GS
NGUYỄN
VĂN
PHÚ
nguyên Hiệu trưởng
trường
Trung học
Tư thục
Hưng
Đạo
Sài
G̣n
QUYỂN 3
15. TRÍ TUỆ
BÁT–NHĂ
1.
Mấy tháng trước, chúng tôi có dịp tŕnh bày đề tài “một
số đặc điểm của Phật giáo”. Sau đó, trong khi giải lao,
một đạo hữu hỏi rằng: “Nếu phải nói thật gọn lại th́ đạo hữu
chọn điều ǵ là đặc điểm nổi bật nhất của đạo Phật?”.
Tôi
trả lời: “ Tôi thấy đơn giản lắm. Đạo Phật là đạo của Từ Bi
và Trí Tuệ. Nhưng Từ Bi th́ các đạo khác cũng có đề cập tới
dù với vài danh từ tương đương nhưng nghĩa hẹp hơn, c̣n như
Trí Tuệ th́ thật là đặc biệt của đạo Phật. Vậy xin thưa: đặc
điểm sáng chói trong Phật giáo chính là Trí Tuệ.”
Hôm
nay, chúng tôi xin đánh bạo khai triển đề tài Trí Tuệ hay
Trí Huệ (Bắc đọc là tuệ, Nam đọc là huệ).
2.
Có hai chữ đối nghịch nhau là ngu và trí, ngu si và thông
minh, đần độn và trí tuệ. Ngu, ngu si nghĩa là dốt nát, chậm
hiểu, học hành th́ chậm chạp, làm việc th́ sai trái. Thông
minh là sáng dạ, học đâu hiểu đấy, áp dụng vào việc th́
nhanh, không lầm lẫn.
Ngu si là thiếu kiến thức, thiếu học hành, thiếu hiểu biết
và thiếu kinh nghiệm trong một hay nhiều lĩnh vực. Thông
minh là học nhanh hiểu chóng, mau mắn nắm bắt được, hiểu
được những ư kiến, những lời giảng của người khác hay ở
trong sách vở.
Trong đạo Phật, ngu si và thông minh, vô minh và trí tuệ,
ngu và trí, ngu và hiền có nghĩa khác một chút.
Ngu si, vô minh là không biết, không hiểu chánh pháp, mù mờ
chẳng biết ǵ đến tứ diệu đế, bát chánh đạo, lư nhân quả, lư
duyên khởi, nghiệp báo ... , không chịu t́m học chánh pháp,
không chịu tu tập, nên rốt cuộc ch́m đắm trong ṿng sinh tử
luân hồi. Trong thập nhị nhân duyên, vô minh là nguyên nhân
chính của việc luân hồi trong ba cơi. Trong Phật học ta thấy
chữ vô minh được dùng nhiều hơn chữ ngu si, và chữ si thường
được dùng đứng riêng như trong mấy chữ tham sân si.
Có trí tuệ theo nghĩa thông thường là có sự hiểu biết về một
hay nhiều vấn đề, do biết học tập, nghiên cứu, t́m hiểu,
phân tích, tổng hợp, suy diễn ..., biết rút ra kết luận và
kinh nghiệm, là có khả năng giảng giải và truyền đạt các
hiểu biết ấy.
Trí tuệ trong đạo Phật không phải là loại phàm trí nói trên
đây. Để phân biệt trí tuệ trong đạo Phật với phàm trí, người
ta dùng chữ trí tuệ bát-nhă hay bát-nhă (thật
ra, bát-nhă đă có nghĩa là trí tuệ rồi. Nói trí tuệ bát-nhă
là nói dư. Vậy chỉ nên dùng một chữ bát-nhă thôi cho nhẹ,
nhưng với các đoạn văn trích trong kinh, sách th́ phải tôn
trọng nguyên bản). Chữ bát-nhă này do phiên âm chữ pali
pannā (trên chữ n, có dấu ngă, đọc như nh của ta) hay chữ
sanskrit prajnā mà ra. Bát-nhă là sự hiểu biết
toàn diện có tính cách trực giác, không dựa trên lư luận,
trên khái niệm và trên ngôn từ. Bát-nhă do tu hành mà có,
không do học hành lư luận. Nhờ bát-nhă mà thấy rơ được thực
tướng của vạn pháp. Cái thấy của người phàm là cái thấy sai
lầm. Cái thấy của người có bát nhă là cái thấy đúng như
thực, sự thực thế nào là thấy đúng được như thế.
Khi
phân biệt phàm trí với bát-nhă như trên đây, chúng ta không
hề có ư hạ thấp phàm trí. Học giỏi, có kiến thức, có tài
năng, có phát minh vv.. là những điều đáng quư, có thể giúp
ích nhiều cho nhân quần xă hội. Ở đây, chúng ta chỉ muốn nói
rơ rằng những điều ấy không dẫn đến giải thoát như đạo Phật
đề ra mà thôi.
