Tiếp theo
ba bài Tạp Ngâm trên đây, Thanh Hiên Thi Tập chép hai bài
thơ gửi Thực Đ́nh.
Ông này là ai, giới nghiên cứu chưa t́m rơ đưọc tung tích.
Bài thứ
nhất như sau:
贈 實 亭
Tặng Thực Đ́nh
天 鶴 潭 魚 何 處 尋
Thiên hạc đàm ngư hà xứ tầm
羅 城 一 別 十 年 深
La Thành nhất biệt thập niên thâm
同 年 對 面 隔 天 壤
Đồng niên đối nghiệp cách thiên nhưỡng
往 事 回 頭 成 古 今
Văng sụ hồi đầu thành cổ kim
白 髮 消 磨 貧 士 氣
Bạch phát tiêu ma bần sĩ khí
綈 袍 珍 重 古 人 心
Đề bào trân trọng cố nhân tâm
莫 愁 僻 地 無 佳 客
Mạc sầu tịch địa vô giai khách
藍 水 鴻 山 足 詠 吟
Tiếp
theo ba bài Tạp Ngâm trên đây, Thanh Hiên Thi Tập chép hai
bài thơ gửi Thực Đ́nh. Ông này là ai, giới nghiên cứu chưa
t́m rơ đưọc tung tích. Bài thứ nhất như sau:
Lam
thủy Hồng Sơn túc vị ngâm
dịch
là:
Tặng
Thực Đ́nh
Cá đầm
chim hạc biệt tăm
La
Thành giă biệt mười năm qua rồi
Bạn bè
đôi ngả đôi noi
Chuyện
xưa nh́n lại xa vời cổ kim
Bạc đầu
chí khí tan ch́m
Áo thêu
người cũ c̣n t́m trọng ai
Chớ sầu
hẻo lánh thôn ngoài
Lam
Giang Hồng Lĩnh c̣n dài vịnh ngâm.
Giới
nghiên cứu chưa t́m ra đươc Thực Đ́nh là nhân vật nào. Trong
câu thứ ba có hai chữ đồng
niên, ngụi đọc biết ông là bạn cùng khóa với Nguyễn Du. Hai
người có thời quen biết
nhau
tại Nghệ An. Chữ đề bào, nghĩa là áo bào thêu, Nguyễn Du
dùng trong câu thứ năm là điển lấy từ truyện Phạm Thư, Thái
Trạch trong sách Sử Kư của Tư Mă Thiên 14, truyện của hai
nhà du thuyết thời Xuần Thu. Phạm Thư là người nước Ngụy.
Khởi nghiệp Thư phải giúp việc chu Tu Giả, đi sứ sang nước
Tề. Dịp đó Phạm Thư được vua Tề cho vàng bạc và rượu thịt.
Tu Giả, giận lắm, chỉ cho Pham thư nhận rưọu thịt và bắt trả
lại vàng bạc. Về nước, Phạm Thư bị hạch tội, phạt đánh roi,
gẫy xương rụng răng. Thư giả chết, trốn thoát cải tên đổi họ
thành Trương Lộc tiếp tục làm nghề thuyết khách, sau làm
tướng quốc nước Tần. Tu Giả đi sứ sang Tần. Phạm Thư giả làm
thường dân tới thăm. Tu Giả nhận ra Phạm Thư, nhưng không
biết Phạm Thư là tướng quốc nước Tần, ban cho Phạm Thư một
tấm áo thêu. Sau đó Tu Giả biết
Phạm
Thư là tướng quốc nước Tần, sợ hăi xin tạ tội. Phạm Thư nói:
‘ban cho một tấm áo thêu đủ tỏ ḷng ông c̣n quyến luyến nhớ
tói bạn xưa, và bỏ qua hết truyện cũ. Rồi tới lá thư thứ
hai:
復
實
亭
Phúc
Thực Đ́nh
冬
寒
夏
暑
故
侵
尋
Đông
hàn hạ thử cố xâm thầm
老
大
頭
顱
歲
月
深
Lăo đại
đầu lô tuế nguyệt thâm
京
國
鶯
花
千
里
外
Kinh
quốc oanh hoa thiên lư ngoại
江
湖
蓑
笠
十
年
Giang
hồ thoa lạp thập niên kim
聚
頭
難
得
常
青
目
Tụ đầu
nan đắc thường thanh mục
理
髮
當
知
未
白
心
Lư phát
đương tri vị bạch tâm
藍
水
鴻
山
無
限
勝
Lam
thủy Hồng Sơn vô hạn thắng
憑
君
收
拾
助
清
吟
Bằng
quân thu thập trợ thanh ngâm.
Dịch
là:
Trả Lời
Thực Đ́nh
Hạ đông
nóng lạnh đổi thay
Cái già
chồng chất tháng ngày trôi qua
Kinh kỳ
ngàn dặm anh hoa
Áo tơi
nón lá nay đà mười năm
Mắt
xanh gặp gỡ khó khăn
Cảnh
như tóc rối bạch tâm khó bầy
Lam
Hồng sông núi chốn đây
Chờ anh
thâu lượm vơi đầy túi thơ.
Thanh
Hiên Thi Tập không chép lá thư Thực Đ́nh gừi Nguyễn Du. Tut
nhiên nếu chỉ bằng vào lá thư trên đây, người đọc thấy qua
câu thứ sáu, dường như trong hoàn cảnh đương thời, Nguyễn Du
thấy gặp khó khăn nên không muốn trả lời trực tiếp trong
thư, và chỉ có ư muốn mời Thức Đ́nh về chơi Hồng Lĩnh ngâm
vịnh.
