|
HÁN
VIỆT
DỊCH
SỬ
LƯỢC
GS
Nguyễn
Hữu
Quang
Nguyên
Giảng Viên Vật Lư Chuyên về Cơ Học Định Đề
(Axiomatic Mechanics, a branch of
Theoretical Physics)
tại Đại Học Khoa Học Sài G̣n trước năm 1975
CHƯƠNG 11
NGỤY, TẤN, LỤC-TRIỀU DỊCH
魏,晉,六
朝
易
(Tiếp theo Kỳ 127)
Thống-Ngôn Dịch-Nghiă
Kiền-Khôn là cửa ngơ cuả Dịch. Nếu Kiền-Khôn hủy-diệt th́
không c̣n thấy Dịch nữa (cho nên nói về Dịch, tất trước tiên
tường-thuật Kiền-Khôn). Dịch biến-động giữa Kiền-Khôn (chỉ
biến-động ắt kêu là Dịch). Trời là biến-động, là dương, là
cương. Phối-hợp với đất ắt biến (có đất ắt biện trời, nên
bảo là biến). Đất là tĩnh, là âm, là nhu, thuận theo trời mà
hành (hành cũng là biến). Hành mà biến, biến mà thông, cái
đó gọi là Dịch. Khổng-tử nói:
"Động-tĩnh hữu thường, cương nhu đoán hỹ. Phương dĩ loại tụ,
vật dĩ quần phân, cát hung sinh hỹ. = Động tĩnh có thường
th́ lẽ cứng mềm đă quyết-đoán vậy. Loài tụ lại từng phương,
vật chia thành từng bầy, th́ sự lành dữ đă sinh ra vậy"
(Hệ-Thượng I/1).
Dịch bắt đầu bằng động tĩnh, kết-thúc bằng lành dữ. Sở dĩ
Thánh-nhân biết trước rồi mới hành đạo. Đạo không trống
rỗng, hành-động c̣n trong con người (Đạo điều-lư cái Đạo
thiên-hạ). "Cho nên dựng đạo trời là âm với dương, dựng đạo
đất là cứng với mềm, dựng đạo người là nhân với nghiă"
(Thuyết-Quái II/1). Thi-hành ắt là ba (tam-tài), biến mà
thông ắt chỉ là một (nhất-quán). Khổng-tử nói: "Nhất trí nhi
bách lự = Một sự xẩy đến mà trăm điều nghĩ" (Hệ-Hạ V/1).
Câu này nghiă là tam-tài, ngũ thường tham-đồng mà dùng. Dùng
trong quá-khứ th́ gọi là biến, dùng cho tương-lai th́ gọi là
bói (Bói Dịch cuả họ Quan cực biến). Quan-sát thửa biến,
cực-đại (maximize) thửa số, biết thửa lại thụ-mênh chẳng qua
chỉ là âm-hưởng cuả thần hai quẻ Kiền-Khôn (Cực số cùng thần
mới đáng gọi là Dịch). Ôi! Dịch cực-đại nơi thần (Chưa thông
thần ắt chưa biết Dịch). Khổng-tử nói: "Thi chi đức viên,
Đức cỏ thi tṛn mà thần-diệu, đức quẻ bói vuông để biết.
Thần để biết việc sau, trí để chứa nhớ việc trước"
(Hệ-Thượng XI/2).
Bởi vậy biết để mà bắt kịp (Ư nói: biết không khó mấy, chứa
nhớ mới là khó. Chứa nhớ có nghiă là: rất sâu kín, uẩn-áo,
ẩn vào nơi kín-đáo). Không phải là bậc chí-thánh, không phải
là thần, thi có ai mà làm việc ấy được (Duy thánh thần mới
tàng-dụng được). Cỏ thi lấy số mà suy, quẻ lấy tượng mà báo
(Thi-số nơi tṛn, quẻ định nơi vuông). Số chủ nơi động,
tượng chủ nơi tĩnh (Sự định ắt lành). Động nói nơi xa, nên
có thể biết tương-lai, tĩnh nói nơi gần nên có thể chứa nhớ.