Phật tử luôn luôn được nhắc nhở rằng đạo Phật là đạo Giác
Ngộ và Giải Thoát, và phải có bát -nhă mới đi tới Giác Ngộ
và Giải Thoát được.
3.
Nói đơn giản th́: 1/ người ngu là người mê muội, nhiều ảo
tưởng, nhiều nhận định điên đảo, nặng nhất là coi cái ta là
thật! 2/ người trí biết đi t́m đường giải thoát, hiểu biết
sâu xa về con đường dẫn đến an lạc và hạnh phúc thật sự, đến
niết-bàn và chăm tu trên đường ấy.
Lại nữa, một đằng th́ tham đắm, một đằng th́ dứt bỏ, như
kinh Pháp Cú đă ghi:
Hăy đến
nh́n đời này, Nh́n xe vua lộng lẫy,
Người ngu
mới tham đắm, Bậc trí nào đắm say! (171)
Xin trích thêm hai đoạn trong Kinh Pháp Cú như sau:
Người ngu dầu trọn
đời, Thân cận người có
Chẳng biết
được Chánh pháp, Như muỗng với vị canh (64)
Người trí
dù một khắc, Thân cận người có trí
Biết ngay
Chân diệu pháp, Như lưỡi với vị canh (65)
Gặp chánh pháp, người ngu chỉ giống như là cái muỗng, múc
canh mà nào biết vị của canh. Trái lại, người trí th́ như
cái lưỡi, nếm canh là biết vị của canh!
4.
Nói đến chánh pháp, chúng ta hăy trở lại bài pháp đầu tiên
của đức Thế Tôn, ghi trong kinh Chuyển Pháp Luân.
Kinh này là kinh căn bản của đạo Phật, nói về Tứ Diệu Đế và
Bát Chánh Đạo.
Con đường thoát khổ là bát chánh đạo. Con đường tám
nhánh chạy song song ấy gồm có: chánh kiến, chánh tư duy,
chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tiến, chánh
niệm và chánh định.
Tám chi này được thu gọn làm ba thứ gọi là tam học:
đó là giới, định và tuệ Chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng
làm thành GIỚI.
Chánh tinh tiến, chánh niệm, chánh định làm thành ĐỊNH.
Chánh kiến, chánh tư duy làm thành TUỆ (hay HUỆ).
Giới, Định, Tuệ là ba chân của một cái đỉnh, thiếu một chân
th́ không đứng được; ba điều ấy hỗ trợ cho nhau, không phải
cái này có trước, cái kia có sau.
Trong cuốn Introducing Buddhism, tác giả Bodhicitto
đă viết như sau: “Đức Phật dạy rằng nơi nào các đệ tử của
Ngài luôn luôn gắng công hành tŕ trên con đường giữ ǵn
giới hạnh, huân tập tâm ư và khai phát trí tuệ này th́ nơi
đó không bao giờ thiếu vắng các bậc giác ngộ. Sự phân tích
thành 8 nhánh hay 3 nhóm tu học là để cho dễ hiểu. Tuy nhiên
các yếu tố đó cần phải hành tŕ đồng đều, để bổ sung, hỗ trợ
cho nhau th́ con đường đó mới trọn vẹn và mang đến ích lợi,
giải thoát thật sự . Đó là một con đường rộng mở cho tất cả
mọi người ... Con đường tu học là con đường tự nỗ lực, không
cần đến sự cầu xin thần linh ... Đức Phật là vị Đạo sư, Ngài
chỉ cho chúng ta con đường giải thoát, chúng ta phải tự ḿnh
tiến bước trên con đường đó, Ngài không phải là Đấng cứu rỗi
... Nguyên tắc của đạo Phật là phải tự ḿnh chứng ngộ, chứ
không phải là giáo điều để mù quáng tin theo ...” .
Ngay tại một số trang đầu của cuốn Thanh Tịnh Đạo,
tác giả Buddhagosa đă viết: Có một vị trời hỏi đức Phật, đại
ư rằng : ‘Ai có thể tháo gỡ cái lưới triền, cái mớ ḅng bong
làm cho chúng sinh trong tam giới bị quấn quít như thế?’ (triền
là cái lưới tham trói buộc, theo nghĩa đan mắc vào nhau như
những cành cây chằng chịt như mạng lưới trong các khu rừng
tre). Đức Phật trả lời bằng bài kệ :
Người trú
giới có trí
Tu tập tâm
và tuệ
Nhiệt tâm
và thận trọng
Tỳ kheo ấy
thoát triền.
Trú
giới là đứng vững trên đất giới. Tu tập tâm và tuệ nghĩa là
tu tập cả định và huệ. Nhiệt tâm là có nghị lực. Thận trọng
là có tuệ giác, chỉ ề tuệ pḥng hộ. Trong câu trả lời, chữ
tuệ được nhắc tới ba lần : lần đầu là tuệ bẩm sinh (có trí),
lần thứ nh́ là tuệ với nghĩa về quán, c̣n lần này chỉ về tuệ
pḥng hộ hướng dẫn mọi công việc..