Bài
tiếp theo là bài cuối cùng Nguyễn Du viết trước khi ra làm
quan với triều Nguyễn. Đó là bài:
獵
Liệp
衣
冠
達
者
志
青
雲
Y quan
đạt giả chí thanh vân
吾
亦
樂
吾
糜
鹿
群
Ngô
diệc lạc ngô mi lộc quần
解
釋
閒
情
安
在
獲
Giải
thích nhàn t́nh an tại hoạch
屏
除
異
類
不
妨
仁
B́nh
tŕ dị loại bất phương nhân
麝
眠
淺
草
香
猶
Xạ miên
thiển thảo hương do thấp
犬
渡
重
山
吠
不
聞
Khuyển
phệ trùng sơn hệ bất văn
浮
世
為
歡
各
有
道
Phù thế
vi hoan các hữu đạo
驅
車
擁
蓋
是
何
人
Khu xa
ủng cái thị hà nhân.
dịch
là:
Đi Săn
Thanh
vân mũ áo cân đai
Ta vui
với lũ hươu nai đủ rồi
Cốt
khuây khỏa lợi kệ người
Giết
loài khác giống chẳng dời chữ nhân
Xạ
hương thơm mát cỏ non
Biệt
tăm tiếng chó sau ḥn núi xanh
Thú vui
trần thế tùy ḿnh
Xe đưa
lọng đón dập d́nh mặc ai.
Bài thơ
như biểu thị cùng một tâm cảnh của tác giả hệt như ba bài
Tạp Ngâm trên đây.
Thanh
vân, nghĩa nôm là mây xanh, là h́nh ảnh chỉ những người hiển
đạt có mũ áo cân đai.
Nguyễn
Du thích vui với bầy hươu nai, và đă chạy đuổi săn hươu nai,
chẳng phải để kiếm lợi, cũng chẳng lo sát sinh hại đến chữ
nhân. Ông hưởng mùi thơm băi cỏ non, ông lắng chờ nghe tiếng
chó sủa bên kia ḥn núi. Ông tự nhủ là thú vui ở cơi trần
thế này ai thích cái ǵ tùy người đó. Nhưng xe long đón đưa
th́ ông kệ người.
Thú săn
hươu nai là cái thú ông nhắc nhỏ tới trong bài thơ gửi bạn
sau khi ông đă ra Bắc Hà lam quan với triều nhà Nguyễn.
寄
友
Kỳ Hữu
鴻
山
山
月
一
侖
明
Hồng
Sơn sơn nguyệt nhất luân minh
千
里
長
安
此
夜
情
Thiên
lư trường An thử dạ t́nh
太
璞
不
全
真
面
目
Thái
phác bất toàn chân diện mục
一
州
何
事
小
功
名
Nhất
châu hà sự tiểu công danh
有
生
不
帶
公
侯
骨
Nhất
sinh bất đái công hầu cốt
無
死
終
尋
家
鹿
盟
Vô tử
chung tầm gia lộc minh
羨
殺
北
窗
高
臥
者
Tiển
sát bắc song cao ngọa giả
平
居
無
事
到
虛
靈
B́nh cư
vô sự đáo hư linh.
dịch
là:
Gửi Bạn
Nhớ non
Hồng Lĩnh tṛn trăng
Kinh kỳ
ngàn dặm ngổn ngang dạ này
Chẳng
c̣n thái phác từ nay
Công
danh chức nhỏ không ngoài một châu
Sinh
không có tướng công hầu
Sống mơ
cái thú bạn bầu hươu nai
Những
mong song bắc nằm dài
Hư linh
t́m nẻo dở hay mặc người.
Qua câu
thứ tư, giới nghiên cứu cho rằng Nguyễn Du viết lá thư này
khi ra Bắc nhiệm chức Tri Huyện Phù Dung (Phủ Cừ) Hưng Yên.
Điểm đáng để ư là từ nay ông tự coi ḿnh, theo nhiều nhà
nghiên cứu, như không c̣n nguyên vẹn tính thái phác. Hai chữ
này Nguyễn Du
trích
Chiến Quốc Sách lấy từ lời Nhan Xúc từ chối lời mời của Tề
Vương: “Ngọc sinh từ trong núi. Muốn lấy ngọc phải phá
núi, không phải là không quư, nhưng không toàn vẹn tính thái
phác” v́ lẽ ông đă ra làm quan với triều nhà Nguyễn. Ông tự
cho ḿnh không có tướng công
hầu,
hay đúng hơn là ông không muốn ra làm quan, vẫn c̣n nhớ cái
thú đi săn, ước mong đời sống ần dật như Đào Tiềm nằm bên
song bắc, và t́m lối về hư linh, mọi thế sự bỏ ngoài tai.
Người
đọc có thể coi thái độ trên đây là một thái độ thiếu thành
tâm, nhưng nh́n chung trong văn học Đông Á, nhiều nhà nghiên
cứu đă cho thái độ này là nếp sống của nhà nho đứng trước
cái đối đăi giữa tính hữu vi của nho học và tính vô vi của
Lăo và Phật học. Đó là nếp sống của những nhà nho xử trong
khi xuất, nói theo Bạch Cư Di, như sẽ tŕnh bày trong đoạn
sau.
Những
ngày ông mới ra làm quan và sống bên sông La Phù, Nguyễn Du
lấy niềm nhớ quê làm thi hứng, trong hai bài kế tiếp. Một
là bài:
羅
浮
江
水
閣
獨
坐
La Phù
Giang Thủy Các Độc Tọa
水
閣
閣
下
江
水
深
Thủy
các các hạ giang thủy thâm
水
閣
閣
上
人
沉
吟
Thủy
các các thượng nhân trầm ngâm
悠
悠
雲
影
變
晨
夕
Du du
vân ảnh biến thần tịch
滾
滾
浪
花
浮
古
今
Cổn cổn
lăng hoa phù cổ kim
塵
世
百
年
開
眼
夢
Trần
thế bách niên khai nhăn mộng
鴻
山
千
里
倚
欄
心
Hồng
Sơn thiên lư ỷ lan tâm
徘
徊
對
景
獨
無
語
Bồi hồi
đối cảnh độc vô ngữ
白
髮
數
莖
垂
我
襟
Bạch
phát sổ hành thùy ngă khâm.
dịch
là:
Một
Ḿnh trên Thủ Các Sông La Phù
Dưới
chân thủy các nước sâu
Đứng
trên thủy các trĩu sầu ḷng ai
Mây
chiều nắng sớm đổi thay
Cổ kim
sóng cuốn sông dài chẩy xuôi
Trăm
năm mắt mở mộng đời
Nhớ về
Hồng Lĩnh xa xôi tựa cầu
Nín lời
đối cảnh nao nao
Xổ tung
tóc trắng trên đầu áo vương.