Chỗ tương-lai, dĩ văng giao-tế chính là chỗ thuận-nghịch. Sơ
dĩ cát hung biết trước được (Giao-tế chính là biến-xứ, biến
cát, biên hung. Sở dĩ Dịch tiên-tri). Biến-hoá sở dĩ hội-hợp
(Tổng-hợp quần-biến để hội nơi nhất, ắt thánh-nhân nhân đó
mà ngự đại-khí, đó là cái mà ta gọi là thiên nhân hợp-ứng
vậy. Duy có Kiền–Khôn đàm đương được). Số hội bên trên,
tượng hội bên dưới (Số ắt là thiên-mệnh, tượtng ắt là
nhân-sự). Thiên-nhân tương dữ quả là thâm-vi (Đổng Trọng-Thư
nói : Chỗ thiên nhân tương dữ giao-tiếp thật là đáng sợ. Họ
Quan bảo là thâm-vi cũng đáng sợ. Đó là nhắc nhở chúng ta
nên thận-trọng).
Thời Biến Nghiă
Quẻ để bảo-tồn thời, hào để biểu-thị biến. Thời liên-hệ với
trời, biến do nơi người (Vương-Bật nói: Lấy hào làm người,
lấy vị làm thời. Nay nghiă cuả họ Quan tương-tự. Thiên nhân
tương tu, không thể khác nhau được. Quẻ nhờ hào mà thành,
thời lấy biến mà sinh. Tuy nói là thiên-thời, nhân-sự, nhưng
thửa biến ắt hội-hợp thành một).
Ban ngày động sáu giờ. Ban đêm tĩnh sáu giờ. Động ắt biến,
tĩnh ắt nghỉ ngơi. Nghỉ ngơi cực-đại ắt biến. Biến cực-đại
ắt nghỉ ngơi. Cho nên động-tĩnh giao-dưỡng, đó là đạo cuả
ngày đêm (Ngày, đêm, thời tương-biến). Kiên-Khôn phân ngày,
đêm, thời vậy (Ban ngày sáu giờ thuộc dương nên bảo là Kiền,
Ban đêm sáu giờ thuộc âm nên bảo là Khôn). Truân-Tế là ở
ranh giới cuả thời-biến (Thời chưa động gọi là Truân, thời
đă tĩnh gọi là Kư-tế. Cho nên Kiền-Khôn phân-thời, Truân-Tế
giao-biến). Cái dụng cuả sáu-sáu là chu-lưu cuả thời-biến
(Dịch nói: "Biến động bất cư, chu-lưu lục-hư = Biến-động chứ
không ở yên, đi ṿng quanh sáu cơi" Hệ-Hạ VIII/1. Hơn cả, đó
cũng là nghiă cuả sáu giờ). Ấy là lấy 60 quẻ, tuần-hoàn
tương-sinh. Cực đại ắt biến, biến ắt lâu bền, không thể
chế-ngự được (Dịch nói: "Dịch cùng ắt biến, biến ắt thông,
thông ắt cửu" Hệ-Hạ VIII/1. Lại nói: "Dĩ ngôn hồ viễn tắc
bất ngự = Như nói về xa th́ đạo ấy không bị ngăn lại"
Hệ-Thượng VI/1). Bốn quẻ Kiền-Khôn-Truân-Tế này là cửa ngơ
cuả thời-gian, biến ắt mở đóng (Kiền-Khôn phân thời như cửa
ngơ không dời chỗ, Truân-Tế thị-biến như cửa ngơ mở đóng,
thủy chung bắt kịp nhau). Cho nên 360 biến (tận dạ cuả một
năm), 360 hào (trừ bốn quẻ làm cửa ngơ, công-dụng mở đóng
chỉ c̣n 360 quẻ mà thôi, đó chính là chu-lưu lục-hư nói bên
trên). Tác-giả Kinh Dịch chẳng qua là thừa thời thế bắt
chước biến-hoá mà thôi.