Theo như vậy th́ con Đuờng Thanh Tịnh tức con đường
dẫn đến Niết-bàn được Ngài giảng là Giới, Định và Tuệ.
Giới là khởi đầu của giáo lư, giới tốt đẹp v́ nó mang lại
những đức đặc biệt. Sự tốt đẹp của giáo lư ở chặng hai được
nêu bằng Định (hạnh lành). Sự tốt đẹp của chặng cuối được
nêu bằng Tuệ, đem lại đức b́nh thản đối với những điều khả ư
và bất khả ư.
Nhờ
sự hỗ trợ của Giới viên măn mà đắc ba minh (túc mạng
minh – nhớ được các đời trước; thiên nhăn minh – biết sự
chết và tái sinh của các hữu t́nh; lậu tận minh – đoạn trừ
tất cả các lậu hoặc). Nhờ sự hỗ trợ của Định viên măn mà đạt
đến sáu thông (thần túc thông, thiên nhĩ thông, tha
tâm thông, túc mạng thông, lậu tận thông, thiên nhăn thông).
Nhờ sự hỗ trợ của Tuệ viên măn mà được bốn vô ngại
(nghĩa vô ngại, pháp vô ngại, từ vô ngại, biện tài vô ngại)
...
Đề pḥng vi phạm những điều ô nhiễm là nhờ Giới; đề pḥng
các ám ảnh của ô nhiễm là nhờ Định; đề pḥng các tuỳ miên
(khuynh hướng nội tại đưa đến ô nhiễm) là nhờ Tuệ.
Sự
thanh lọc những ô nhiễm do tà hạnh là nhờ Giới; thanh lọc
những ô nhiễm do dục tham là nhờ Định; thanh lọc những ô
nhiễm do tà kiến là nhờ Tuệ.
Bậc
Dự lưu và bậc Nhất lai được gọi là “thành tựu viên măn các
phẩm loại về Giới”; bậc Bất hoàn được gọi là “Định viên
măn”; Bậc A-la-hán được gọi là bậc “Tuệ viên măn”.
Vậy
là chúng ta học được rằng : Tuệ đem lại b́nh thản, tuệ giúp
đề pḥng các tùy miên, tuệ giúp thanh lọc các ô nhiễm, tuệ
dẫn đến bốn vô ngại.
5.
Đă nói đến Bát nhă th́ tốt hơn cả là t́m đến Kinh Bát Nhă.
Ngũ thời giáo của đức Phật gồm có :
1.
Thời Hoa Nghiêm : 21 ngày
(kinh Hoa Nghiêm)
2.
Thời Lộc Uyển : 12 năm
(các kinh A Hàm)
3.
Thời Phương Đẳng : 8 năm
(các kinh Đại thừa)
4.
Thời Bát Nhă : 22 năm (kinh
Bát Nhă)
5.
Thời Pháp Hoa : 8 năm kinh
Pháp Hoa, 1 ngày 1 đêm kinh Niết Bàn.
Sự phân chia ra 5 thời như vậy chỉ là một giả thuyết
của tông Thiên Thai mà thôi! Có chỗ khác th́ lại đặt ra giả
thuyết tam thời giáo! Ấy là chưa kể những việc các kinh đại
thừa như Hoa Nghiêm, Lăng Nghiêm, Pháp Hoa, Bát-Nhă
vv... đều được soạn sau khi đức Phật nhập diệt hàng mấy
trăm năm!
Theo thuyết trên th́ thời Bát-nhă kéo dài trên 20 năm (đức
Phật giảng pháp trong 45 năm tất cả). Đức Phật thuyết giảng
kinh Ma-Ha Bát-Nhă Ba-La-Mật-Đa gồm 600 cuốn (bộ dài
nhất trong Đại Tạng kinh) cho các vị đại bồ-tát. Kinh Kim
Cang Bát-Nhă Ba-La-Mật-Đa - thường gọi là kinh Kim Cang
- th́ ngắn gọn hơn nhiều, chỉ chừng vài chục trang, đó là
kinh mà Lục tổ căn dặn đệ tử phải tu theo. Có rất nhiều nhà
nghiên cứu, phiên dịch, giảng giải kinh này. Tóm tắt toàn bộ
kinh, rút lại thật cô đọng để chỉ c̣n phần cốt tủy, chứa
toàn các xác quyết rất mạnh, không một lư luận dài ḍng, đó
là Ma-Ha Bát-Nhă Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinh - gọi ngắn là
Tâm Kinh - vẻn vẹn có 260 chữ. Tất cả chúng ta đều
thuộc làu kinh này cả bản âm Hán và bản tiếng Việt.