Hai là
bài:
初
月
Sơ
nguyệt
吸
得
陽
光
纔
上
天
Hấp đắc
dương quang tài thướng thiên
初
三
初
四
未
團
園
Sơ tam
sơ tứ vị đoàn viên
嫦
娥
庄
鏡
微
開
匣
Thường
nga trang kính vi khai hạp
壯
士
彎
弓
不
上
弦
Tráng
sĩ loan cung bất thuớng huyền
千
里
關
山
無
改
數
Thiên
lư quan sơn vô cải sắc
一
庭
霜
露
共
愁
眠
Nhất
đ́nh sương lộ cộng sầu miên
徘
徊
正
憶
鴻
山
夜
Bồi hồi
chính ức Hồng Sơn dạ
卻
在
羅
浮
江
水
邊
Khước
tại La Phù giang thủy biên.
dịch
là:
Trăng
Non
Ló chân
trời ngậm ánh dương
Mùng ba
mùng bốn nơn nường liềm trăng
Vành
gương hé nắp chị Hằng
Dây
cung chưa mắc há giăng anh hùng
Quan
san một vẻ dặm trường
Giấc
sầu giục giấc móc sương đầy thềm
Đêm nao
Hồng Lĩnh trắng đêm
Mà nay
nấn ná thủy biên La Phù.
Thi tứ
trong cả hai bài trên đây đều giăi tỏ niểm nhớ quê hương,
nhớ những ngày vui của tác giả tại Hồng Lĩnh, khiến ông thấy
như ḿnh già hơn, tóc rụng nhiều hơn, mà cơ hội ông chờ đợi
dường như đang tới, nhưng chính trong thâm tâm ông chưa sẵn
sàng, như người tráng sĩ có cung trong tay mà chưa mắc dây
cung.
Tâm
cảnh đó dường như đưa Nguyễn Du về với kinh sách Lăo Học,
như ông ghi lại trong bài sau đây:
偶
興
Ngẫu
Hứng
二
首
Nhị Thủ
其
一
Kỳ Nhất
初
更
鼓
角
五
更
雞
Sơ canh
cổ giác ngũ canh kê
終
夜
徘
徊
思
轉
迷
Chung
dạ bồi hồi tứ chuyển mê
明
月
滿
天
何
故
故
Minh
nguyệt măn thiên hà cố cố
西
風
吹
我
正
淒
淒
Tây
phong xuy ngă chính thê thê
傖
殘
物
性
悲
鳧
脛
Thương
tàn vật tính bi phù hĩnh
刻
雒
天
真
失
馬
蹄
Khắc
lạc thiên chân thất mă đề
若
遇
山
中
糜
鹿
友
Nhược
ngộ sơn trung mi lộc hữu
煙
霞
舊
話
不
堪
提
Yên hà
cựu thoại bất kham đề.
其
二
Kỳ Nhị
一
淚
天
涯
洒
斷
蓬
Nhất lệ
thiên nhai sái đọan bồng
羅
浮
江
上
起
秋
風
La Phù
giang thượng khởi thu phong
黃
雲
白
水
兩
相
照
Hoàng
vân bạch thủy lương tương chiếu
急
管
悲
絲
萬
不
同
Cấp
quản bi ty vạn bất đồng
六
尺
拘
糜
長
役
役
Lục
xích câu mi trường dịch dịch
四
時
拋
躑
太
匆
匆
Tứ thời
phao trịch thái thông thông
征
鴻
影
裡
家
何
在
Chinh
hồng ảnh lư gia hà tại
隱
隱
瓊
雲
三
兩
風
Ẩn ẩn
quỳnh vân tam lương phong.
dịch
là:
Ngẫu
Hứng
Bài I
Ốc vào
canh gà tàn canh
Suốt
đêm tính quẩn lo quanh bồi hồi
Trăng
ngà vằng vặc một trời
Gió tây
heo hút dạ tôi bộn bề
Hại
tính vật nối chân le
Đổi
thiên chân sót mă đề đớn đau
Hươu
nai bạn cũ non sâu
Truyện
xưa khói ráng từ lâu chẳng bàn.
Bài II
Lệ bên
trời tưới cánh bồng
Gió thu
chợt nổi bên sông La Phù
Mây
vàng nước bạc mịt mù
Tơ
trùng sáo gấp tiềng thu nghẹn ngào
Tấm
thân sáu thước dịch lao
Bốn mùa
vùn vụt khác nào thoi đưa
Cánh
hồng giục nhớ nhà xưa
Mây
quỳnh cuồn cuộn tỏ mờ núi xa.
H́nh
ảnh nối chân le, gọt móng ngựa, lấy từ hai thiên Biền Ngẫu
và Mă Đề sách Trang Tử Nam Hoa Kinh, dùng trong hai câu năm
và sáu bài Ngẫu Hứng I, là những h́nh ảnh tác giả đă dùng
trong bài Tự Thán I. Trong bài Ngẫu Hứng II, h́nh ảnh cỏ
bồng ĺa gốc, và tấm thân bẩy thước cũng là h́nh ảnh tác giả
đă dùng để tự họa trong bài Tụ Thán II. Có điểm khác nhau là
trong hai bài Tự Thán, trong những ngày tản cư, tác giả lo
sợ cho tương lai, ước ao vào rừng xuống tóc ở ẩn, và trong
hai bài Ngẫu Hứng trên đây tác giả chỉ giăi bầy tâm cảnh nhớ
nhà của ông, nhớ những ngày sống trong cảnh đường cùng, mà
bây giờ ông lại thấy là cảnh vui đáng sống lại. Phải chăng
tâm cảnh đó là phản ảnh của đời sống lúc này, ông ra làm
quan trái ngược với bẩm tính của ông?