Trọng-ni tự-quái tương sinh,
C̣n như tạp-quái bàng hành bất lưu.
(60 tự-quái tuần-hoàn thành thứ-tự quanh một năm, tạp-quái
bàng-hành một chiều, nên không phục-chu-lưu). Tương-sinh là
ban ngày, bất-lưu là ban đêm (Trùng-điệp lư-giải thượng-văn
là muốn nhấn mạnh điểm: ban ngày là động. Cho nên tương-sinh
là dạ tĩnh). Nghiă cua thời-biến chỉ như thế mà thôi (nghiă
là ngày đêm cứ sáu-sáu mà biến).
Tạp Nghiă
Hệ-Hạ IX/1
nói : "Lục hào tương tạp duy kỳ thời vật dă = Sáu hào cùng
lẫn lộn, đó là sự vật cuả từng lúc". Người quân-tử dùng
thời, kẻ tiểu-nhân dùng vật. Dịch-đạo đầy đủ vậy (Cùng
lẫn-lộn là bảo quân-tử tiểu-nhân cùng ở trong một quẻ. Dụng
thời là bảo biến-hoá thích-thời, ắt công-dụng không ǵ là
chẳng lợi. Dụng vâỵ là bảo mọi vật đều thích-t́nh, tuy trái
thời tất cũng biến. Trời đất, muôn vật, hiền ngu tuy khác
nhau, mà tránh trời không khỏi Dịch, nên mới bảo là đầy đủ).
Truân lục-biến mà thành Tỷ, Tỷ lục-biến mà thành Đồng-nhân,
Đồng-nhân lục-biến thành Cổ, Cổ lục-biến mà thành Bác, Bác
lục-biến mà thành Đại-quá, Đại-quá lục-biến mà thành Độn,
Độn lục-biến mà thành Khuê, Khuê lục-biến mà thành Quyết,
Quyết lục-biến mà thành Tỉnh, Tỉnh lục-biến mà thành Tiệm,
Tiệm lục-biến mà thành Đoài, Đoài lục-biến mà thành Kư-tế,
chấm dứt chuỗi lục-biến [Dịch đời nay đến Vị-tế mới chấm dứt
mà họ Quan nơi đây cho Kư-tế là chung cuộc, bởi v́ Vị-tế bắt
qua quẻ Truân. Trời đất chưa giao, Khảm-Ly chưa tiếp-nối là
Vị-tế. Trời đất bắt đầu gian-truân, vân-lôi mới gặp nhau,
rồi sau mới có Truân. Nên ta mới hiểu tại sao, Văn-Vương,
Trọng-ni mới kết thúc Kinh Dịch bằng thời Vị-tế. Ôi! Nghiă
kư là nghiă tận, là tế đă chấm dứt sáu-sáu mà chưa hiểu biến
là ǵ]. Khi trời đất cọ sát nhau mà kêu lên tương-kích để
thành h́nh (Phàm kêu lên có nghiă là : khi công-kích nhau mà
hiện h́nh ra ngoài). Hành-động con người, kêu nơi lời, h́nh
nơi văn. Được thửa đạo ắt cát, mất thửa lư ắt hung. Lời nói
thành văn là từ. Nên nói : biện cát hung bảo-tồn nơi từ (Hào
có hiểm-dị, từ mỗi mỗi có công-dụng cuả chúng). Kiền-Khôn là
chủ cuả sáu quẻ con. Dùng sáu quẻ, ắt Kiền-Khôn dùng làm ǵ?
