|
HÁN
VIỆT
DỊCH
SỬ
LƯỢC
GS
Nguyễn
Hữu
Quang
Nguyên
Giảng Viên Vật Lư Chuyên về Cơ Học Định Đề
(Axiomatic Mechanics, a branch of
Theoretical Physics)
tại Đại Học Khoa Học Sài G̣n trước năm 1975
CHƯƠNG 14
HOÀNG CỰC KINH THẾ NGÔN SỐ
皇
極
經
世
言
數
(Tiếp theo Kỳ 132)
Một điểm son cuả HCKT là sưu-tập được một tập-hợp hùng-hậu
và đầy ư-nghiă các bộ tư:
Bộ Tư
→
↓
Loại Bộ Tư |
|
|
|
|
Tứ-tượng |
Thái-dương |
Thiếu-âm |
Thiếu-dương |
Thái-âm |
Tứ-đức |
Nguyên |
Hanh |
Lợi |
Trinh |
Tứ-thời |
Xuân |
Hạ |
Thu |
Đông |
Tứ phương |
Đông |
Tây |
Nam |
Bắc |
Tứ-tính |
Âm |
Dương |
Cương |
Nhu |
Tứ-vận |
Nguyên |
Hội |
Vận |
Thế |
Thiên
Tư-tượng |
Nhật
(Mặt trời) |
Nguyệt
(Mặt trăng) |
Tinh
(Sao) |
Thần
(28 Tú) |
Điạ
Tư-tượng |
Thủy
(Nước) |
Hoả
(Lửa) |
Thổ
(Đất) |
Thạch
(Đá) |
Tứ-thể |
Thiên
(Trời) |
Điạ
(Đất) |
Nhân
(Người) |
Vật
(Vật) |
Tứ chi |
Hữu-thủ
(Tay phải) |
Tả-thủ
(Tay trái) |
Hữu-túc
(Chân phải) |
Tả-túc
(Chân trái) |
|
Huyết
(Máu) |
Nhục
(Thịt) |
Cốt
(Xương) |
Tủy
(Tuỷ) |
|
Tẩu (Muông) |
Phi (Chim) |
Thảo (Cỏ) |
Mộc (Cây) |
|
Chi (Cành) |
Diệp (Lá) |
Hoa |
Thực (Quả) |
|
Thiên |
Điạ |
Quỷ |
Thần |
|
Tính |
T́nh |
H́nh |
Thể |
|
Thử |
Hàn |
Trú |
Dạ |
Điạ
Tứ-hoá |
Vũ
(Mưa) |
Phong
(Gió) |
Lộ
(Móc) |
Lôi
(Sấm sét) |
|
Niên
(Năm) |
Nguyệt
(Tháng) |
Nhật
(Ngày) |
Thời
(Giờ) |
|
Hoàng |
Đế |
Vương |
Bá |
Tứ Kinh |
Dịch |
Thư |
Thi |
Xuân Thu |
|
Thái Cương |
Thái Nhu |
Thiếu Cương |
Thiếu Nhu |
|
Mục (Mắt) |
Nhĩ (Tai) |
Khẩu (Miệng) |
Tỵ (Mũi) |
|
Tủy (Tủy) |
Huyết (Máu) |
Cốt (Xương) |
Nhục (Thịt) |
|
Cát |
Hung |
Hối |
Lẫn |
Tứ-âm |
Hầu (Họng) |
Xỉ (Răng) |
Thiệt (Lưỡi) |
Thần (Môi) |
Tứ-thanh |
B́nh |
Thượng |
Khứ |
Nhập |
Tứ tác-động |
Biến |
Hoá |
Cảm |
Ứng |
|
Sắc |
Thanh |
Khí |
Vị |
|
Tham |
Ngũ |
Thác |
Tổng |
|
Sinh |
Trưởng |
Thâu |
Tàng |
|
Đạo |
Đức |
Công |
Lực |
|
Nhân |
Cách |
Tổn |
Ích |
|
Khai |
Phát |
Thâu |
Bế |
|
Khai |
Thừa |
Chuyển |
Hợp |
|
Hoá |
Giáo |
Khuyến |
Suất |
|
Tâm (Tim) |
Tỳ (Lá lách) |
Đảm (Mật) |
Thận (Cật) |
|
Phế (Phổi) |
Vị (Dạ dày = bao-tử) |
Can = Gan |
Phao (Bàng-quang) |
Tứ-thuật |
Tôn-giáo |
Triết-học |
Khoa-học |
Nghệ-thuật |
|
Chính-trị |
Pháp-luật |
Kinh-tế |
Giáo-dục |
|
Hoá |
Giáo |
Khuyến |
Suất |
Tứ-thường |
Nhân |
Lễ |
Nghiă |
Trí |
|
Ư |
Ngôn |
Tượng |
Số |
Tứ-đế |
Hữu Ngu |