Tâm
cảnh trên c̣n là hứng thơ của nguyễn Du trong hai bài kế
tiếp đưới đây:
暮
春
漫
興
Mộ Xuân
Mạn Hứng
一
年
春
色
九
十
日
Nhất
niên xuân sắc cửu thập nhật
拋
擲
春
光
殊
可
憐
Phao
trịch xuân quang thù khả liên
浮
世
功
名
看
鳥
過
Phù thế
công danh khán điểu quá
閒
庭
節
序
帶
鶯
遷
Nhàn
đ́nh tiết tự đái oanh thiên
側
身
不
出
有
影
外
Trắc
thân bất xuất hữu h́nh ngoại
千
歲
長
憂
未
死
前
Thiên
tuế trường ưu vị tử tiền
浮
利
榮
名
終
一
散
Phù lợi
vinh danh chung nhất tán
何
如
及
早
學
神
仙
Hà như
cấp tảo học thần tiên.
dịch
là:
Mạn
Hứng Cuối Xuân
Một năm
chín chục ngày xuân
Thương
ai phung phí nắng xuân bấy chầy
Công
danh dường cánh chim bay
Tùy mùa
thời tiết vần xoay đổi dời
H́nh
ngoài ràng buộc thân người
Chết kề
câu chuyện ngàn đời c̣n lo
Lợi
danh rồi cũng thành tro
Thần
tiên sao chẳng học cho kịp thời.
Đi t́m
yên vui là truyện con người ai ai cũng đuổi đeo. Qua bài Mộ
Xuân Mạn Hứng trên đây, Nguyễn Du thương những ai phung phí
nắng xuân, đuổi đeo công danh, mà chẳng biết là cuộc đời
ngắn ngủi, sắp kề miệng lỗ c̣n lo truyện ngàn năm. Lợi lớn
danh cao, rồi cũng tan biến. Ư thơ này Nguyễn Du đă viết
trong bài Hành lạc Từ I. Riêng ông không màng danh lợi.
Trong
bài này ông đặt câu hỏi là sao không kíp thời theo học đạo
Lăo Trang.
Rồi tới
bài:
清
明
偶
興
Thanh
Minh Ngẫu Hứng
東
風
晝
夜
動
江
城
Đông
phong trú dạ động giang thành
人
自
悲
悽
草
自
青
Nhân tự
bi thê thảo tự thanh
春
日
有
身
非
少
壯
Xuân
nhật hữu thân phi thiếu tráng
天
涯
無
酒
對
清
明
Thiên
nhai vô tửu đối thanh minh
村
哥
初
學
桑
痲
語
Thôn ca
sơ học tang ma ngữ
野
哭
時
聞
戰
伐
聲
Dă khốc
thời văn chiến phạt thanh
客
舍
含
愁
已
無
限
Khách
xá hàm sầu dĩ vô hạn
莫
教
茅
草
近
階
生
Mạc
giao mao thảo cận giai sinh.
dịch
là:
Thanh
Minh Mạn Hứng
Đêm qua
gió động giang thành
Người
buồn năo nuột cỏ xanh ranh rờn
Ngày
xuân quá lứa thương thân
Thanh
minh không rượu ngày xuân bên trời
Câu ca
học nói theo người
Đồng
ngoài tiếng khóc oán thời đao binh
Ngậm
sầu quán khách nhủ ḿnh
Cỏ săng
chớ để mọc quanh bên thềm.
Tết
thanh minh là ngày người Đông Á đi thăm mồ mả ông cha. Thanh
Minh này, Nguyễn Du trú trong một khách xá, không ghi rơ ở
đâu, nhưng chắc xa quê nhà. Ông thoáng buồn v́ xuân về mà
ông đă quá tuổi xuân, thêm nỗi xa nhà thiếu rượu. Tiếng nói
địa phương ông c̣n học qua những câu đồng dao, đôi khi ông
c̣n nghe thấy tiếng khóc than v́ chiến binh ngoài đồng nội.
Ông mang mối buốn đó và ông nhủ ḿnh là chớ để mối buồn đó
khuấy động niềm yên vui trong ḷng.
Người
đọc dường như thấy Nguyễn Du giữ được niềm yên vui trong tâm
cảnh suốt mấy bài sau đây:
清
決
江
晚
眺
Thanh
Quyết Giang Văn Diểu
浮
橋
盡
處
出
平
田
Phù
kiều tận xứ xuất đồng bằng
歷
歷
青
山
在
眼
前
Lịch
lịch thanh sơn tại nhăn tiền
古
徑
樵
歸
明
月
擔
Tiểu
kính tiều quy minh nguyệt đảm
潮
門
漁
送
夕
陽
船
Triều
môn dương tống tịch dương thuyền
茫
茫
遠
水
三
春
Mang
mang viễn thũy tam xuân thụ
落
落
人
兩
岸
煙
Lạc lạc
nhân gia lưỡng ngạn yên
極
目
鄉
關
在
何
處
Cực mục
hương quan tại hà xứ
征
鴻
數
點
白
雲
邊
Chinh
hồng sổ điểm bạch vân biên.
dịch
là:
Cảnh
Chiều Bên Sông Thanh Quyết
Qua cầu
nổi tới đồng bằng
Chắn
ngang tầm mắt núi dăng xanh rờn
Tiều về
trăng giăi đường ṃn
Thuyền
câu tách bến chiềuhôm thẫm dần
Cây
xanh nước biếc mầu xuân
Nhá ai
lác đác khói vần bến sông
Quê
hương xa thẳm vời trông
Bên làn
mây trắng cánh hồng nản bay.