Trong truyền thống Bắc tông, các vị tu Bồ-tát đạo thực hành
lục độ ba-la-mật gồm có bố thí, tŕ giới, nhẫn nhục, tinh
tấn, thiền định và trí tuệ ba-la-mật. Kinh Hoa Nghiêm
thêm vào bốn độ nữa là phương tiện, thệ nguyện, tuệ lực, tri
kiến cho nên có mười độ.
Các
vị chuyên hành thiền th́ chú trọng đến kinh Kim Cang
và Bát-Nhă Tâm Kinh. C̣n luận th́ có bộ Đại Trí Độ
Luận nổi tiếng. Đọc kinh Pháp Bảo Đàn, ngay phẩm
thứ nhất là Hành do, chúng ta biết rằng người thanh niên
nghèo Huệ Năng nhờ nghe được lời tụng kinh Kim Cang
mà phát tâm xuất gia t́m đạo nơi Ngũ tổ Hoằng Nhẫn. Vào đêm
truyền y bát, Ngũ tổ đă giảng kinh Kim Cang cho ngài
Huệ Năng nghe và ngài Huệ Năng giác ngộ ngay. “Này các thiện
tri thức, lúc tôi ở nơi Ḥa Thượng Hoằng Nhẫn, chỉ nghe
giảng kinh Kim Cang một lần, lập tức thấy được Chân
như Bổn tánh”.
Về
sau, Ngài Huệ Năng dặn rất kỹ rằng phải tu theo kinh Kim
Cang. “Này các thiện tri thức, nếu chư vị muốn nhập pháp
giới thậm thâm, nhập Bát nhă tam muội, cần phải tu hạnh
Bát-Nhă Ba-la-mật. Chỉ cần tŕ một quyển kinh Kim Cang
Bát-Nhă Ba-la-mật, ắt sẽ được kiến tánh và nhập Bát -nhă
tam-muội”.
Vậy
th́ chúng ta nên dùng kinh Pháp Bảo Đàn và kinh
Kim Cang để t́m hiểu về Giới Định Huệ, nhất là về Huệ.
Sau đây là lời ngài Huệ Năng trong Kinh Pháp Bảo Đàn:
“ … thấy một người khách tụng kinh. Huệ Năng này nghe qua,
tâm liền mở mang tỏ sáng mới hỏi khách tụng kinh ǵ. Khách
đáp: - Kinh Kim Cang.
Huệ Năng lại hỏi: - Ở đâu đến mà tụng kinh ấy?
Khách rằng: -Tôi ở chùa Đông Thiền, huyện Hoàng Mai, xứ Kỳ
Châu, chùa ấy do Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn Đại sư chủ tŕ giáo hóa
tại đó ”...
Khi
Ngài Huệ Năng đến xin theo tu học nơi Ngũ Tổ th́ chỉ được
giao cho việc giă gạo ở dưới bếp. Ngài kể: “Một hôm, Ngũ Tổ
tới, lấy gậy gơ cối ba lần rồi bỏ đi. Huệ Năng này liền hiểu
ư Tổ Sư, đến canh ba đi vào thất. Ngũ Tổ lấy áo ca-sa đắp
cho ta, rồi nói kinh Kim Cang cho ta nghe, đến câu Ưng vô sở
trụ nhi sinh kỳ tâm, (nên không trụ vào chỗ nào mà sanh tâm
ḿnh, nghĩa là để cái tâm trống không, chẳng trụ vào đâu
cả) Huệ Năng này nghe rồi liền rất tỏ sáng, biết rằng cả
thảy muôn pháp không ĺa tánh ḿnh, mới bạch với Tổ Sư rằng:
Nào dè
tánh ḿnh vốn tự nhiên trong sạch
Nào dè
tánh ḿnh chứa đầy đủ muôn pháp
Nào dè
tánh ḿnh vốn không lay động
Nào dè
tánh ḿnh có thể sinh ra muôn pháp
Nếu
chẳng biết bổn tâm th́ học pháp vô ích. Bằng biết bổn tâm và
thấy bổn tánh ḿnh, tức gọi là Trượng phu, là Phật, Thày cơi
Trời và Người” ...
Qua
đoạn kinh này, ta hiểu rằng kinh Kim Cang dạy pháp
vô trụ (không trụ vào chỗ nào mà sinh tâm ḿnh). Ngài
Huệ Năng đă hốt nhiên giác ngộ do nghe được pháp vô trụ. Vô
trụ, th́ phải ly tướng, mà ly hết tất cả mọi tướng
th́ thành Phật, ly nhất thiết tướng tức danh chư Phật.
Trong kinh Kim Cang, chúng ta thấy một loạt những
đoạn kiểu như “A đó, không phải là A, ấy chính là A”, thí dụ
“đệ nhất ba-la-mật, mà không phải là đệ nhất ba-la-mật, ấy
chính là đệ nhất ba-la-mật”, làm cho người học choáng váng.
