Tiếp
Kỳ
11
Mối tư duy của Nguyễn Du về tương quan giữa vua và công thần
c̣n là thi hứng của ông trong bài kế tiềp:
渡 淮 有 感 文 丞 相
Độ Hoài Hữu Cảm Văn Thừa Tướng
山 河 風 景 尚 依 然
Sơn hà phong cảnh thượng y nhiên
丞 相 孤 忠 萬 古 傳
Thừa tướng cô trung vạn cổ truyền
一 渡 淮 河 非 故 宇
Nhất độ Hoài Hà phi cố vũ
重 來 江 左 更 何 年
Trùng lai Giang Tả cánh hà niên
哀 衷 觸 處 鳴 金 石
Ai trung xúc xứ minh kim thạch
怨 血 歸 時 化 杜 鵑
Oán huyết quy thời hóa đỗ quyên
南 北 只 今 無 異 俗
Nam bắc chí kim vô dị tục
夕 陽 無 限 往 來 船
Tịch dương vô hạn văng lai thuyền.
dịch là:
Qua Sông Hoài Nhớ Văn Thừa Tướng
Núi sông cảnh cũ y nguyên
Cô trung thừa tướng c̣n truyền ngàn thu
Qua Hoài Hà sa lưới thù
Ngày về Giang Tả mịt mù khôn hay
Xót thương vàng đá giăi bày
Tiếng quyên ḥn oán đắng cay âm thầm
Hội nay một mối Bắc Nam
Chiều tà muôn vạn cánh buồm ngược xuôi.
Văn thừa tướng tức Văn Thiên Tường (1236-1282) hiệu Văn Sơn,
người đời Tống. Khi quân nhà Nguyên đánh xuống miền nam, ông
khởi binh kháng cự, được phong chức Hữu Thùa Tướng. Năm 1278
ông bị quân Nguyên bắt giải về Bắc Kinh, giam ba năm, không
chĩu khất phục nên bị giết. Ông để lại Văn Sơn tiên Sinh
Toàn Tập lưu truyền tới nay.
Thoại kể rằng trong thời gian bị gian tại Yên Kinh, ông
nghiền ngẫm thơ Đỗ Phủ và nói:
‘Phàm tôi muốn nói điều ǵ th́ Đỗ Tử Mỷ đă nói thay tôi
rồi.’ Có người cho v́ thế mà Nguyễn Du, vốn cũng trọng thơ
Đỗ Phủ, nên có cảm t́nh tri kỷ với Văn Sơn.
Hoài Hà là khúc sông nằm trong đất hai tỉnh Giang Tô và An
Huy, và là ranh giới gĩa quân nhà Kim với quân Nam Tống. Từ
Hoài Hà trở lên phía Bác, khi đó thuộc về nhà Kim. Giang Tả
là phần đất ở phía tả ngạn sông Trường Giang, tḥi đó là đất
nhà Tống.
Hai câu kết, Nguyễn Du nói là nay bắc nam đă về một mối,
thuyên bè qua lại trên sông nhộn nhịp trong bóng chiều.
Qua sông Hoài, sứ bộ vào đất Hà Nam, gặp kỳ nắng to. Nguyễn
Du ghi lại h́nh ảnh đoạn đường này như sau:
河 南 道 中 酷 暑
Hà Nam Đạo Trung Khốc Thử
河 南 秋 八 月
Hà Nam thu bát nguyệt
殘 暑 未 消 融
Tàn thử vị tiêu dung
路 出 涼 風 外
Lộ xuất lương phong ngoại
人 行 烈 日 中
Nhân hành liệt nhât trung
途 長 嘶 倦 馬
Đồ trường tê quyện mă
目 斷 滅 歸 鴻
Mục đoạn diệt quy hồng
何 處 推 車 漢
Hà xứ thôi xa hán
相 看 碌 碌 同
Tương khan lục lục đồng.
dịch là:
Nắng Gắt Trên Đường Hà Nam
Tiết thu tháng tám Hà Nam
Nóng tan mà vẫn khốc tàn nấu nung
Ra đường đứng gió nóng hung
Người đi nắng đốt bừng bừng như rang
Đường dài ngựa mệt hí vang
Trông vời cánh nhạn biệt tăm chưa về
Người xứ nào hỏi phu xe
Nh́n nhau vất vả đôi bề như nhau.
Bốn câu đầu Nguyễn Du ghi lại cái nóng thiêu đốt vào tháng
tám tại Hà Nam, ra ngoài đường cũng khôngb thấy gió, đi
ngoài nắng th́ nóng nhu thiêu đốt. Bốn câu sau Nguyễn Du ghi
lại sinh hoạt của sứ bộ. Đường dài ngựa mệt hư vang. Trông
thư không thấy đến,tác giả phải gợi truyên làm bạn với người
đánh xe. Hai người nh́n nhau chia xẻ nỗi vất vả cùng nhau.