Giới
nghiên cứu cho biết là sông Thanh Quyết, c̣n gọi là sông
Gián Khẩu, là một khúc sông Đáy, khoảng giữa đường từ Ninh
B́nh đi Phủ lư. Toàn thể bài thơ là một cảnh chiều bên sông,
có h́nh ảnh chú tiều phu và chiếc thuyền câu, tiêu biểu cho
nhưng nguời ở ngoài ṿng cương tỏa. H́nh ảnh cây xanh nước
biếc trong mầu sắc mùa xuân và một xóm nhỏ xa xa gợi cho tác
giă niềm nhớ nhà, trong hiện cảnh xa quê. Người đọc dường
như được cùng tác giả chia xẻ niềm thanh thản trước cảnh đẹp
bên sông.
Tiếp
theo là cảnh:
同
籠
江
Đồng
Lung Giang
同
籠
江
水
去
悠
悠
Đồng
Lung giang thủy khứ du du
今
古
閒
愁
不
住
流
Kim cổ
nhàn sầu bất trú lưu
沙
嘴
殘
蘆
飛
白
鷺
Sa chủy
tàn lô phi bạch lộ
隴
頭
落
月
臥
寒
牛
Lũng
đầu lạc nguyệt ngọa hàn ngưu
亂
山
翠
接
泒
城
暮
Lọan
sơn thúy tiếp cô thành mộ
水
竹
寒
生
小
店
秋
Thủy
trúc hàn sinh tiểu điếm thu
羨
爾
野
鷗
隨
水
去
Tiễn
nhĩ dă âu thùy thũy khứ
浮
生
勞
碌
幾
時
休
Phù
sinh lao lực kỷ thời hưu?
dịch
là:
Sông
Đồng Lung
Đồng
Lung nước chẩy về đâu
Nước
trôi trôi cà mối sầu ngày qua
Cồn lau
c̣ trắng la đà
Đầu
ghềnh trâu tắm trăng tà thảnh thơi
Thành
liền núi biếc chiều rơi
Bờ tre
quán gió chơi vơi thu tàn
Nh́n âu
bơi lượn một đàn
Bao giờ
hết cảnh gian nan kiếp người.
Giới
nghiên cứu hiện chưa biết sông Đồng Lung là khúc sông nào.
Cho đến hết câu thứ bẩy, toàn thể là cảnh đẹp một buổi chiều
bên sông. Trong cảnh đó tác giả, như quên được mối sầu đằng
đẵng trong quá khứ. Cảnh hiện trước mắt ông là đàn c̣ trên
cồn lau, là con trâu tắm đầu ghềnh, là liềm trăng tà, là bức
thành cổ liền với trời, với quán gió với đàn âu tự do bơi
lội. Tất cả đều tĩnh lặng, nhưng trong ḷng ông dường như
chưa thực tĩnh lặng: ông c̣n tự hỏi bao giờ th́ kiếp người
mới thoát cảnh gian nan. Rồi tới bài:
同
廬
路
上
遙
見
柴
山
Đồng Lư
Lộ Thượng Dao Kiến Sài Sơn
柴
山
山
上
多
浮
雲
Sài Sơn
sơn thượng đa phù vân
柴
山
山
下
石
磷
磷
Sài Sơn
sơn hạ thạch lân lân
同
廬
路
上
西
翹
首
Đồng Lư
lộ thượng tay kiều thủ
秀
色
蒼
然
來
照
人
Tú sắc
thương nhiên lai chiếu nhân
歷
歷
樓
臺
天
外
見
Lịch
lịch lâu đài thiên ngoại kiến
微
微
鍾
鼓
月
中
聞
Vi vi
chung cổ nguyệt trung văn
青
杉
走
遍
紅
塵
路
Thanh
lam tẩu biến hồng trần lộ
猿
鶴
何
從
認
舊
人
Viện
hạc hà ṭng nhận cựu nhân.
dịch
là:
Trên
Đường Đồng Lư
Ngoái
Nh́n Núi Thầy
Núi
Thầy mây quấn ngàn tầng
Đá đây
lởm chởm dọc ngang ai bầy
Đường
Đồng Lư ngoảnh về tây
Long
lanh đá biếc ngất ngây ḷng người
Lâu đài
sừng sững cuối trời
Trống
chuông văng vẳng trăng soi một vừng
Áo xanh
lạc lơng bụi hồng
Bạn xưa
vượn hạc khó ḷng nhận ra.
Núi
Thầy tên chữ là Sài Sơn, thuộc huyện Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây,
có chùa thờ nhà sư Từ Đạo Hạnh. Tác giả ghi lại cảm hứng khi
ngoái nh́n về núi Thầy, với phong cảnh lạ mắt, rồi chợt thấy
thương thân ḿnh đang trên đường ngàn dặm, dưới lớp áo xanh
, tiêu biểu cho người đă ra làm quan, và e ngại vượn hạc,
hay bạn bè xưa thời c̣n lả ẩn sĩ khó ḷng nhận ra ông vốn là
bạn cũ.
Tiếp
theo, Thanh Hiên Thi Tập chép bài:
諒
山
道
中
Lạng
Sơn Đạo Trung
萬
木
山
前
可
卜
居
Vạn mộc
sơn tiền khả bốc cư
白
雲
在
岫
水
通
渠
Bạch
vân tự tại thủy thông cừ
山
僧
對
竹
兩
無
恙
Sơn
tăng đối trúc lưỡng vô dạng
牧
豎
騎
牛
一
不
如
Mục thụ
kỵ ngưu nhất bất như
影
裡
鬚
眉
看
老
矣
Ảnh lư
tu mi khan lăo hỹ
夢
中
松
匊
憶
歸
與
Mộng
trung tùng cúc bất quy dư
坐
家
村
叟
多
閒
事
Tọa gia
thôn tẩu đa nhàn sụ
只
未
平
生
不
讀
書
Chỉ thị
b́nh sinh bất độc thư
dịch
là:
Trên
Đường Lạng Sơn
Ven
rừng chân núi ẩn cư
Có hang
mây trắng có cừ nước trong
Sơn
tăng cùng trúc chay ḷng
Lưng
trâu mục tử thong dong ai tầy
Cái già
hiện rơ râu mày
Những
mơ tùng cúc nào hay ngày về
Sướng
thay ông lăo đống quê
Suốt
đời sách vở không hề liếc qua.
