặc-tính.
THƯ TỊCH KHẢO
386
Chu-Dịch Xiển Chân
周易闡真,
Thê-vân-sơn Ngô-nguyên-tử Lưu Nhất Minh
棲 雲 山
素樸散人悟
元 子 劉 一 明
Thể-thuật,
in
Thuật-số Tùng-thư 53
(Tr. 1-194),
Nhất-bản, Tân-văn-phong, Đài-bắc, tháng 8-1995.
277
Tam-Dich Đỗng-Ky
三易洞璣,
Minh
è
Hoàng Đạo Chu
黃道周
soạn,
in
Thuật-số Tùng-thư 15
(Tr. 1-340),
Nhất-bản, Tân-văn-phong, Đài-bắc, Tháng 7-1995.
*
* *
Xem
Kỳ
140
GS
Nguyễn
Hữu
Quang
Nguyên
Giảng Viên Vật Lý Chuyên về Cơ Học Định Đề
(Axiomatic Mechanics, a branch of
Theoretical Physics)
tại Đại Học Khoa Học Sài Gòn trước năm 1975
www.ninh-hoa.com |
|