Hạ Vơ |
Thương Thang |
Chu Phát |
Tứ-Bá |
Tần Mục |
Tấn Văn |
Tề Hoàn |
Sở Trang |
|
Thánh |
Hiền |
Tiên |
Phật |
Tứ-vương |
Văn Vương |
Vơ Vương |
Chu Công |
Thiệu Công |
Tứ-linh |
Long |
Ly (Lân) |
Quy |
Phượng |
Bảng 14.03 Tập-Hợp Các Bộ Tư cuả Hoàng Cực Kinh Thế
Chí-đại gọi là Hoàng, chí-trung gọi là Cực, chí-chính gọi là
Kinh, chí-biến gọi là Thế. Đại Trung Chí Chính, Ứng Biến Vô
Phương gọi là Đạo. Lấy Đạo làm sáng tỏ Đạo, Đạo không thể
không sáng tỏ được. Lấy vật làm sáng tỏ Đạo, mới thấy Đạo
được. Vật là h́nh-thể cuả Đạo. Do đó biết Đạo cũng là vật,
vật cũng là Đạo. Có ai biết luận-điệu ấy không? Vật không ǵ
lớn bằng trời đất. Song thế, trời đất từ đâu sinh ra? Đạo
sinh ra trời đất, mà Thái-cực là toàn thể cuả Đạo. Thái-cực
sinh lưỡng-nghi. Lưỡng-nghi là h́nh đă dời ra. Lưỡng-nghi
sinh tứ-tượng, tứ-tượng sinh mà sau đạo cuả trời đất đầy đủ
vậy. Đạo sinh nhất, nhất là Thái-cực. Nhất sinh nhị, nhị là
lưỡng-nghi. Nhị sinh tứ, tứ là tứ-tượng. Tứ sinh bát, bát là
bát-quái. Bát sinh lục thập tứ, lục thập tứ đầy đủ, mà sau
đó đạo cuả trời đất vạn-vật hoàn-bị. Trời đất vạn-vật, không
ǵ là không lấy nhất làm gốc. Nguyên từ gốc mà diễn thành
vạn. Tận cùng số cuả thiên-hạ. Lại trở về nhất. Nhất là ǵ?
Là tâm cuả thiên-hạ, là căn-nguyên cuả tạo-hoá. Hoàn bị
thiên-hạ cùng vạn-vật mà hợp đức nơi Thái-cực. Duy chỉ có
con người. Bách-tính là hằng ngày dùng mà chẳng biết. Phản
thân mà chân thành là Khổng-tử. Nhân tính mà thành-công là
thánh-nhân. Nên thánh-nhân lầy trời đất làm một thể, vạn-vật
làm một thân. Thiện cứu mà chẳng vứt bỏ. Uốn nắn mà chẳng
sót. Đă thành mà năng trúng. Trời có chí-tuư, đất có
chí-tinh, con người có được loại, ắt là minh-triết. Loài
chim được đó, ắt làm phượng-hoàng. Muông thú được đó, ắt làm
kỳ-lân. Loài có vẩy được đó, ắt làm quy-long. Loài cỏ được
đó, ắt làm chi lan. Cây cối được đó, ắt làm tùng-bách. Loài
đá được đó, ắt làm vàng ngọc. Vạn-vật chẳng có ǵ là không
lấy loài mà được. Cho
nên đời trí-thế người hiền đông đảo.
Quy-long nhởn nhơ bơi lội nơi hồ ao. Phượng-hoàng bay liêng
nơi tiền-đ́nh. Trời giáng cam-lộ. Đất trồi suối nước ngọt.
Bách-cốc dùng đủ, cỏ cây um tùm. Đó là nhờ ứng thuận-khí
vậy. Đời suy-loạn ắt trái ngược. Đó là bị ứng nghịch-khí
vậy. Lớn lao thay thời với sự. Thời là trời. Sự là người.