(Bát-quái trí-dụng chỉ có sáu). Nên Nghiêu-Thuấn rủ xiêm áo
mà thiên-hạ trị. Lục-quan dùng ta làm vô-vi (Cắt nghiă
Nghiêu-Thuấn thủ hai quẻ Kiền-Khôn). Tiểu-quá dùng trong
một thời-kỳ; Đại-quá dùng trong suốt đời người (Câu này
xiển-minh nghiă cuả tiểu-đại). Tỷ như chày cối chỉ dùng giă
gạo trong một thời-kỳ. Luá không có ở cối hoài hoài (Rường
cột mới ở suốt đời). Quẻ Dự là đầy đủ vậy. Vật đầy đủ, không
lo khi cần dùng, sự pḥng-bị không lo về lư lẽ. Không lo ắt
vui. Cho nên Tạp-quái-truyện nói : Dự lạc (quẻ Dự vui).
Không lo ắt vui, có thể hiểu được [Biết được nhân-sự do khéo
điều-lư]. Truân muôn vật sinh ra vậy. Vật sinh ra, không
giống nào là không gian-truân (Động-vật thai noăn, thực-vật
câu-khuất. Khi vật sơ-sinh, không khi nào là không truân
nạn). Thành sự không khi nào là không gian-nan (Không
gian-nan mà thành được, nên khi đă thành rồi, không phải là
công, nên đă thành, người khác không hiểu là tại sao). Nhu
là tu. Thửa tu không ǵ lớn bằng ăn uống, nên nhu là dưỡng.
Đối với con người nhu là nhu-cầu cấp-thiết. Thể quẻ Tiểu-quá
cung-cấp nghiă cho các hào (Lời buộc quẻ Tiểu-súc nói : Mây
kín không mưa, tự cơi đất phiá tây, ở ngoài thành cuả ta.
Hào-từ lục-ngũ quẻ Tiểu-quá cũng nói y hệt. Ông bắn con vật
nơi huyệt, nghiă giống nhau). Tiểu cuả Tiểu-súc và tiểu cuả
Tiểu-quá chỉ là một, chỉ 'súc' và 'quá' là khác thời thôi
(Thời có thể xúc quá, các quẻ khác cứ phỏng theo như thế mà
bàn).
Bài tập:
Lập luận tương-tự cho Đại-súc và Đại-quá.
Lâm là lớn. Lâm đến đâu, lớn đến đó. Bàn dân thiên-hạ
tôn-thờ, không ai là không tôn-thờ rất lớn (Điều đó chủ quẻ
thống-nhất thiên-hạ). Nên nói là: hết ḷng tiến tới bảo là
không ǵ là chẳng tới vậy (Đạo không ai là chẳng tới, đời
không ai là chẳng tôn). Bắt đầu thịnh là do nơi suy mà tăng
lên; bắt đầu suy là do nơi thịnh bắt đầu giảm (Như nghèo hèn
mà được một trăm lạng vàng, được lộc cửu-phẩm, ăt thịnh vậy.
Vô-h́nh trung, trong suy mà được thêm. Giầu sang mất muôn
lạng vàng, bị truất lộc nhất-phẩm, ắt là suy rồi). Tựu
trung, trong thịnh mà bị tổn-hại là h́nh-thế giống nhau. Cho
nên tổn-ích là bắt đầu cuả thịnh-suy (Nói giầu sang, nghèo
hèn, tại suy mới thịnh, mới giác-ngộ phân-biệt tự-nhiên, âu
lo ḷng người). Thánh-nhân lấy thi-hành đó trong điển-lễ,
suy ra thời-vận tất khiến cứu giúp suy, cảnh-giới thịnh
trong nhờn dễ vậy [Hệ-Hạ XI/3 nói: Nguy thời làm cho
b́nh-yên (đó là cứu suy vậy), nhờn dễ th́ làm cho sụp đổ (đó
là giới tghịnh vậy). Quái-hào nhị-ngũ cư trung, ít hối lẫn.
nên lễ là cửa ngơ cuả hoàng-cực. Không vật ǵ là không ra
lối cửa]. Nhà Ân nhân lễ cuả Nhà Hạ mà tăng-giảm, có thể
biết được. Nhà Chu nhân lễ cuả Nhà Thương mà tăng-giảm, có
thể biết được (Nhà Hạ chuộng trung, chí-trung ắt ít kính.