Giới
nghiên cứu, cho là Nguyễn Du viết bài thơ trên đây, trong
dịp ông được cử lên Trấn Nam Quan nghênh tiếp sứ thần Trung
Quốc, vào mùa đông năm 1803.
Lănh
việc quan trọng đại, nhưng qua bài thơ này, người đọc thấy
dường như ông chỉ để tâm đến niềm an lạc của riêng ông. Nh́n
cảnh hang mây, suối nước bên đường ông nghĩ đến truyện về đó
ẩn cư. Nh́n thấy nhà sư bên giậu trúc ông nghĩ tới công quả
chay ḷng như thân trúc rỗng của nhà sư. Nh́n thấy trẻ chăn
trâu ông thấy chúng được thong dong hơn ông hiện
đang
trên đường lo việc quan. Ông chợt thấy râu mày ông bày cái
già của ông ra. Việc quay về cùng tùng cúc chỉ là giấc mơ
không biết đến ngày nào mới thành sự thật. Ông chợt thấy làm
ông lăo đồng quê, không mắc nợ sách đèn, có lẽ được nhàn
thân hơn ông.
Tiếp
theo là ba bài Nguyễn Du ghi lại những thắng cảnh bên đường.
Một là:
望
夫
石
Vọng
Phu Thạch
石
耶
人耶
彼
何
人
Thạch
gia nhân gia bỉ hà nhân
獨
立
山
頭
千
百
年
Độc lập
sơn đầu thiên bách niên
萬
劫
杳
無
雲
雨
夢
Vạn
kiếp yểu vô vân vũ mộng
一
貞
留
得
古
今
身
Nhất
trinh lưu đắc cổ kim thân
戾
痕
不
絕
三
秋
雨
Lệ ngân
bất tuyệt tam thu vũ
苔
篆
長
銘
一
段
文
Đài
triện trường minh nhất đoan văn
四
望
連
山
渺
無
際
Tứ vọng
liên sơn diểu vô tế
獨
教
而
女
擅
彝
倫
Độc
giao nhi nữ thiện di luân
dich
là:
Ḥn
Vọng Phu
Ai đây
là đá là người
Vạn năm
đàu núi chơi vơi đúng chờ
Sắt son
đánh đổ mây mưa
Chữ
trinh kim cổ chẳng mờ tấm thân
Mưa
ngâu lệ ngấn sâu hằn
Rêu ghi
chữ triện đọan văn muôn đời
Núi
xanh lớp lớp chân trời
Luân
thường gương tỏ người người soi chung
Việt
Nam có ba ḥn Vọng Phu: một ở Lạng Sơn, Một ở B́nh Định và
một ở vùng Thanh Hóa. Giới nghiên cứu cho rằng trong bài
trên đây Nguyễn Du mô tả ḥn Vọng Phu ở Lạng Sơn, nhân dịp
ông đi đón tiếp sứ thần nhà Thanh vào năm Quí Hợi, 1804. Ḥn
Vọng Phu này đă bị quân Trung Quốc bắn xập, nhân vụ đụng độ
tại biên giới năm cuối thế kỷ XX, vùng đất này nay cũng mất
về tay Trung Quốc.
Hai là
bài:
題
二
青
洞
Đề Nhị
Thanh Động
盤
古
初
分
不
記
年
Bàn Cổ
sơ phân bất kư niên
\山
中
生
窟
窟
生
泉
Sơn
trung sinh quật quật sinh tuyền
萬
般
水
石
擅
大
巧
Vạn bàn
thủy thạch thiện đại xảo
一
粒
乾
坤
開
小
天
Nhất
lạp càn khôn khai tiểu thiên
滿
埂
皆
空
何
有
相
Măn
cảnh giai không hà hữu tướng
此
心
常
定
不
離
禪
Thử tâm
thiền định bất ly thiền
大
師
無
意
亦
無
盡
Đại sư
vô ư diệc vô tận
俯
嘆
城
中
多
變
遷
Phủ
thán thành trung đa biến thiên.
dịch
là:
Đề Động
Nhị Thanh
Từ bàn
cổ chẳng ghi năm
Tạo
hang tạo núi tạo ngàn suối trong
Đá khe
khéo xếp hóa công
Càn
khôn một hạt mở toang một vùng
Sắc
không không sắc vô cùng
Ḷng
này thường định hằng nương về thiền
Đại sư
vô lượng diệu huyền
Đoái
than chuyển biến triền miên trong thành
Động
Nhị Thanh ở phía Bác thị xă Lạng Sơn, cùng hai động Nhất
Thanh và Tam Thanh là ba thắng cảnh nổi tiếng ở vùng này.
Ngô Th́ Sĩ, khi làm quan ở vùng này có lập bàn thờ Tam Giáo
trong động. Trong bốn câu đầu Nguyễn Du mô tả vẻ đẹp của
động Nhị Thanh. Ba câu sau ông nhận định về Phật Pháp và tỏ
ư muốn hướng về Thiền Học, ông nh́n lại trong thành thấy mọi
biến chuyển mà than cho kiếp người.