Thời động mà sự dấy lên. Trời vận-hành mà người nương theo,
như h́nh đi mà bóng đi theo sát. Xây đắp mà hưởng-ứng. Hành
theo thời mà chẳng đ́nh-trệ. Trời vận-hành không ngừng. Trái
ắt hại, nghịch ắt hung. Thánh-nhân đi song song với trời mà
chẳng nghịch, xuôi theo thời mà chẳng trái. Thời không thể
trái trời, vật không thể trái thời, thánh-nhân không thể
trái vật. Duy không thể trái vật, nên trời không thể trái
thánh-nhân. Đó là để 'làm trước trời mà trới không trái ư,
làm sau trời mà theo đúng ư trời' (Kiền, Văn Ngôn 30).
Thiên-thời noi theo nhân-sự, nhân-sự noi theo thiên-thời.
Thiên-thời noi theo nhân-sự, nhân-sự noi theo thiên-thời.
Cho nên trời có thời ấy, ắt người có sự ấy. Người có sự ấy,
ắt trời có thời ấy. Dấy sự lên mà ứng thời là chỉ con người
mới làm được. Có thời mà không có người, ắt thời không đủ để
ứng. Có người mà không có thời, ắt sự không đủ để dấy lên.
Có người mà không có thời, việc ấy đă từng xẩy ra. Có thời
mà không có người, việc ấy chưa từng xẩy ra. Nên tiêu-tức
doanh-hư là thời cuả trời. Trị-loạn, hưng-phế là sự việc cuả
người. Có tiêu-tức doanh-hư, rồi sau mới có xuân, hạ, thu,
đông. Có trị-loạn, hưng-phế, rồi sau mới có hoàng, đế,
vương, bá. Nghiêu-Thuấn dựng lên ở trung-thiên. Nghiêu-Thuấn
ứng vận mà sinh. Thiên-thời nhân-sự tương-nghiệm sao? Trước
đấy, ắt chưa tới; sau đấy, ắt không thể chuộng được, tựa như
muà hè sẽ đến, mặt trời hướng trung. Nên thánh-nhân san thư,
lược bỏ sự việc sau thời Đường-Ngu, bởi v́ thời đó
thịnh-trị. Tu kinh khởi từ đời Chu B́nh-vương, v́ đời đó đạo
đă suy rồi. Nên thánh-nhân e sợ. Lấy 242 năm mà buộc vào
phép cuả muôn đời. Phép là ǵ? Là đại-luân quân-thần,
phụ-tử, phu-phụ. Xuân thu có thiên-đạo, có điạ-đạo, có
nhân-đạo. Vương-giả mai-cử mà dùng. Ắt công cuả Đế-vương, há
khó đến cùng sao?
Dưới đây xin trích-dẫn hai đoạn văn đầy ư nghiă cuả Sái
Nguyên-Định rút từ sách
Hoàng-cực Kinh-Thế Tự-Ngôn
皇極經世緒緒言
(299,
tr. 20-22):
Cái học cuả Khang-tiết, tuy tác-dụng có khác nhau, kỳ thực
đều là hoạch quáicuả Phục-Hi. Tŕnh Minh-Đạo (Tŕnh-Hạo) gọi là 'Gia Nhất Bội
Pháp'. Thửa sách lấy 'Nhật Nguyệt Tinh Thần', 'Thủy Hoả Thổ
Thạch' mà khai-thác triệt để thể-dụng cuả trời đất, lấy 'Hàn
Thử Trú Dạ', 'Phong Vũ Lộ Lôi' mà khai-thác triệt để
biến-hoá cuả trời đất, lấy 'Tính T́nh H́nh Thể', 'Tẩu Phi
Thảo Mộc' mà khai-thác triệt để cảm-ứng cuả muôn vật, lấy
'Nguyên Hội Vận Thế', 'Niên Nguyệt Nhật Thời' mà khai-thác
triệt để chung-thủy cuả trời đất, lấy 'Hoàng Đế Vương Bá',
'Dịch Thư Thi Xuân-Thu' mà khai-thác triệt để sự-nghiệp cuả
thánh-hiền. Từ Hán-Tần đến giờ chỉ có mỗi nhân-vật này mà
thôi.