Sau khi hết sức cố gắng, chúng ta mới tạm giải thích và tạm
hiểu như thế này: “hăy xem cái bàn này, nó do nhiều duyên
kết hợp lại với nhau mà thành, khi các duyên ly tán th́ hết
cái bàn, cái bàn trở thành không, nó không có tự tính riêng
của nó cho nên thật sự đó chẳng phải là cái bàn; chúng ta
đồng ư với nhau mà gọi nó là cái bàn cho tiện mà thôi”.
Đến mấy câu kệ của đức Phật:
Nếu dùng
sắc thấy ta
Nghe âm
thanh bảo là ta
Kẻ ấy theo
đạo tà
Không thể
thấy Như Lai
th́ thật là “dễ sợ”; vậy th́ lâu nay đúc tượng, in sách,
tụng kinh, đọc chú là sai lầm cả rồi sao? Không thể thấy Như
Lai được sao?
Được nghe giảng, chúng ta nhận ra rằng: kinh Kim Cang rút
lại là phá chấp, phá chấp ngă, phá chấp pháp, bỏ qua mọi
h́nh tướng, âm thanh, mùi vị .. giải phóng cái tâm khỏi mọi
thứ trói buộc đó để mà thấy Chân Tâm, đối cảnh vô tâm mạc
vấn thiền; kinh đă cố ư thiết lập một cái nh́n mới, bỏ hết
những chấp trước cố hữu do thành kiến, thiên kiến, tà kiến
tích lũy từ bao nhiêu kiếp, bỏ hết để trực diện sự thật. Sự
thật này, có sao thấy vậy. Đó là thực tướng của vạn pháp,
thực tướng ấy gọi là không tướng, bất sinh bất diệt, bất
cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm.
Nếu
nhớ lại một đoạn trong kinh Pháp Bảo Đàn, khi sư Huệ
Minh cầu pháp, th́ thấy Lục tổ chỉ giảng rất vắn tắt : “ Ông
v́ pháp mà đến đây th́ khá hăy dứt hết trần duyên, chớ sanh
một niệm tưởng. Tôi sẽ nói rơ Phật pháp cho ông nghe” ... “
Không nghĩ việc lành, không nghĩ điều dữ, chánh trong thời
gian đó, cái ấy, tức là tỏ thấy cái Bổn lai Diện mục của bậc
Thượng tọa vậy”.
HT
Minh Trực b́nh luận : “ Cái ấy, nhà Phật dùng danh từ ấy mà
chỉ cái tánh Bổn lai. Trong ấy có cái chơn thật không lành
không dữ, không h́nh không trạng, không tiếng không hơi,
diệu diệu huyền huyền, bất sanh bất diệt, toàn trí toàn
năng, chí chơn chí mỹ chí thiện, vô thượng, chánh đẳng,
chánh giác...”.
Không lành, không ác ... thế là vượt qua nhị nguyên: thiện
ác, tốt xấu, đen trắng, nhanh chậm, vô minh trí tuệ, đắc vô
đắc ... tức là bỏ qua tục đế để bước vào chân đế, ở đó không
có khổ tập diệt đạo, không có già chết cũng không có cái hết
già chết, không có vô minh, cũng không có cái hết vô minh,
không có trí huệ cũng không có chứng đắc!
6.
a/ Về vấn đề Định và Huệ, Lục tổ Huệ Năng quan niệm như sau:
“Pháp môn của ta đây lấy Định Huệ làm căn bản. Đại chúng chớ
mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau. Định và Huệ chỉ là
một thể, chẳng phải hai. Định là cái thể của Huệ. Huệ là cái
dụng của Định. Tức là lúc Huệ th́ Định ở trong Huệ, lúc Định
th́ Huệ ở trong Định ... Định và Huệ giống như cái đèn và
ánh sáng. Có đèn tức là sáng, không có đèn tức là tối. Đèn
là cái thể của ánh sáng, ánh sáng là cái dụng của đèn.”(Kinh
Pháp Bảo Đàn, phẩm Định Huệ).
b/ Pháp môn của Lục tổ “lấy Vô niệm làm tông, Vô
tướng làm thể, Vô trụ làm gốc. Vô niệm là khi niệm, ḷng
không động niệm. Vô tướng là đối với các sắc tướng, ḷng ĺa
tướng. Vô trụ là đối với các điều lành dữ, tốt xấu ở thế
gian, kẻ thù người thân, xem cả thảy như không không. Vô
niệm : vô là vô cái ǵ? Niệm là niệm cái ǵ? Vô là không
chấp hai tướng yêu ghét, không có ḷng phiền năo. Niệm là
niệm cái Chân Như Bổn Tánh ...”. Pháp môn này dẫn đến trí
huệ bát-nhă, đến kiến tánh thành Phật.