Sứ bộ vào tới thành Hứa Đô, kinh đô của nhà Ngụy đời Tam
Quốc. Nguyễn Du viết bài thơ dài hai mươi bốn câu như sau:
舊 許 都
Cựu Hứa Đô
許 州 城 漢 帝 都
Hứa Châu thành Hán đế đô
曹 氏 于 此 移 漢 圖
Tào thị vu thử di Hán đồ
受 禪 臺 基 已 不 見
Thụ thiện đài cơ dĩ bất khiến
風 雨 夜 夜 猶 號 呼
Phong vũ dạ dạ do hào hô
自 古 得 國 當 以 正 5
Tự cổ đắc quốc đương dĩ chính
奈 何 侮 寡 而 欺 孤
Nại hà vụ quả nhi khi cô
魏 受 漢 禪 晉 受 魏
Ngụy thụ Hán thiện Tấn thụ Ngụy
前 後 所 出 如 一 途
Tiền hậu sở xuất như nhất đồ
魏 亡 晉 續 更 朝 代
Ngũy vong Tấn tục canh thời đại
自 此 迄 今 幾 千 載 10Tự thử hất kim kỷ thiên tải
其 中 興 廢 知 幾 人
Kỳ trung hưng phế tri kỷ nhân
峨 峨 城 堞 何 曾 改
Nga nga thành điệp hà tằng cải
城 外 青 山 似 舊 時
Thành ngoại thanh sơn tự cựu th́
奸 雄 篡 竊 人 何 在
Gian hùng soán thiết nhân hà tại
漢 人 宗 廟 已 無 蹤 15Hán nhân tôn miếu dĩ vô tung
魏 人 園 陵 亦 頹 敗
Ngụy nhân viên lăng diệc đồi bại
蕩 蕩 城 中 一 片 土
Đăng đăng thành trung nhất phiến thổ
亭 午 巿 人 趨 賣 買
Đ́nh ngọ thị nhân xu mại măi
惟 有 建 安 二 十 五 年 事
Duy hữu Kiến An nhị thập ngũ niên sự
人 口 成 碑 終 不 壞 20Nhân khẩu thành bi chung bất hoại
遠 來 使 我 多 沉 吟
Viễn lai sử ngă đa trầm ngâm
遺 臭 留 芳 皆 古 今
Di xú lưu phương giai cổ kim
突 兀 名 城 當 大 道
Đột ngột danh thành đương đại đạo
巨 奸 到 此 應 寒 心
Cự gian đáo thử ưng hàn tâm.
dịch là:
Hứa Đô Xưa
Hứa Châu vua Hán thiên đô
Họ Tào lật đổ cơ đồ lên thay
Đài Thụ Thiện chốn nào đây
Đêm đêm gió lộng mưa bay ào ào
5Dựng nên nước cần nghĩa cao
Con côi vợ góa lẽ đâu dối lường
Hán Ngụy Tấn âu một tuồng
Trước sau sau trước một đường đổi thay
Từ ngày Ngụy đồ Tấn thay
10Ngàn năm suy thịnh tớ nay đổi dời
Phề hưng lên xuống bao người
Thành xưa lũy cổ đời đời vẫn nguyên
Non xanh núi biếc thành bên
Gian hùng thoán đoạt há bền được sao
15Miếu đường đời Hán nơi nao
Ngụy triều lăng tẩm cũng đâu có c̣n
Trong thành nền cũ đá ṃn
Người về họp chợ bán buôn xa gần
Năm hăm lăm triều Kiến An
20Truyện ghi bia miệng c̣n đồn ngàn năm
Khách từ xa đến trầm ngâm
Xưa nay tiếng xấu danh thơm lẽ thường
Thành cao sừng sững bên đường
Ớn ḷng mấy kẻ gian hùng qua đây.
Nguyễn Du dùng nhiều tích lấy từ sách Tam Quốc Chí.
Hứa Đô, thuộc huyện Hứa Xương, tỉnh Hà Nam. Cuối đời Đông
Hán, Tào Tháo lấy cớ là kinh đô Lạc Dương đổ nát, lừa hoàng
thái hậu, vợ vua Linh Đế và tân vương Hiến Đế thiên đô ra
đó. Lại cho xây đài Thụ Thiện để làm nơi hành lễ truyền
ngôi.
Năm Kiến An hai mươi lăm, con Tào Tháo, là Tào Phi ép Hán
Hiến Đế nhường ngôi dụng lên nhà Ngụy.
Truyện đó, lập lại khi tướng Tư Mă Viêm, con của Tư Mă Ư,
tướng nhà Ngũy, ép con của Tào Phi là Ngụy Nguyên Đế truyền
ngôi , lập ra nhà Tấn.
Nguyễn Du suy ngẫm về truyện thay đổi triều đại, trong ṿng
vài chục năm, ông đối chiếu cái vô thường của triều chính
với cái bền vững của bức thành cổ và rặng núi xanh ngoài
thành, mà thương hâi cho những kẻ gian hùng mưu đồ việc
thoán đoạt.
Sứ bộ đi ngang mộ Âu Dương Tu, một trong bát đại danh gia,
và Nguyễn Du viết thành bài:
歐 陽 文 忠 公 墓
Âu Dương Văn Trung Công Mộ
五 尺 豐 碑 立 道 傍
Ngũ xích phong bi lập đạo bàng
宋 朝 古 墓 記 歐 陽
Tống triều cổ mộ kư Âu Dương
平 生 直 道 無 遺 憾
B́nh sing trực đạo vô di hám
千 古 重 泉 尚 有 香
Thiên cổ trùng tuyền thượng hữu hương
秋 草 一 丘 藏 鼠 貉
Thu thảo nhất khâu tàng thử hạc
名 家 八 大 擅 文 章
Danh gia bát đại thiện văn chương
長 松 芝 草 生 何 處
Trường tùng chi thảo sinh hà xứ
樵 牧 歌 吟 過 夕 陽
Tiều mục ca ngâm quá tịch dương.
dịch là:
Mộ Âu Dương Văn Trung
Bia ṃn năm thước bên đường
Tống triều mô cổ Âu Dương danh đề
Suốt đời giữ đạo vẹn bề
Suối vàng muôn kiếp chẳng hề phai hương
Nấm cỏ thu tổ cáo chồn
Văn chương bát đại danh tôn ngàn đời
Cỏ chi tùng bách đâu rồi
Tiếng ca tiêu mục chơi vơi bóng chiều.