Khi luận Kinh-Thế Thiên-Điạ Tứ-Tượng Đồ, Họ Sái viết:
Cái ǵ động là trời, trời có âm-dương. Trong âm-dương lại có
âm-dương. Nên nói: Thái-dương, Thái âm, Thiếu-dương,
Thiếu-âm. Thái-dương là mặt trời, Thái-âm là mặt trăng,
Thiếu-dương là sao, Thiếu-âm là Thần. Đó là tứ-tượng cuả
trời. Nhật là thử, Nguyệt là hàn, Tinh là ban ngày, Thần là
ban đêm. Bốn cái đó là do biến cuả đất. Thử biến tính cuả
vật, hàn biến t́nh cuả vật, ban ngày biến h́nh cuả vật, ban
đêm biến thể cuả vật.
Cái ǵ tĩnh là đất, đất có cương-nhu. Trong một nhu lại có
cương-nhu. Nên nói: Thái-cương, Thái-nhu, Thiếu-cương,
Thiếu-nhu. Thái-nhu là thủy, Thái-cương là Hoả, Thiếu-nhu là
thổ, Thiếu-cương là Thạch. Đó là tứ-tượng cuả đất. Thủy là
vũ, Hoả là Phong, Thổ là Lộ, Thạch là Lôi. Bốn cái đó là do
đất hoá ra. Vũ hoá tẩu cuả vật. Phong hoá phi cuả vật. Lộ
hoá thảo cuả vật. Lôi hoá mộc cuả vật. Muôn vật sở dĩ ứng
nơi hoá cuả đất. Thử biến tính cuả 'Tẩu Phi Thảo Mộc'. Hàn
biến t́nh cuả 'Tẩu Phi Thảo Mộc'. Trú biến h́nh cuả 'Tẩu Phi
Thảo Mộc'. Dạ biến thể cuả 'Tẩu Phi Thảo Mộc'. Vũ hoá tẩu
(động-vật) cuả 'Tính T́nh H́nh Thể', phong hoá phi (loài
chim) cuả 'Tính T́nh H́nh Thể', lộ hoá thảo (cây cỏ) cuả
'Tính T́nh H́nh Thể', lôi hoá mộc (cây cối) cuả 'Tính T́nh
H́nh Thể'). Trời đất biến-hoá, tham-ngũ, thác-tổng mà sinh
ra vạn-vật. Vạn-vật cảm nơi biến cuả trời. Tính là
thiện-mục, t́nh là thiện-nhĩ, h́nh là thện-tị, thể là
thiện-khẩu. Vạn-vật ứng nơi hoá cuả đất. Phi là thiện-sắc.
Tẩu là thiện-thanh. Thủy là thiện-khí. Thảo là thiện-vị. Vậy
nên thửa cảm-ứng không giống nhau. Cho nên thửa sở thiện có
khác. Đến như con người ắt được vẹn toàn cuả trời đất. 'Thử
Hàn Trú Dạ' không ǵ là chẳng biến. 'Vũ Phong Lộ Lôi' không
ǵ là chẳng hoá. ''Tính T́nh H́nh Thể' không ǵ là chẳng
cảm. 'Tẩu Phi Thảo Mộc' không ǵ là chẳng ứng. Mắt là thiện
sắc cuả vạn-vật. Tai là thiện thanh cuả vạn-vật. Mũi là
thiện khí cuả vạn-vật. Miệng là thiện vị cuả vạn-vật. Bởi
chưng thiên-điạ, vạn-vật chẳng qua chỉ là phân-loại cuả
âm-dương, cương-nhu. Con người ắt đồng-thời kiêm gồm cả bốn
âm-dương, cương-nhu, nên linh hơn vạn-vật và năng tham-dự
vào trời đất. Cho nên biến cuả trời đất có 'Nguyên Hội Vận
Thế'
mà biến cuả nhân-sự
cũng có
'Hoàng Đế Vương Bá'. 'Nguyên Hội Vận Thế'
có 'Xuân Hạ Thu Đông' nhờ 'Sinh Trưởng Thâu Tàng'. 'Hoàng Đế
Vương Bá' có 'Dịch Thư Thi Xuân-Thu' nhờ 'Đạo Đức Công Lực'.