Thế
là rơ ràng, Lục tổ đă tŕnh bày xong phương pháp tu của
ngài, chỉ trong mấy ḍng mà thôi. Cứ như thế mà tu sẽ đến
kết quả! Ngài dạy là phải thực hành chứ không nói xuông cho
nên nhiều chỗ ngài “đả kích” những ai chỉ nói mà không làm.
c/ Ngũ Tổ có hai đệ tử xuất sắc nhất, chủ trương hai
môn phái : Môn phái của Ngài Huệ Năng được gọi là Nam đốn
(tức là môn phái phía Nam nước Tàu chủ trương giác ngộ nhanh
chóng), môn phái của ngài Thần Tú được gọi là Bắc tiệm (tức
là môn phái phía Bắc nước Tàu chủ trương từ tốn kiến tánh).
Nhà sư Chí Thành - một môn đệ của ngài Thần Tú - nghe lời
thày, đến cầu đạo nơi Lục tổ. Khi ngài hỏi về Thiền, sư Chí
Thành đáp : “(Ngài Thần Tú) thường chỉ dạy đại chúng trụ tâm
quán tịnh, ngồi măi không nằm”. Đại sư bảo rằng : “Trụ tâm
quán tịnh, ấy là bịnh, chẳng phải Thiền”... Và tiếp : “Ta
nghe nói thày ông dạy phép Giới Định Huệ nhưng chưa rơ thày
ông dạy như thế nào, hăy nói cho ta nghe”.
Chí Thành bạch : Ngài Thần Tú dạy: Không làm các điều ác,
gọi là Giới. Làm tất cả các điều thiện, gọi là Huệ. Tự tịnh
ư ḿnh, gọi là Định.
Đại sư nói : Lối giải thích ấy quả là bất khả tư nghị,
song kiến giải của ta th́ lại khác ... Tâm địa không có nghi
hoặc, là Giới của tự tánh. Tâm địa không có động loạn, là
Định của tự tánh. Tâm địa không có si mê, là Huệ của tự
tánh ... Giới Định Huệ của thày ông là để khuyến những
người căn cơ thấp, c̣n Giới Định Huệ của ta là để khuyến
những người căn cơ cao. Bởi v́ giác ngộ tự tánh chính là cốt
yếu của giáo lư của ta, thực ra ta cũng chẳng buồn lập Giới
Định Huệ.
Điều mà chúng ta thấy rơ nhất ở đây là : Lục tổ nhấn mạnh
đến tự tánh, giác ngộ tự tánh. Chúng tôi mạo muội đề nghị
cách hiểu rằng giác ngộ tự tánh đây chính là đắc trí huệ
bát-nhă để thấy được thực tướng của vạn pháp.
7.
Về bát-nhă th́ Lục tổ dạy như sau: “Cái trí Bồ đề
Bát-nhă, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên
chẳng tự ngộ được ... Suốt ngày miệng niệm Bát nhă mà chẳng
biết Bát nhă trong tánh ḿnh ... Miệng niệm và ḷng làm
theo th́ miệng và ḷng hiệp nhau. Cái bổn tánh là Phật, ĺa
tánh th́ không có Phật nào khác ... Các cơi Phật thảy đều
trống không. Cái diệu tánh của người thế gian vốn là trống
không, chẳng có một pháp ǵ trong đó mà t́m đặng. Cái tự
tánh Chơn không cũng giống như th ế ... Thế giới tuy là
trống không mà có thể bao hàm muôn vật. Cái tánh trống không
của người thế gian cũng giống như thế... Cái tâm lượng thật
là rộng lớn, châu biến tất cả pháp giới, dùng nó liền hiểu
rơ ràng tới chỗ cùng lư tận tánh. Cái tâm lượng ấy khi ứng
dụng ra th́ biết hết cả thảy sự vật. Cả thảy tức quy về một,
một tức gồm hết cả thảy, tới lui thong thả, tâm thể suốt
thông, không ngưng trệ, tức là Bát nhă vậy ... Cả thảy trí
Bát-nhă đều do trong tánh ḿnh mà sanh, chớ chẳng phải do
nơi ngoài vào. Chớ lầm dùng cái ư thức. Ấy gọi là Chân tánh
tự dụng”.
Chỗ
đáng nhớ ở đây là : ai ai cũng có trí bồ-đề bát-nhă, do
tâm mê muội nên chẳng tự ngộ được.
8.
Truyền thống Nam tông đặt nền tảng của pháp hành thiền Minh
sát trên kinh Tứ Niệm Xứ, bản ngắn xếp ở Trung Bộ,
bản dài xếp ở Trường Bộ.
Theo Nam tông, bát-nhă là một trong Thập độ : bố thí,
tŕ giới,viễn ly, trí tuệ, tinh tiến, kham nhẫn, chân thật,
quyết định, tâm từ, buông xả.
Theo chỗ chúng tôi hiểu th́ không có kinh Nam Tông nào nói
riêng về Bát-nhă nhưng Bát-nhă được nói tới rất nhiều, rải
rác trong các kinh. Và không có một hệ thống triết lư
Bát-nhă như trong Bắc tông.