Theo giới nghiên cứu, Âu Dương Văn Trung, tự là Vĩnh Thúc,
người đời Tống, 24 tuổi đậu tiến sĩ, nhưng hoạn lộ lên xuống
nhiều lần, ngược lại trên đường văn học ông đưọc tôn vinh
vào hàng danh gia bát đại dưới hai triều Đường Tống. Nguyễn
Du đi qua mộ ông, thấy tấm bia đă ṃn, nấm mồ gai cỏ thành
tổ cáo chồn, tùng bách chẳng thấy đâu. Ông ngậm ngùi thương
người tải gịi danh cao rồi đă về nơi suối vàng. Tiếng hát
của tiều phu, trẻ chăn trâu vẳng bên tai ông.
Sau mộ Âu Dương Tu, Nguyễn Du đi qua mộ Bùi Tấn Công, tức
Bùi Độ, người đời Đường.
Làm quan trong ba mươi năm, hết làm tướng văn lại làm tướng
vơ, lên tới chức tể tướng dưới triều vua Đường Hiến Tông
(806-820), nhưng rồi ông kịp xin về hưu ngâm vịnh cùng các
nhà thơ đương thời như Bạch Cư Dị, Lưu Vũ Tích.
Bùi Độ được coi là người xuất xử đúng thời đúng thế khiến
nguời đời sau khâm phục, dẫu rằng tướng mạo ông rất tầm
thường.
裴 晉 公 墓
Bùi Tấn Công Mộ
蕩 蕩 秋 原 丘 隴 平
Đăng đăng thu nguyên khâu lũng b́nh
墓 碑 猶 誌 晉 公 名
Mộ bi do chí Tấn công danh
丹 心 一 點 留 今 古
Đan tâm nhất điểm lưu kim cổ
白 骨 千 年 隔 死 生
Bạch cốt thiên niên cách tử sinh
儘 有 猷 為 優 將 相
Tẩn hữu du vi ưu tướng tướng
無 妨 形 貌 厭 丹 青
Vô phương h́nh mạo yếm đan thanh
傖 心 近 日 昭 陵 樹
Thương tâm cận nhật Chiêu Lăng thụ
一 帶 啼 鵑 徹 渭 城
Nhất đái đề quyên triệt vị thành
dịch là:
Mộ Bùi Tấn Công
Đầu thu g̣ đống đồng không
Bên đường ghi mộ Tấn Công bia ṃn
Lưu danh thiên cổ ḷng son
Xương tàn ngăn cách chết c̣n đôi nơi
Tướng văn tướng vơ hơn đời
Tầm thường h́nh mạo tâm người vẽ sao
Chiêu Lăng ruột sót như cào
Vị Thành khắckhoải nghẹn ngào tiếng quyên
Hai câu đầu, Nguyễn Du ghi lại cảnh đồng không g̣ đống bên
đường chỗ có bia mộ Bùi Tấn Công, Dầu sống chết đôi nơi ông
hết ḷng tôn kính Bùi Công. Hai câu năm và sáu ông nhắc lại
câu Bùi Độ ghi trên bức truyền thần đại ư nói tướng mạo tầm
thương sao lại được làm tướng văn tuớng vơ? Phải chăng chỉ
tại cái tâm linh thiêng không ai vẽ được.
Trong hai câu kết, Chiêu Lăng là tên lăng vua Đường Thái
Tông ở Thiểm Tây, cách đó không xa có một khu táng các văn
thần vơ tướng có công lớn với triều đ́nh. Vị Thành là tên
một thành cổ ở huyện Tràng An, tỉnh Thiểm Tây.
Giới nghiên cứu thắc mắc v́ mộ Bùi Độ không ở trên lộ tŕnh
của Nguyễn Du và đặt câu hỏi phải chăng v́ Nguyễn Du ngưỡng
mộ Bùi Độ mà khởi hứng viết bài thơ này?
Sứ bộ tới sông Hoàng Hà. Cảnh trời nước của ḍng sông, những
h́nh ảnh đă đi vào thi ca Trung Quốc, khởi hứng cho Nguyễn
Du viết bài:
黃 河
Hoàng Hà
一 氣 茫 茫 混 沌 前
Nhất khí mang mang hỗn độn tiền
其 來 無 際 至 無 邊
Kỳ lai vô tế chí vô biên
天 潢 巨 派 九 千 里
Thiên Hoàng cự phái củu thiên lư
聖 主 休 期 五 百 年
Thánh chủ hưu kỳ ngũ bách niên
懷 古 未 皆 忘 夏 禹
Hoài cổ vị giai vong Hạ Vũ
至 今 誰 復 羨 張 騫
Chí kim thùy phục tiển Trương Khiên
秋 中 可 有 浮 槎 過
Thu trung khả hữu phù tra quá
我 欲 乘 之 再 上 天
Ngă dục thừa chi tái thượng thiên.
dịch là:
Hoàng Hà
Hỗn mang trời đất một bầu
Từ đâu chẩy tới về đâu chẳng tường
Thiên Hoàng chín ngàn dặm trường
Năm trăm năm ứng thánh vương giáng trần
Công ơn Hạ Vũ khó quên
Thời nay theo gót Trương Khiên mấy người
Thu nay tiện có bè xuôi
Ta mong thử ngược lên trời một phen.