Các thứ nương tựa nhau mà thành ra 16. Tứ-tượng nương tựa
nhau mà thành ra số vậy. Phàm biến-hoá cuả trời đất, cảm-ứng
cuả vạn-vật, thay đổi, thêm bớt cuả cổ-kim chẳng ǵ vượt
khỏi số 16. Con số này là kết cuộc cuả trời đất. Nên vật dù
lớn dù nhỏ, dân đen dù thánh dù ngu, nhất nhất đều lấy
bốn con số 1, 10, 100, 1000 nương tựa nhau mà làm ra 16. Bởi
chưng con người là tối-linh trong vạn-vật, thánh-nhân là
chí-cực trong nhân-luân. Đứng ở vị-thế trời đất mà quan-sát
vạn-vật, ắt vạn-vật là vạn-vật. Đứng ở vị-thế Thái-cực mà
quan-sát trời đất, ắt trời đất chỉ là vật. Con người nếu
hiểu thấu được đạo cuả Thái-cực ắt năng làm khuôn mẫu cho
trời đất, uốn nắn nên muôn vật, mà tạo-hoá ở nơi thân ta.
Nên có thuyết rằng: một động, một tĩnh, trời đất chí diệu
thay! Trong khoảng 'một động, một tĩnh', thiên-điạ-nhân chí
diệu thay! Khoảng giữa 'một động, một tĩnh', không động,
không tĩnh mà chủ nơi động-tĩnh. Chính là cái ta gọi là
Thái-cực. Lại nói: tư-lự chưa máy động, quỷ thần chưa hay
biết. Không do nơi ta, th́ do nơi ai? Đó chính là cái ta
gọi là 'làm khuôn mẫu cho trời đất, uốn nắn nên muôn vật, mà
tạo-hoá ở nơi thân ta'. Bởi chưng, siêu nơi h́nh-khí, không
dùng số th́ không bắt kịp. Tuy nhiên cũng là số. Y-Xuyên
Tiên-sinh (Tŕnh Di) nói: số-học đến thời Khang-tiết mới đạt
được lư. Số cuả Khang-tiết, tiên-sinh chưa học tới. Đến như
thửa bản-nguyên, ắt không xuất-xứ từ thuyết cuả Tiên-sinh.
Lại nói: Vận cuả một nguyên trong Hoàng-cực khỏi từ ngày
giáp, tháng tư, tinh giáp, thần tư, há chẳng phải là
đặc-dụng của lịch-số sao? Một dương chớm động, muôn vật chưa
sinh, là thánh-nhân sở dĩ thấy tâm cuả trời đất. Lại lấy để
'làm khuôn mẫu cho trời đất, uốn nắn nên muôn vật vậy.
Trong thiên "Lục-thập-tứ quái phương-viên-đồ thuyết",
Thiệu-Bá-Ôn, con Ngài, có thuật lại lời thân-phụ ḿnh :
"Thánh-nhân trên thế-gian, mỗi người đều có Dịch cuả riêng
ḿnh, tác dụng có khác nhau nhưng Đạo chỉ là một. Dịch như
ta thấy ngày nay là Dịch của Chu Văn-vương, nên mới gọi là
Chu-Dịch. Dịch của Phục-Hi, Hoàng-đế chỉ có quẻ, có vạch mà
không có văn-tự, không có lời nói. Do đó, trong Dịch-truyện,
Khổng-tử thực-thuật lại Dịch Tiên-thiên này. Tṛn là trời;
vuông là đất. Lư của trời đất đều từ đó mà ra cả".
(上
世 聖 人 皆 有 易。作 用 不 同。其 道 一 也。今 之 易 經。文 王 之 易 也。故 謂 之 曰 周 易。伏
羲
之 易 無 文 字 語 言 獨 有 卦 畫 次 字 而 已。孔 子 於 繫 辭 實 述 之 矣。圓 者 為 天。方 者
為 地。天 地 之 理 皆 在 是 矣。).
Nên ta có thể bảo Dịch-truyện
là Khổng-Dịch. Thiệu-tử cho rằng Lăo-tử biết thể của Dịch,
Mạnh-tử biết dụng của Dịch. Vậy th́ Hoàng-cực Kinh-thế là
Dịch của Ngài viết ra cốt để làm sáng tỏ Đạo.