Nên Nhà Ân chuộng kính, ưu-tiên công, tệ-hại ắt văn-cứu. Vận
suy ắt thịnh sắp tới. Chí-kính ắt bất-văn. Nên Nhà Chu
chuộng văn cũng văn-cứu được tệ-chính cuả Nhà Ân. Ôi! Văn là
hoà. Hoà là thái quá ắt hủy-hoại hăm không kịp, nên cục-súc,
là lấy tuần-hoàn tương-cứu làm lễ vậy. Ba mươi năm là một
thế, một trăm thế là ba ngàn năm. Điều đó nói là điển-lễ
tam-vương có thể suy ra thời-vận được). Nên Nhà Hạ lấy đức
kim cai trị được hơn 400 năm, Nhà Ân lấy thủy-đức cai-trị
được hơn 600 năm, Nhà Chu lấy môc-đức cai-trị được hơn 800
năm, được thửa đạo vậy. Tránh trời không khỏi số. (Sinh-số
cuả kim là 4, thành-số là 9, sinh-số cuả thủy là 1, thành-số
là 6, sinh-số cuả mỗc là 3, thành-số là 8, Nhà Hạ được
sinh-số, Nhà Chu, Nhà Ân được thành-số, nên không tránh khỏi
400, 600, 800 năm, đó là lẽ sở dĩ nhiên lễ được-thời vậy.
Vua các đời sau không ứng số được là v́ lễ không hoạt-động
bên trong Dịch (Hệ-từ bảo : Thi-hành điển-lễ là minh-định
đạo 'tương-nhân, tương-ích'. Vua các đời sau như Hán, Tấn
trở về sau, tuy thành chính-thống mà không bằng vĩnh-cửu cuả
Tam-đại, bởi v́ không điêu-động trọn điển-lễ như thuần-ư cuả
Tam-đại nên nói như thế). Mông-muội là thửa đạo cầu nơi minh
(ám là cầu minh, muội là cầu hiền). Minh-di cũng là muội,
không phải là bất-minh, bởi vậy làm tổn-thương (Đều gọi là
muội nhưng kỳ thực khác nhau). Hàm là trời đất giao nhau.
Hằng là trời đất lâu dài. Con người không giao mà cũng chẳng
vĩnh-cửu, nên Hàm-Hằng thống-ngự đạo làm người (Phàm con
người tương-giao được thửa đạo, ắt lâu dài, mà không
khai-giao, th́ không lấy đạo phi-giao vậy. Nên không lâu
dài. Hạ-Kinh lấy Hàm-Hằng làm đầu mối, sở dĩ thống-ngự được
thửa đạo). Thành công cuả trời đất (Giao-tu-đạo ấy bền lâu,
bèn thành-công). Ắt đổi mới. Biến không có ǵ là chẳng động
(Động ắt quan-sát thửa biến). Chấn là động. Động không có ǵ
là chẳng ngừng (H́nh thao chuộng tĩnh). Cấn là ngừng, ngừng
mà không tiệm-tiến. Mupôn vật không có ǵ là chẳng tiệm tiến
đến thánh-nhân cả (Tiệm tiến như bốn muà không có bạo-hàn,
đột-nhiệt chăng? Cổ-nhân vô-vi mà trị, trăm họ dùng hằng
ngày mà không biết 'tiệm' là ǵ). Luận-ngữ VIII/9 nói: "Dân
khả sử do chi, bất khả sử tri chi = Có thể khiến dân làm
theo chính-lệnh, không thể khiến dân hiểu thấu ư-nghiă
chính-lệnh").