Cuốn Pannā in Early Buddhism ghi ra những Kinh và
Luận Phật giáo Nguyên Thủy bàn về Bát -nhă, dù rằng có những
lúc danh từ Bát-nhă không được đề cập tới. Tác giả phân biệt
tưởng tri, thức tri với tuệ tri tức là ba sự
biết do tưởng uẩn, thức uẩn và trí tuệ. Tuệ tri th́ tṛn
đầy, viên măn, diệt trừ được tham sân si, dẫn đến giải
thoát.
HT
Minh đă viết một bài về Trí Tuệ năm 1995, trong đó
những kinh sau đây đă được kể ra và dẫn trích : - Kinh Xà
Dụ - Kinh Đại Mă Ấp - Kinh Đoạn Giảm - Kinh Mật Hoàn -
Kinh Song Tầm - Kinh Ái Tận Đoạn và các đoạn 277, 278, 279
trong kinh Pháp Cú.
T́m
trong Kinh Bộ Nam tông, Tăng Chi Bộ Kinh chẳng hạn, Thiên
Sáu, đoạn 50, ta thấy : “Với các căn được pḥng hộ, này các
Tỳ Kheo, với người đầy đủ các căn được pḥng hộ, giới đi đến
đầy đủ. Với giới có mặt, với người đầy đủ giới, chánh định
đi đến đầy đủ. Với chánh định có mặt, với người đầy đủ chánh
định, tri kiến như thật đi đến đầy đủ. Với tri kiến như thật
có mặt, với người đầy đủ tri kiến như thật, nhàm chán, ly
tham, đi đến đầy đủ. Với nhàm chán, ly tham có mặt, với
người đầy đủ nhàm chán, ly tham, giải thoát tri kiến đi đến
đầy đủ.”
Và
trong Thiên Bốn, đoạn 248 : “Bốn pháp này, này các Tỳ Kheo,
đưa đến trí tuệ tăng trưởng. Thế nào là bốn? Thân cận bậc
Chân nhân, nghe diệu pháp, như lư tác ư, thức hành pháp tùy
pháp. Bốn pháp này, này các Tỳ Kheo, đưa đến trí tuệ tăng
trưởng.”
Tuy
đường lối của hai tông Nam và Bắc có khác nhau nhưng mục
đích chỉ là một: đó là huấn luyện cái nh́n chân chánh, thấy
biết mọi hiện tượng như thực, ngộ nhập được thực tướng của
vạn pháp, chứng nghiệm Tam tướng (vô thường, khổ, vô ngă)
hay Tứ vô thường (vô thường, khổ, không, vô ngă).
9.
Bài đă khá dài, chúng tôi muốn nói vắn tắt về Bát-nhă. Trong
lúc đang lúng túng th́ may mắn, chúng tôi đọc được những
ḍng viết của đạo hữu Thiện Nhựt trong cuốn T́m hiểu
Bát-nhă qua kinh Kim Cang, chúng tôi mạn phép ghi gọn
lại ở đây:
“Có
một toa thuốc thần diệu, trị dứt hẳn bịnh khổ, đó là Bát-nhă
ba-la-mật. Cuốn kinh đáp ứng được nhu cầu trị lành bệnh cho
chúng sanh, chính là kinh Kim Cang bát-nhă ba-la-mật.
Toa thuốc gồm có ba vị thuốc chánh yếu:
Thứ
nhất là văn tự bát-nhă, là tất cả kinh điển bàn về
bát nhă. Bộ kinh Đại Bát-nhă thâm sâu, khó cho người sơ cơ.
Kinh Kim Cang Bát-nhă ba-la-mật, ngắn hơn … chứa đủ lư và
sự, nghĩa là vừa chỉ cho lư vô ngă, vừa dạy thực hành bằng
phương pháp quán chiếu để diệt trừ tận gốc ngă kiến mà quay
về với chân tâm thanh tịnh.
Thứ
hai là quán chiếu bát-nhă, nghĩa là dùng tâm trí sẵn
có mà suy xét sâu xa. Tách ra mà nói th́ quán là quan sát,
phân tách các chỗ phức tạp ra các phần nhỏ để soi kỹ; c̣n
chiếu là soi chiếu, tức là đem chỗ vừa phân tách ra đó rọi
lên để t́m lấy lư lẽ thâm sâu về giải thoát mà ứng dụng về
thực hành ... Biết thực hành đúng cách quán chiếu bát-nhă
th́ ngă kiến từ từ bị dũa ṃn, một phần vô minh bị vén lên,
làm hiển lộ một phần ánh sáng, đó là thủy giác. Lâu ngày
thuần thục th́ về được với bổn giác tṛn đầy. Đó là phát
giác được Phật tánh. Từ đó đến nơi giác ngộ và giải thoát
hoàn toàn, c̣n xa, nhưng chắc là đến được ...