Hoàng Hà là con sông lớn tại Trung Quốc, phát nguyên từ
Thanh Hải, chầy qua các tỉnh Cam Túc, Ninh Hạ, Tuy VIễn,
Thiểm Tây, Sơn Tây, Hà Nam Hà Bắc, Sơn Đông ra biển Đông.
Câu mở bài, Nguyễn Du dùng h́nh ảnh ban đầu của vũ trũ: tất
cả chỉ là một bầu khí gọi là hỗn mang. Câu thứ hai là h́nh
ảnh sông Hoàng Hà trong thần thoại Trung Quốc: sông khởi
nguồn tù trên trời. Lư Bạch cũng dùng h́nh ảnh này mở đầu
bài Tương Tiến Tửu
君 不 見 黃 河 之 水 天 上 來
Quân bất kiến Hoàng Hà chi thủy thiên thượng lai
奔 留 到 海 不 愎 回
bôn lưu đáo hải bất phục hồi.
Con sông dài chín ngàn dặm này, nước đầy phù sa nên gọi là
Hoàng Hà. Cứ năm trăm năm nước lại trong một lần đó là điểm
báo có vua sáng ra đời.
Từ cổ xưa vua Vũ nhà Hạ dậy dân tháo nước tránh lụt, dân c̣n
ơn tới ngày nay. Nhưng ngày nay chẳng c̣n mấy ai nhớ tích
người Trương Khiên dùng bè ngược sông Hoàng Hà du thuyết lập
bang giao các nước miền Tây Bắc Trung Quốc. Thế nên về sau
chiếc bè Trương Khiên là h́nh ảnh những chiếc thuyền của sứ
đoàn.
Trong hai câu kết, Nguyễn Du đang ở trên một chiếc bè Trương
Khiên xuôi ḍng sông Hoàng Hà. Ông tưởng tượng đến ngày
ngược ḍng sông này về nước, sung sướng khác ǵ ngược ḍng
Hoàng Hà lên trời.
Hành tŕnh của sứ bộ lại bị trờ ngại v́ nước lũ sông Hoàng
Hà làm nghẽn đường. Nguyễn Du ghi lại truyện này trong bài:
黃 河 阻 嘮
Hoàng Hà Trờ Lạo
龍 門 西 上 赤 雲 浮
Long Môn tây thướng xích vân phù
傾 盡 崑 崙 一 片 秋
Khuynh tận Côn Lôn nhất phiến thu
百 里 散 琉 無 定 派
Bách lư tản lưu vô định phái
一 波 矗 起 便 成 州
Nhất ba súc khởi tiện thành châu
麥 糕 土 狗 難 為 食
Mạch cao thổ cẩu nam vi thực
落 額 漂 萍 失 自 謀
Lạc mạch phiêu b́nh thất tự mưu
剩 有 閒 心 無 罣 磑
Thặng hữu nhàn tâm vô quái ngại
不 妨 終 日 對 浮 鷗
Bất phương chung nhật đối phù âu.
dịch là:
Nước Lụt Sông Hoàng Hà
Làm Trở Ngại
Long Môn mây đỏ miệt đoài
Côn Lôn trời xụp mé ngoài mưa giăng
Mênh mông trăm dặm nước dâng
Sóng phun bọt trắng ngập băng băi ngoài
Bánh khô thịt nguôi khó nhai
Bèo trôi cành gẫy rủi may tại trời
Ḷng không quản ngại thảnh thơi
Suốt ngày nh́m cánh chim trời lảm vui.
Thêm một lần nữa nước lũ làm trở ngại hành tŕnh của sứ
đoàn. cũng nhu những lần trước, trong bốn câu đầu Nguyễn Du
ghi lại những h́nh ảnh đe dọa mạng sống của sứ đoàn.
Ngay cả truyện ẩm thực của sứ bộ cũng bị thời tiết xấu làm
cho khó nuốt. Có một điểm đáng chú ư, đó là Nguyễn Du, vẫn
như trong những lần gặp trở ngại trên sông Minh Ninh, thấy
thân phận mong manh của con người, nhưng lần này ông phó mặc
cho may rủi của số mệnh, để rồi ông cảm thấy ḷng dạ thanh
thản, nh́n cánh chim trời lảm vui.
Qua khúc đường bị trở ngại, sứ bộ đi ngang qua mộ Tỷ Can.
Nhân dịp này Nguyễn Du ghi lại nhưng điều ông suy tư về nỗi
nguy hiểm trên đường thờ vua, với h́nh ảnh của vua Trụ, ông
vua cuối cùng của nhà Thương.
比 干 墓
Tỷ Can Mộ
遯 狂 君 子 各 全 身
Độn cuồng quân tử các toàn thân
八 百 諸 候 會 孟 津
Bát bách chư hầu hội Mạnh Tân
七 竅 有 心 安 避 剖
Thất khiếu hữu tâm an tỵ phẫu
一 丘 遺 殖 盡 成 人
Nhất khâu di thực tận thành nhân
目 中 所 觸 能 無 戾
Mục trung sở xúc năng vô lệ
地 下 同 遊 可 有 人
Địa hạ đồng du khả hữu nhân
慚 愧 貪 生 魏 田 舍
Tàm quí tham sinh Ngụy điền xá
忠 良 胡 亂 彊 相 分
Trung lương hồ loạn cương tương phân.
dịch là:
Mộ Tỷ Can
Giả điên bỏ trốn toàn thân
Tám trăm nước hội Mạnh Tân tâm đầu
Tim bẩy lỗ mổ chẳng nao
Thành nhân cây cối một khâu hăy c̣n
Mắt nh́n lệ rỏ ṛng ṛng
Suối vàng bạn hữu những mong xum vầy
Quê mùa lăo Ngụy hổ thay
Trung lương phân biệt chê bai làm ǵ.