Có người hỏi tại sao không gọi HCKT là Dịch? Phàm Dịch vốn
dĩ đă vô thể nên chỉ cốt biểu-thị Dụng của Đạo. Chủ-đích của
Thiệu-tử khi viết HCKT là để biểu-đạt cả thể lẫn dụng của
Đạo cho người đời sau dễ lĩnh-hội. Trong bài "Kinh Thế
tứ-tượng thể-dụng chi số đồ-thuyết", Thiệu Bá-Ôn thường bảo:
"Rất lớn gọi là Hoàng, rất Trung gọi là Cực, rất chính gọi
là Kinh, rất biến gọi là Thế. Đại Trung Chí Chính, ứng biến
vô phương gọi là Đạo" (至
大
之
謂
皇。至
中
之
謂
極。至
正
之
謂
經。至
變
之
謂
世。大
中
至
正。應
變
無
方
之
謂
道。)
. Ông c̣n nói thêm :
"Đạo biến làm vật, vật hoá ra Đạo. Do đó mới biết Đạo cũng
là vật mà vật cũng là Đạo vậy". (道
變
而
為
物。物
化
而
為
道。由
是
知
道
亦
物
也。物
亦
道
也。).
Và : "Đạo sinh trời đất, mà Thái-cực là tồn-thể của Đạo vậy.
Thái-cực sinh lưỡng-nghi, mà lưỡng-nghi là h́nh đă chia ra
rồi. Lưỡng-nghi sinh tứ-tượng. Tứ-tượng sinh, mà sau đó Đạo
trời đất hoàn-bị chăng?". (道
生
天
地。而
太
極
者,道
之
全
體
也。太
極
生
兩
儀。兩
儀
形
之
判
也。兩
儀
生
四
象。四
象
生。而
後
天
地
之
道
備
矣。)
.
Phỏng theo lời Thiệu-tử: “Vật không ǵ lớn bằng trời đất,
trời đất sinh ra từ Thái-cực. Thái-cực tức thị tâm ta,
Thái-cực sinh ra vạn-hữu, vạn-sự, tức là vạn-hữu vạn-sự của
tâm ta vậy.” (物
莫
大
于
天
地,天
地
生
于
太
極。太
極
即
是
吾
心,太
極
所生
之
萬
化
萬
事?
即
吾
心
之
萬
化
萬
事
也。Vật
mạc đại vu Thiên Điạ, Thiên Điạ sinh vu Thái-cực. Thái-cực
tức thị ngô tâm, Thái-cực sở sinh chi vạn-hoá, vạn-sự tức
ngô tâm chi vạn-hoá, vạn-sự đấy.), hay lời của Lục
Tượng-Sơn:
"Vũ-trụ
chính là tâm ta,
tâm ta tức là vũ-trụ. (宇
宙
便
是
吾
心,吾
心
即
是
宇。
Vũ-trụ tiện thị ngô tâm, ngô tâm tiện thị vũ-trụ)", hay hèn
lẽ cũng xin thưa:
Trời Đất là Tâm Ta,
Tâm Ta là Trời Đất.
Chu Dịch cực nguy-nga,
Duy-biến và duy-nhất.
Trong “Kích-nhưỡng-tập
擊
壤
集”,
Thiệu–tử đă minh-họa Thiên-tâm bằng quẻ Phục, một cách
tài-t́nh (đọc theo cột từ phải qua trái):
更
此
太
玄
萬
一
天
冬
請
言
音
酒
物
陽
心
至
問
如
聲
味
未
初
无
子
包
不
正
方
生
動
改
之
羲
信
希
淡
時
處
移
半
Phiên-âm:
Đông-chí tư chi bán,
Thiên-tâm vô cải-di.
Nhất dương sơ-động xứ,
Vạn-vật vị khai th́.
Huyền-tửu vị phương
đạm;
Thái-âm thanh chính
hi.
Thử ngôn như bất tín,
Cánh thỉnh vấn
Bào-hi.
Chuyển-ngữ-ư:
Đông-chí
giữa giờ tư,
Thiên-tâm vốn bất-di.
Một dương vừa máy động,
Muôn vật dợm sinh-kỳ.
Huyền-tửu vị c̣n nhạt;
Thái-âm thinh vi ti.
Như chẳng tin lời đó,
Xin hỏi thẳng Bào-hi.
*
* *
Xem
Kỳ
134
GS
Nguyễn
Hữu
Quang
Nguyên
Giảng Viên Vật Lư Chuyên về Cơ Học Định Đề
(Axiomatic Mechanics, a branch of
Theoretical Physics)
tại Đại Học Khoa Học Sài G̣n trước năm 1975
www.ninh-hoa.com |
|