Bài thứ
ba là bài:
鬼
門
道
中
Qủy môn
Đạo Trung
鬼
門
石
徑
出
雲
根
Quỷ Môn
thạch kính xuất vân căn
征
客
南
歸
欲
斷
魂
Cinh
khách nam quy dục đoạn hồn
樹
樹
東
風
吹
送
馬
Thụ thụ
đông phong xuy tống mă
山
山
落
月
夜
啼
猿
Sơn sơn
lạc nguyệt dạ đề viên
中
旬
老
太
逢
人
懶
Trung
tuần lăo thái phùng nhân lăn
一
路
寒
威
仗
酒
溫
Nhất lộ
hàn uy trượng tửu ôn
山
塢
何
家
大
貪
睡
Sơn ổ
hà gia đại tham thụy
日
高
猶
自
掩
柴
門
Nhật
cao do tự yểm sài môn.
dịch
là:
Trên
Đường Quỷ Môn
Mây
tuôn từ gốc Quỷ Môn
Xuôi
nam đối cảnh dạ buồn xót xa
Gió bay
bờm ngựa tiễn đưa
Vượn
than đêm vắng trăng tà đầu non
Sớm già
thù tiếp lười quen
Đường
dài rét mướt nhờ men sưởi ḷng
Nhà ai
xóm núi kín bưng
Mặt
trời ṿi vọi c̣n dường ngủ ngon.
Giới
nghiên cúu cho biết Quỷ Môn Quan là ải Chi Lăng. Có người
cho biết là Chữ Qủy Môn Quan
của người Trung Quốc trong câu:
Quỷ Môn
Quan. Qủy Môn Quan,
Thập
nhân khứ, nhất nhân hoàn
ghi lại
những lần tàn quân Trung Quốc trở về nước sau những cuộc xâm
lăng Việt Nam.
Nguyễn
Du viết bài thơ trên trên đường từ Ản Nam Quan trở về Nam.
Người đọc cảm thấy nỗi mệt
nhọc của tác giả sau chuyến việc quan. Ông cảm thấy thèm
được ngủ một giấc như ai đó
trong căn nhà trong xóm núi, lúc này mặt trời đă lên cao.
Theo Lê
Thước & Trương Chính, Nguyễn Du ở Lạng Sơn từ mùa đông Giáp
Tư 1804, đến mùa
xuân Quư Hợi 1805, nên ông có bài sau đây ghi lại cảnh đêm
xuân ở trong quán khách, tại nhà
công quán Lạng Sơn, nhân ngày đầu năm, tưởng nhớ anh em nơi
quê nhà, giăi bày
tâm sự
người ra làm quan không c̣n muốn rong ruổi, cùng cái cảnh
cười ra nước mắt trên nẻo
đường bon chen danh lợi:
春
宵
旅
次
Xuân
Tiêu Lữ Thứ
蕭
蕭
蓬
鬢
老
風
塵
Tiêu
tiêu bồng mấn lăo phong trần
暗
裡
偏
驚
物
候
新
Ám lư
thiên kinh vật hậu tân
池
草
未
闌
千
里
夢
Tŕ
thảo vị lan thiên lư mộng
庭
梅
已
換
一
年
春
Đ́nh
mai dĩ hoán nhất niên xuân
英
雄
心
事
荒
馳
騁
Anh
hùng tâm sự hoang tŕ sính
名
利
營
場
累
笑
顰
Danh
lợi doanh trường luỵ tiếu tần
人
自
蕭
倏
春
自
好
Nhân tự
tiêu điều xuân tự hảo
團
城
城
下
一
沾
巾
Đoàn
thành thành hạ nhất triêm cân.
dịch
là:
Quán
Khách Đêm Xuân
Rối
tung mái tóc phong trần
Đoái
nh́n cảnh vật xoay vần sắt se
Mộng ao
cỏ cách sơn khê
Đổi năm
mai nở xuân về bên hiên
Anh
hùng nản bước bon chen
Lợi
danh ghen ghét đ̣i phen khóc cười
Người
buồn cảnh vẫn xanh tươi
Tấm
khăn đẫm lệ ven trời Lạng Sơn.
Giới
nghiên cứu cho hay, hai chữ tŕ thảo, dịch là ao cỏ lấy từ
truyện hai anh em Tạ Huệ Liên và Tạ
Linh vận, người đời nhà Tấn. Huệ Liên mười tuổi đă biết làm
thơ. Linh Vận thường nói: “Gặp
Huệ Liên thường làm được câu thơ hay.” Một hôm Linh Vận ngồi
bên bờ ao, không
nghĩ ra
được câu thơ nào, đến đêm mơ thấy Huệ Liên, làm được câu:
‘Tŕ đường sinh xuân thảo’
nghĩa là ‘bờ ao mọc cỏ xuân’. Nguyễn Du mượn điển này để nói
chiêm bao thấy anh em nơi
quê nhà.
Nguyễn
Du mô tả cảnh bon chen trên dường danh lợi rơ rệt hơn trong
bài ngũ ngôn dưới đây:
孔
雀
舞
Khổng
Tước Vũ
孔
雀
俯
懷
毒
Khổng
tước phủ hoài độc
誤
服
不
可
醫
Ngộ
phục bất khả y
外
露
文
章
體
Ngoại
lộ văn chương thể
中
藏
殺
伐
機
Trung
tàng sát phạt ky
人
侉
容
止
善
Nhân
khoa dung chỉ thiện
我
惜
羽
毛
奇
Ngă
tích vũ mao kỳ
海
鶴
亦
會
舞
Hải hạc
diệc hội vũ
不
與
世
人
知
Bất dũ
thế nhân tri.
dịch
là:
Con
Công Múa
Mật
công độc chẳng ǵ bằng
Ăn lầm
chạy chữa thuốc thang chẳng lành
Mẽ
ngoài văn vẻ tươi xinh
Giết
người dấu độc trong ḿnh nào hay
Người
xem công múa khen tài
Riêng
ta khen bộ mă ngoài của công
Múa hay
hạc biển chẳng nhường
Người
đời chẳng biết coi thường coi khinh.
Giới
nghiên cứu rằng bốn câu đầu bàii ngũ ngôn trên đây ngầm chỉ
người ham công danh ra làm
quan, ngoài th́ phô vẻ đẹp và tài khéo léo múa may để chiều
đời, nhưng trong ḷng th́ vô
cùng hiểm độc. Nguyễn Du chỉ riêng nói tới mă ngoài của
công. Theo ông th́ hạc biển múa
cũng chẳng kém ǵ công, nhưng không được người đời biết đến
mà c̣n bị người đời coi
thụng coi khinh. Có nguời cho rằng h́nh ảnh hạc biển trong
bài thơ trên đây chỉ người có tài
năng và đi ở ẩn.