Trong câu thứ nhất, Nguyễn Du nhắc tới truyện Vi Tử, anh của
vua Trụ phải đi trốn để tránh sự bạo ngược của vua và truyện
Cơ Tử, hàng chú bác của vua Trụ phải giả điên để giữ thân.
Câu thứ hai gợi lại truyện Chu Vũ Vương nhà Chu họp quân tám
trăm nước chư hầu để diệt Trụ. Câu thứ ba là truyện Tỷ Can,
can vua Trụ suốt ba ngày, khiến vua Trụ nổi giận nói: ‘ta
nghe nói tim thánh nhân có bẩy lỗ...’ bèn mổ ngực tỷ Can moi
tim ra xem. Câu thứ tư là lời sách Luận Ngữ: ‘hữu sát thân
dĩ thành nhân’ nghĩa là: có kẻ hy sinh thân ḿnh để đặt được
chữ nhân. Phải chăng trích dẫn này giúp người đọc hiễu hành
động liều thân của Tỷ Can?
Hai câu tiếp ông cho hay là ông bị súc động nhưng không nhỏ
lệ, và ỏ trần gian này chắc có người tri kỷ vói ông. Hai câu
kết ông nhác lại truyện Nguỵ Trung người thời Đường, có thói
nói thẳng can vua, và sau lưng ông, vua gọi ông là lăo quê
mùa, và sau hết là truyện Ngụy Trưng, chia quần thần thành
hai loại: trung thần người hết ḷng can vua mả bỏ mạng, và
lương thần là nhưng quan giỏi. Nguyễn Du dường như không
đồng ư vói Ngụy Trung.
Sau vụ nghẽn đường v́ nước lụt sông Hoàng Hà, một lần nữa
hành tŕnh của sứ bộ lại bị gián đoạn, không v́ thời tiết mà
v́ nạn đao binh. Nguyễn Du ghi lại biến cố này trong bài thơ
dài:
阻 兵 行
Trở Binh Hành
金 鑲 鑲 鐵 錚 錚
Kim tương tương thiết tranh tranh
車 馬 馳 驟 雞 犬 鳴
Xa mă tŕ sận kê khuyển minh
小 戶 不 閉 大 戶 閉
Tiểu hộ bất bế đại hộ bế
扶 老 蠵 幼 移 入 城
Phù lăo huề ấu di nhập thành
本 地 六 月 至 九 月 5
Bản địa lục nguyệt chí cửu nguyệt
滑 濬 二 縣 齊 稱 兵
Hoạt Tuấn nhị huyện tề xưng binh
賊 殺 官 吏 十 八 九
Tặc sát quan lại thập bát cửu
滿 城 西 風 吹 血 腥
Măn thành tây phong xuy huyết tinh
更 有 山 東 直 隸 遙 相 應
Cánh hữu Sơn Đông Trực Lệ dao tương ứng
白 蓮 異 術 爹 神 靈 10Bạch Liên dị thuật đa thần linh
州 官 聞 賊 至
Châu quan văn tặc chí
挑 燈 終 夜 籍 民 丁
Khiêu đăng chung dạ tịch dân đinh
州 弁 聞 賊 至
Châu biền văn tặc chí
磨 礪 刀 劍 戛 戛 鳴
Ma lệ đao kiếm kiết kiết minh
州 人 聞 賊 至 15Châu nhân văn tặc chí
三 三 五 五 交 頭 細 語 聲 咿 嚶
Tam tam ngũngũ giai đầu tế ngữ thanh y anh
行 人 遠 來 不 解 事
Hành nhân viễn lai bất giải sự
但 聞 城 外 進 退 皆 炮 聲
Đăn văn thànhngoại tiếnthoái giai pháo thanh
河 南 一 路 皆 振 動
Hà Nam nhất lộ giai chấn động
羽 檄 急 發 如 飛 星 20Vũ hịch cấp phát như phi tinh
滾 滾 塵 埃 蔽 天 日
Cổn cổn trần ai tế thiên nhật
步 騎 一 縱 復 一 橫
Bộ kỵ nhất tung phục nhất hoành
騎 者 彎 角 弓
Kỵ giả loan giác cung
長 箭 滿 壺 白 羽 翎
Trường tiễn măn hồ bạch vũ linh
步 者 肩 短 槊 25Bộ giả kiên đoản sáo
新 磨 鐵 刃 懸 朱 纓
Tân ma thiết nhận huyền chu anh
又 有 新 點 丁 壯 之 兵 器
Hựu hữu tân điểm đinh tráng chi binh khí
削 竹 為 鎗 皮 上 青
Tước trúc vị thương b́ thượng thanh
大 車 載 弓 繳
Đại xa tải cung chước
小 車 裝 尖 釘 30Tiểu xa trang tiêm đinh
終 日 往 來 無 暫 停
Chung nhật văng lai vô tạm đ́nh
數 百 里 地 遍 戈 甲
Sổ bách lư địa biến qua giáp
道 路 壅 塞 無 人 行
Đạo lộ ủng tắc vô nhân hành
長 宋 長 嘆 短 宋 默
Trường tống trường thán đoản tống mặc
進 退 維 谷 難 為 情 35Tiến thoái duy cốc nan vị t́nh
咋 日 黃 河 水 大 至
Tạc nhật Hoàng Hà thủy đại chí
五 日 無 食 棲 沙 汀
Ngũ nhật vô thực thê sa đinh
今 日 衛 州 阻 盜 賊
Kim nhật Vệ Châu trở đạo tặc
安 得 風 車 日 萬 里 40An đắc phong xa nhật vạn lư
飛 身 一 息 來 天 京