Lấy thửa âm nhu, h́nh bên ngoài cuả Tốn phục vậy. Lấy thửa
âm nhu uẩn-súc bên trong (Đoài am-hào ở trên là h́nh bên
ngoài; Tốn âm-hào ở dưới là uẩn-súc bên trong. Con người vui
vẻ tất h́nh-dung, khiêm-tốn tất lấy thường-lư âm-dương
uẩn-súc). Vô-vơng mà gặp nạn là tai-nạn vậy. Hữu-vơng mà
gặp nạn, ắt nên trừ nạn. Hiểu bên ngoài là vật tự-cứu, nên
nói Khuê ngoài (Ly ở trên là minh ngoại). Phàm con người
năng minh-ngoại, ắt không cẩu-hợp, nên bảo là Khuê minh bên
trong là tự tề-gia. Nên bảo Gia-nhân là bên trong (Minh ở
dưới là minh-nội. Phàm con người năng minh-nội, ắt không
loạn-hành). Quân-tử Thái, ắt tiểu-nhân Bĩ, tiểu-nhân Thái,
ắt Quân-tử Bĩ. Nên nói: "Bĩ Thái, phản kỳ loại dă = Bĩ-Thái
th́ hai thứ đều trái ngược với nhau" (Tạp-quái-truyện)
[Quân-tử lấy quân-tử làm loại, tiểu-nhân lấy tiểu-nhân làm
loại. Bĩ-Thái tương-phản]. Đúng lư đấy, mà không xử-sự như
Chu-Công ru? Nhu mà tiến như Trọng-ni ru? [Đoạn này lư-giải
lời buộc quẻ Lư, nhân nhân-sự mà hiểu rơ Chu-Công
nhiếp-chính mà không xử-lư, Trọng-ni thuận-hành đạo cuả ḿnh
vậy. Đă không thi-hành ắt phản. Lỗ viết sách, có chờ đợi mà
không tiến tới]. Không xử-sự, không tiến-hành. Ôi thời-thế!
(Không xử-sự là thửa thời đă có chủ vậy. Không tiến-hành là
thửa thời vô-đạo vậy).
KẾT-NGỮ
Tựu chung, Ngụy, Tấn, Nam-Bắc Triều Dịch, chú dật-văn thường
lấy Phí-thị Dịch làm để-bản (bản gốc). Duy có Vương-Túc Dịch
hay có dị-văn. Đổng Ngô, Can Bửu, Hoàn-Huyền đôi khi lấy
Dịch Mạnh-Hỉ để đính chính Phí-bản. Hơn hết, Phí-Dịch Kinh
th́ lấy Dịch cuả Trịnh-Huyền, Chú th́ lấy cuả Vương-Bật, cho
làm độc tôn. Về Dịch-tượng, Can Bửu độc có các lệ: hỗ-thể,
tiêu-tức, quái-khí, bát cung thế-ứng, du-hồn, quy-hồn,
thế-quái khởi tháng, bát-quái hưu-vượng, hào-thể, hào-đẳng,
quái-thân, nạp-giáp, nạp chi (cùng là nạp chi ứng thời, nạp
chi ứng t́nh), lấy từ Kinh-thị Học (Xin ôn lại các bài 46,
52, 57 và 110). Phục Mạn-Dung luận bàng-thông văng lai, Diêu
Quy nói về hỗ-thể (Xin ôn lại các bài 62 và 65), đều là
Ngu-thị Học. Lư Cảnh-Dụ cũng nói đến quái-biến, tiêu-tức,
hỗ-thể, nhưng thửa lệ quá sơ sài, không vượt khỏi khuôn mẫu
Trịnh-Huyền. Vương-Túc, Hướng-Tú, Vương-Dực bàn tượng trong
phạm-vi bản-quái, kỳ dư các nhà khác không nói đến tượng-số.