Thứ
ba là thực tướng bát-nhă, là cái h́nh tướng thật sự
của bát-nhă ba-la-mật, cái trí huệ đưa hành giả sang bờ bên
kia tức là bờ giác ngộ và giải thoát. H́nh tướng thật sự ấy
ra sao? Là chẳng có h́nh tướng ǵ hết ráo. V́ thế nên
Bát-nhă mới thực là Chân Không. Thực tướng bát nhă là vô
tướng mà cũng là vô bất tướng. Vô tướng v́ thực tướng
bát-nhă chẳng tự ḿnh riêng có một tướng nào. Vô bất tướng
v́ thực tướng bát-nhă ở khắp mọi nơi, khắp mọi thời, lúc
tiềm tàng, khi hiển lộ qua muôn h́nh vạn trạng của pháp
giới. Đó là chân không diệu hữu vậy. Đó là tên khác của Phật
tánh vậy. Kinh Kim Cang dạy phải ĺa hết mọi tướng,
và ly tướng tức danh chư Phật, v́ ly tướng xong th́ Phật
tánh hiển bày!”
10.
Trước khi kết thúc, chúng tôi xin nói về hai việc: học kinh
và từ bi, trí tuệ.
1/
Nhớ đến bốn câu nổi tiếng: “Giáo ngoại biệt truyền, Bất lập
văn tự, Trực chỉ nhân tâm, Kiến tánh thành Phật” của Thiền
tông Trung Hoa, chúng ta tự hỏi: Hành giả có cần nghiên cứu
kinh sách không? Câu trả lời là: Có. Nhưng cần nhấn mạnh là
học kinh sách mà không chấp trước, không nô lệ chữ nghĩa,
không để cho chữ nghĩa trói buộc ḿnh. Vậy là không bám víu
vào kinh điển mà cũng chẳng bác bỏ kinh điển. Lục tổ Huệ
Năng dạy: hành giả phải chuyển kinh chứ không để cho kinh
chuyển ḿnh!
2/
Đạo Phật bao giờ cũng chủ trương từ bi đi đôi với trí tuệ.
Trong bài này, đầu đề là trí tuệ cho nên chỉ bàn về trí tuệ,
chứ không dám bỏ quên từ bi. V́ thế, cần nhắc lại một cách
rơ ràng rằng từ bi và trí tuệ không được tách rời nhau trong
tiến tŕnh tu hành. Có nơi đă ví từ bi và trí tuệ như là hai
cánh của một con đại bàng.
Để
kết luận, xin đọc lại câu đầu của Bát-nhă Tâm kinh:
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại thực hành sâu xa pháp bát-nhă
ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều không, qua hết mọi
khổ ách.
Trí
tuệ bát-nhă là phương pháp, là đường lối, là công hạnh tu
học đă giúp cho ngài Quán Tự Tại soi thấy năm uẩn đều không
và nhờ đó mà vượt qua hết mọi khổ ách. Hơn nữa, Trí tuệ
bát-nhă đă giúp cho chư Bồ-tát đạt tới đích cứu kính
Niết-bàn. Cuối cùng, Trí tuệ bát-nhă đă giúp cho chư Phật
trong ba đời đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Vậy
ta có thể kết luận rằng trí tuệ bát-nhă vừa là những bước
chân trên con đường, vừa là con đường hướng tới, vừa là nơi
đến của các bậc tu hành.
□
Tài liệu tham khảo:
- Thanh Tịnh Đạo - Visuddhi Magga - của Ngài
Buddhaghosa, Thích nữ Trí Hải dịch, chùa Pháp Vân, Pomona -
California ấn hành, 1992.
- Pannā in Early Buddhism (A Philosophical Analysis
with special reference to the Visuddhimagga), của Tiến sĩ
Baidyanath Labh, Eastern Books Linkers, New Delhi, India,
1992).
- Kinh Pháp Bảo Đàn, HT Minh Trực dịch, Phật Học Viện
Quốc Tế xb, California, 1987.
- Kinh Pháp Bảo Đàn, Đôn Hoàng bản, HT Măn Giác dịch,
Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam, Chùa Việt Nam Los
Angeles xb, 1985.
- Kinh Pháp Bảo Đàn, bản dịch của Thiện Nhựt, chưa
phổ biến rộng.
- T́m hiểu Bát nhă qua kinh Kim Cang, Thiện Nhựt,
1995.
- Introducing Buddhism, Bodhicitto, B́nh Anson lược
dịch, site Internet Buddha Sasana.
- Kinh Pháp Cú, HT Minh Châu, Tu thư Phật học Vạn
Hạnh, Saigon, 1982.
□
GS
NGUYỄN
VĂN
PHÚ
nguyên Hiệu trưởng
trường
Trung học
Tư thục
Hưng
Đạo
Sài
G̣n
www.ninh-hoa.com |