Phi thân nhất tức lại thiên kinh
吾 聞 內 顧 頻 年 苦 荒 草
Ngô văn nội cố tần niên khổ hoang thảo
只 有 春 作 無 秋 成
Chỉ hữu xuân tác vô thu thành
湖 南 河 南 久 無 雨
Hồ Nam Hà Nam cữu vô vũ
自 春 徂 秋 田 不 耕 45Tự xuân tồ thu điền bất canh
大 南 小 女 頻 饑 色
Đại nam tiểu nhữ tần cơ sắc
糠 秕 為 食 蔾 為 羹
Khang b́ vi thục lê vi canh
眼 見 饑 莩 當 道
Nhăn kiến cơ phu tử đương đạo
懷 中 棗 子 身 邊 傾
Hoài trung táo tử thân biên khuynh
空 屋 壁 上 有 查 字 50Không ốc bích thưọng hữu tra tự
數 百 餘 戶 皆 饑 零
Sổ bách dư bộ giai cơ linh
小 民 不 忍 寒 且 饑
Tiểu dân bất nhẫn hàn thả cơ
苟 圖 飽 燠 身 為 輕
Cẩu đồ băo úc thân vi khinh
潢 池 弄 甲 不 足 道
Hoàng tŕ lộng giáp bất túc đạo
稍 加 存 恤 當 自 平 55Sảo gia tồn tuất đương tự b́nh
民 死 在 歲 不 在 我
Dân tủ tại tuế bất tại ngă
勿 得 欺 心 蔽 聖 明
Vật đắc khi tâm tế thánh minh
咋 見 新 鄭 城 中 粘 榜 示
Tạc kiến TânTrịnh thànhtrung niêm bảng thị
按 戶 給 蘇 殘 氓
Án hộ cấp túc to tàn manh
黃 河 以 北 麥 又 熟 60Hoàng Hà dĩ bắc mạnh hựu thục
百 日 而 輩 妻 子 皆 得 生
Bách nhật nhi bối thê tử giai đắc sinh
歸 來 歸 往 勿 作 死
Quy lai quy văng vật tác tử
撫 臣 惠 保 如 父 兄
Phủ thần huệ bảo như phụ huynh.
dịch là:
Bài Hành Binh Biến Nghẽn Đường
Xốn xang vàng sắt bốn bề
Gà kêu chó sủa ngụa xe ồn ào
Giầu giữ của khó giữ đầu
D́u già dắt trẻ kéo nhau vào thành
5Hai vùng Hoạt Tuấn lửa binh
Kể từ tháng sáu đă linh trăm ngày
Muời quan giặc giết c̣n hai
Đầy thành vấy máu gió tây tanh nồng
Lại thêm Trực Lệ Sơn Đông
10Bạch Liên hoán vũ hô phong hoành hành
Quan châu nghe giặc đến thành
Suốt đêm kiểm số tráng đinh bên đèn
Vơ quan nghe giặc tiến gần
Mài gươm mài giáo cắt quân canh pḥng
15Dân châu nghe giặc sởn ḷng
Tốp năm tốp bẩy th́ thầm nhỏ to
Khách đuờng xa khó thăm ḍ
Ngoài thành súng nổ đắn đo tiến lùi
Hà Nam náo động khắp nơi
20Hịch lông hỏa tốc ngang trời như bay
Mờ trời bụi cuốn cát lầy
Bộ ngang kỵ dọc đêm ngày chuyển quân
Kỵ binh sừng cứng làm cung
Tên dài đuôi trắng bên lưng ống đầy
25Bộ binh giáo ngắn vác vai
Tua bay đỏ rực lưỡi mài sáng xanh
Lại thêm lớp lớp tráng đinh
Chặt tre làm gậy vỏ xanh hăy c̣n
Dây cung xe lớn một đoàn
30Bàn chông nhọn hoắt xe con chất đầy
Ngưọc xuôi di chuyển suốt ngày
Dàn quân trăm dặm trong ngoài nơi nơi
Đường quan nghẽn giặc vắng ngụi
Gần xa đưa tiễn bùi ngùi khóc than
35Tiến lùi trắc trở khó khăn
Sánh kỳ nghẽn lụt sông Hoàng mới đây
Băi sông nhịn đói năm ngày
Vệ Châu nghẽn giặc chuyến này lo hơn
Đường trước mặt bao giờ yên
40Ước xe mọc cánh tới liền Thiên Kinh
Nghe tin nội địa hiện t́nh
Có cầy mất gặt trời hành mấy năm
Từ Hồ Nam tới Hà Nam
Xuân thu hạn hán điêu tàn khổ dân
45Gái trai lớn nhỏ đói nhăn
Sống bằng củ chuối cỏ cằn bấy nay
Bên đường chết đói nằm đầy
Da nhăn hạt táo thân gầy dơ xương
Nhà hoang chữ ‘xét’ trên tường
50Vài ba trăm hộ kiếm đường bỏ đi
Dân đen đói rét phải khi
Chỉ cầu no bụng xá ǵ đến thân
Khiến t́m binh khí liều thân
Thương dân t́m kế yên dân lâu dài
55Hạn tại trời chẳng tại ai
Nói vầy dối chúa nào hay dối ḿnh
Hôm qua bảng yết cửa thành
Theo hộ phát gạo dân lành yên tâm
Vụ mùa lúa sắp đưọc ăn
60Nội trăm ngày nữa b́nh an mọi bề
Giữ lấy thân sớm quay về
Vợ chờ con đợi sớm về là hơn
Phủ thần phủ dụ ban ơn.