Về Dịch-nghiă : Vương-Túc, Can-Bửu, Thẩm Lân-Sĩ, Lưu-Hiến,
Phục Mạn Dung, Đổ Trọng-Đô, Lư Cảnh-Dụ ưa lấy Kinh giải
Kinh. Can-Bửu, Trương-Cơ đều ưa lấy lịch-sử chứng Dịch. Về
thuyết cuả tiên-hiền, quanh quẩn chỉ có Trịnh-Huyền,
Vương-Túc, Bắc-triều th́ tôn-sùng Trịnh-Huyền nhưng học-tập
thêm Chu-Dịch Chú cuả Vương-Bật, Nam-triều th́ tôn-sùng
Vương-Bật mà cũng thể-dụng cả Trịnh-Huyền Chú. V́
Trịnh-Vương có khác nhau, nên phần nhiều các học-giả thêm
vào ư-kiến cuả riêng ḿnh. Hơn cả, sư-pháp phá rối,
thắng-kiến tranh nhau xuất-hiện là một đại-đặc-điểm cuả
học-phong thời-đại này. Soạn-văn cuả Dương-Nghệ thường lấy
Dịch làm nguồn phẩm-vật, làm gốc h́nh-lễ; trước-luận cuả
Tiêu-Diễn cũng dựa vào Dịch mà bàn chính-lư, thiên-tượng. Ấy
là lấy Dịch-đạo làm bản-thể cho vũ-trụ nhân-sinh. Muốn thấy
chân-diện-mục cuả Ngụy, Tấn, Lục-triều Dịch, thức-giả cần
nghiên-cơ kỹ hơn phát-triển-sử cuả thời-kỳ này.
THƯ TỊCH KHẢO (CHƯƠNG 11)
064
Nam Sử
南史,
Lư Diên Thọ
李延壽
soạn, do Dương Trung
楊忠
phân-sử chủ-biên, in Nhị Thập Tứ Sử Toàn
Dịch
二十四史全譯, do
Hứa Gia Lộ Chủ-biên, Toàn 2 Sách, Đệ-nhất-bản, Hán-Ngữ
Đại-Từ-Điển Xuất-bản-xă, Thượng-hải, tháng 1-2004.
267
Chu Dịch Tuân-thị (128-190) Cửu-gia Nghiă
周易荀氏九家義,
Thanh
è
Trương Huệ-Ngôn
張惠言
trước, in Hoàng-Thanh Kinh-Giải Dịch-Loại Vựng-Biên
皇清經解易類彙編
(tr. 803-7), Tái-bản, Nghệ-văn Ấn-thư-quán, Đài-bắc, Tháng
9-1992.
355
Ngụy Tấn Thất Gia Dịch-học chi Nghiên-cứu
魏晉易學
七家之研究,
Sơ-bản, Từ Cần-Đ́nh
徐芹庭
trước, Thành-văn Xuất-bản-xă, Đài-bắc, Tháng 2-1977.
356
Chu-Dịch Lục-thị Học
周易
陸氏學,
Sơ-bản, Từ Cần-Đ́nh
徐芹庭
trước, Thành-văn Xuất-bản-xă, Đài-bắc, Tháng 2-1977.
357
Chu-Dịch Khẩu-Quyết Nghiă-Sớ-Chứng
周易口訣義疏證,
Sơ-bản, Từ Cần-Đ́nh
徐芹庭
trước, Thành-văn Xuất-bản-xă, Đài-bắc, Tháng 2-1977.
370
Chu-Dịch Độc-Bản
周易讀本,
Tăng-đính Sơ-bản, Hoàng Khánh-Huyên
黃慶萱
trước, Tam-dân Thư-cục,
Đài-bắc, Tháng 5-1992.
*
* *
Xem
Kỳ
129
GS
Nguyễn
Hữu
Quang
Nguyên
Giảng Viên Vật Lư Chuyên về Cơ Học Định Đề
(Axiomatic Mechanics, a branch of
Theoretical Physics)
tại Đại Học Khoa Học Sài G̣n trước năm 1975
www.ninh-hoa.com |
|