Bài hành này, một lần nũa cho người đọc thấy nỗi nguy hiểm
của việc đi sứ, lần này không phải do thiên tai mà do loạn
lạc. Cảnh hạn hán dân làm loạn mà Nguyển Du ghi lại tường
tận trong bài khiến người đọc liên tưởng đến nhiều áng thơ
dài của Đỗ Phủ cùng một đề tài.
Tác giả dường như không nói tới ḿnh trong bài hành 63 câu
này, ngoại trừ ông thoáng mong ước sớm tới được Yên Kinh, và
sợ bị nghẽn nhiều ngày như kỳ gặp nước lủ trên sông Hoàng
Hà. Ông b́nh thản nhớ lời sách Hán Thư:
湟 池 弄 甲
hoàng tŕ lộng giáp
theo giới nghiên cứu nghĩa là, đói rét dân làm loại, ví như
trẻ đùa nghịch giả làm binh lính trong ao, để viết câu 53.
Cũng như nhớ lời sách Mạnh Tử:
民 死 在 歲 不 在 我
dân tử tại tuế bất tại ngă
nghĩa là:
dân chết tại năm [xấu] đâu phải tại ta để viết câu 55.
Tiếp tục cuộc hành tŕnh, sứ bộ đi ngang đền thờ Thị Trung
họ Kê, Nguyễn Du viết bài:
嵇 侍 中 祠
Kê Thị Trung Từ
古 廟 松 篁 一 帶 幽
Cổ miếu tùng hoàng nhất đái thu
清 風 猶 似 竹 林 秋
Thanh phong do tự trúc lâm thu
廣 陵 調 絕 餘 清 響
Quảng Lăng điệu tuyệt dư thanh hưởng
正 氣 歌 成 立 懦 夫
Chính khí ca thành lập nọa phu
亙 古 未 乾 流 血 地
Cắng cổ vị càn lưu huyết địa
奇 忠 能 破 問 蟆 愚
Kỳ trung năng phá vấn mô ngu
可 憐 江 左 多 名 士
Khả liên Giang Tả đa danh sĩ
空 對 江 山 泣 楚 囚
Không đối giang san khấp Sở tù.
dịch là:
Đền Kê Thị Trung
Miếu xưa thông trúc xum xuê
Thanh tao dường cảnh thu về Trúc Lâm
Quảng Lăng chưa dứt dư âm
Bài ca chính khí hùng tâm c̣n truyền
Ngàn năm máu thấm đất đen
Dại ngu phá vỡ do bền ḷng trung
Danh nhân Giang Tả đáng thương
Thân tù đất Sở khóc suông lẽ nào.
Kê Thị Trung tức Kê Thiệu, con Kê Khang, làm quan tới chức
Thị Trung đời vua Tấn Huệ
Đế (290-306). Khi vua Huệ Đế bị giặc đuổi, tên bắn như mưa,
Kê Thiệu lấn thân ḿnh che
cho vua, chết, máu phun vào đầy áo vua. Kê Khang là người
đứng đầu Trúc Lâm Thất Hiền.
Nguyễn Du đi ngang qua miếu Kê Thiệu mà nhớ tới mùa thu rừng
trúc, dường như thấy
Nguyễn Du muốn nói cha con Kê Khang và Kê Thiệu tiết khí như
nhau, tiếp theo câu thứ ba,
tác giả nhắc tới khúc Quảng Lăng, một điệu đàn do Kê Khang
sáng tác, ngày ông bị dẫn ra
pháp trường, ông gẩy khúc này lần cuối và tiếc là chua t́m
được người tri kỷ để truyền lại
ngón đàn này. Nguyễn Du cho là v́ Kê Thiệu cũng tiết tháo
như cha, nên khúc Quảng Lăng
dường như vẫn c̣n dư âm. Trong câu thứ tư, Chính Khí Ca là
bài ca của Văn Thiên Tường
đời Nam Tống viết ca ngợi Kê Thiệu. Câu thứ năm, Nguyễn Du
gợi lại h́nh ảnh Kê Thiệu dùng
thân thể ḿnh làm mộc che cho vua mà chết. Và đối với h́nh
ảnh này là truyện cái ngu đần
của Huệ Tấn Vương nhưng vẫn trợng người trung thần: vua
không cho giặt vết máu Kê Thiệu
bắn lên áo bào để luôn luôn tỏ ḷng biết ơn cứu mạng của Kê
Thiệu. Hai câu kết, tác giả tỏ ư
thương hại danh sĩ đất Giang Tả, nước mất mà chỉ nh́n nhau
khóc suông như bọn tù nước
Sở đời xa xưa.
Sứ đoàn đi ngang nền đài Đồng Tước, xây ở thành Nghiệp
Thành, về phiá tây nam huyện
Lâm Chương, tỉnh Hà Bắc. Đài nài do Tào Tháo cho dựng năm
Kiến An thứ XV (210) để làm
chỗ lui tới mua vui, và cũng không dấu ư định là nếu đánh
bại Đông Ngô sẽ bắt hai nàng họ
Kiều, một là vợ Tôn Sách, vua nước Ngô, và một là vợ Chu Du
đại tướng nước Ngô, đem về
giữ tại đài đó.
Tào Tháo, nổi tiếng là một gian thần, nhưng đồng thời là một
đại anh hùng đời Tam Quốc.
Đi qua nền đài Đồng Tước, Nguyễn Du không khỏi suy nghĩ về
truyện hưng thịnh của các
triều đại, cái phù du của kiếp người, để thấy lẽ vô thường,
mà ngao ngán cho chữ công danh
lôi cuốn con người, gây bao nỗi thống khổ cho con người. Ông
ghi lại những suy tư đó trong
bài thơ dài hai mươi sáu câu dưới đây:
銅 雀 薹
Đồng Tước Đài
一 世 之 雄 安 在 哉
Nhất thế chi hùng an tại tai
古 人 去 兮 今 人 來
Cổ nhân khú hề kim nhân lai
不 見 鄴 中 魏 武 帝
Bất kiến Nghiệp trung Nguỵ Vũ đế
但 見 江 邊 銅 雀 薹
Đăn kiến giang biên Đồng Tước Đài
臺 基 雖 在 已 傾 圮
5Đài cơ tuy tại dĩ khuyng bĩ
陰 風 怒 號 秋 草 靡
Âm phong nộ hào thu thảo mỹ
玉 龍 金 鳳 盡 芒 芒
Ngọc Long Kim Phượng tận mang mang
何 況 臺 中 歌 舞 妓
Hà huống đài trung ca vũ kỹ
斯 人 盛 時 誰 敢 當
Tư nhân thịnh thời thùy cảm đương
眇 視 皇 帝 凌 侯 王
10Diểu thị hoàng đế lăng hầu vương
只 恨 層 臺 空 律 屼
Chỉ hận tằng đài không luật ngột
小 喬 終 老 嫁 周 郎
Tiểu Kiều chung lăo giá Chu lang
一 朝 大 限 有 時 至
Nhất triêu đại hạn hữu th́ chí
尚 食 奏 歌 圖 悅 鬼
Thượng thục tấu ca đồ duyệt quỷ
分 香 賣 履 苦 叮 嚀
15Phân hương mại lư khổ đinh ninh
落 落 丈 夫 何 爾 爾
Lạc lạc trượng phu hà nhĩ nhĩ
奸 雄 別 自 有 機 心
Gian hùng biệt tự hữu cơ tâm
不 是 鳴 哀 兒 女 氣
Bất thị minh ai nhi nữ khí
千 幾 萬 巧 盡 成 空
Thiên cơ vạn sảo tận thành không
終 古 傷 心 漳 江 水
20 Chung cổ thương tâm Chương Giang thủy
我 思 古 人 傷 我 情
Ngă tư cổ nhân thuong ngă t́nh
徘 徊 俯 仰 悲 浮 生
Bồi hồi phủ ngương bi phù sinh
如 此 英 雄 且 如 此
Như thử anh hùng thả như thử
況 乎 寸 功 與 薄 名
Huống hồ thốn công dữ bạc danh
人 間 勳 業 若 長 在
25 Nhân gian huân nghiệp nhược trường tại
此 地 高 臺 應 未 傾
Thử địa cao đài ưng vị khuynh.
dịch là:
Đài Đồng Tước
Anh hùng mấy cũng một thời
Tre già măng mọc cơ trời cao sâu
Nghiệp đô Ngụy đế nay đâu
C̣n đài Đồng Tước dăi dầu bên sông
5Đài đổ nát nền vẫn c̣n
Tṛi thu cỏ áy gió hờn oán than
Ngọc Long Kim Phượng tiêu tan
Hống hồ ca nữ phách đàn năm nao
Thủa đương thịnh ai đương đầu
10Coi thường hoàng đế vương hầu rẻ khinh
Mộng xây đài lớn dẫu thành
Tiểu Kiều trọn kiếp vẹn t́nh Chu Lang
Sớm kia số tận mệnh tàn
Cúng dâng nhă nhạc cỗ bàn liệu lo
15Chia hương bán dép dặn
ḍ
Trượng phu lỗi lạc nào ngờ thế ư
Gian hùng hằng sẵn tâm cơ
Khác chi nhi nữ vật vờ khóc thương
Mưu sâu kế sảo bằng không
10Bùi ngùi nh́n sóng ḍng Chương
dập dềnh
Ngẫm truyện xưa ngán nỗi ḿnh
Đau ḷng thương kiếp phù sinh ngắn dài
Anh hùng đến vậy như vầy
Công danh chút đỉnh thân này kể chi
25Nếu có thịnh chẳng có
suy
Th́ đài Đồng Tước cớ chi chẳng c̣n.
Nguyễn Du đặt bài thơ dài này trong khuôn khổ lẽ đại hóa.
Anh hùng tài giỏi đến mấy rồi
cũng phải chết, nhường chỗ cho nguời đời kế tiếp. Ngụy đế
hay Tào Tháo cũng không ngoài
lẽ đó. Dẫu xây được đài Đồng Tước với hai lầu Ngọc Long và
Kim Phương cao ngút trời, th́
nay đài cũng đổ nát, chỉ c̣n lại cái nền dại dầu mưa nắng
với thời gian. Xây được lầu, nhưng
giấc mộng bắt được hai nàng họ Kiều về làm tỳ thiếp vẫn
không thành. Rồi tới ngày Tào Tháo
tận số, ông dặn ḍ tỳ thiếp ở đài Đồng Tước phải hàng ngày
cúng tế, có nhă nhạc múa hát
dâng cơm. Lại c̣n chia hương quư cho tỳ thiếp rồi căn dặn họ
phải siêng năng việc nữ công,
thêu giầy bán mà sinh sống.