Liền
trong mấy bài trên đây, người đọc dương như thấy cảnh sống
làm quan của Nguyễn Du, như
ông đă nh́n thấy trong nhưng ngảy tản cư lận đận, chính là
việc cắt chân hạc, gọt móng
ngựa làm hại thiên chân của ông. Bản thân ông lúc nào cũng
chỉ muốn vui cùng bầy hươu
nai, hay chồng sách cổ của ông. Thú mê đọc sách này khởi
hứng cho ông viết bài:
蝶
死
書
中
Điệp Tử
Thư Trung
芸
窗
曾
几
染
書
香
Vân
song tàng kỷ nhiễm thư hương
謝
卻
風
流
未
是
狂
Tạ
khước phong lưu vị thị cuồng
薄
命
有
緣
留
簡
籍
Bạc
mệnh hữu duyên lưu giản tịch
殘
魂
無
戾
哭
文
章
Tàn hồn
vô lệ khốc văn chương
蠹
魚
易
醒
蘩
花
夢
Đố ngư
dị tỉnh phồn hoa mộng
螢
火
難
灰
錦
繡
腸
Huỳnh
hỏa nan hôi cẩm tú trường
聞
道
也
應
甘
一
死
Văn đạo
dă ưng cam nhất tử
婬
書
蕕
勝
為
花
忙
Dâm thư
do thắng vị hoa mang.
dịch
là:
Xác
Bướm Ép Sách
Pḥng
văn hương sách ngạt ngào
Phong
lưu buông bỏ phải đâu ương gàn
Mệnh
duyên ḷng sách gửi thân
Hồn tàn
khô lệ khóc văn thơ rồi
Phồn
hoa mọt sách xa dời
Lửa
huỳnh nào đốt nổi lời gấm thêu
Được
nghe đạo chết cũng liều
Mải mê
mê sách tránh điều mê hoa.
Giới
nghiên cứu cho hay chữ vân, viết bộ thảo đầu là một thứ cỏ
thơm dùng để chống mọt sách.
Thế nên vân song đồng nghĩa với thư song, là bức cửa sổ
pḥng văn tḥi xua. Ngồi tại pḥng
văn, Nguyễn du nhận định ràng buông bỏ phong lưu chẳng phải
là một hành động diên
dại. Tất cả cũng đều do duyên mệnh đưa đẩy, như con bướm khô
ép trong ḷng sách.
Hồn
tàn, không c̣n nước mắt khóc thơ văn. Đời người ngắn ngủi,
như bắt đom đóm đọc sách,
làm sao đọc hết nổi lời lời châu ngọc hàng hàng gấm thêu.
Ông kết luận bằng lời sách Luận
Ngữ: Triêu văn dạo tịch tử khả hĩ nghĩa là sáng được nghe
đạo, chiều chết được rồi, đê thấy là
sách c̣n đáng mê hơn hoa.
Bài
cuối cùng chép trong Thanh Hiên Thi Tập là bài:
讀
小
青
記
Độc Tiểu Thanh Kư
西
湖
花
苑
藎
成
墟
Tây Hồ
hoa uyển tận thành khư
獨
吊
窗
前
一
紙
書
Độc
điếu song tiền nhất chỉ thư
脂
粉
有
神
憐
死
後
Chi
phấn hữu thần liên từ hậu
文
章
無
命
累
焚
餘
Văn
chương vô mệnh lụy phần dư
古
今
恨
事
天
難
問
Cổ kim
hận sự thiên nan vấn
風
韻
奇
冤
我
自
居
Phong
vận kỳ oan ngă tự cư
不
知
三
百
餘
年
後
Bất tri
tam bách dư niên hậu
天
下
何
人
泣
素
如
Thiên
hạ hà nhân khấp Tố Như
dịch
là:
Đọc
Truyện Nàng Tiểu Thanh
Vườn
Tây Hồ hóa băi hoang
Đọc
trang sách cổ thương nàng xót xa
Hữu
thần lắng đắng hồn ma
Văn thơ
không mệnh nửa ra tro rồi
Hận
muôn thủa khó hỏi trời
Riêng
ta một hội kiếp người khổ đau
Ba trăm
năm lẻ về sau
Khóc Tố
Như biết c̣n bao nhiêu người.
Bài Độc
Tiểu Thanh Kư này, là bài chót trong Thanh Hiên Thi Tập
nhưng lại là bài được nhiều nhà
nghiên cứu lưu ư đến nhất. Tiểu Thanh là một phụ nữ tài sắc
thời nhà Minh, người quận Minh
Giang, lấy lẽ một người họ Phùng. Phùng sinh người Hàng
Châu, giỏi thơ phú. Vợ cả Phùng
sinh ghen tuông rất mực, khiến Tiểu Thanh phải ra ở nhà
riêng ở Côn Sơn trên tây Hồ, sau
buồn bực mà chết năm nàng 18 tuổi. Tiểu Thanh để lại một tập
thơ, người vợ cả lấy đốt đi. Chỉ
c̣n sót mấy tờ nay gọi là Phần Dư Tập. Truyện nàng Tiểu
Thanh c̣n chép trong sách T́nh Sử
hay Nữ Liêu Trai Chí Dị.
Hai chữ
Hữu Thần, Nguyễn Du dùng trong câu thứ ba, lấy từ truyện của
Tiểu Thanh. Truyện rằng,
trước khi chết, Tiểu Thanh cho người vẽ chân dung truyền
thần của nàng. Xem bức thứ
nhất nàng nói: “H́nh th́ giống, nhung chưa lột hết thần.”
Xem bức thứ hai, nàng nói:
“Thần
th́ được rồi, nhưng bóng thiếu linh động”. Đến bức thứ ba
nàng khen “Được rồi đấy”.
Rồi
nàng để bức tranh ở dầu giường, đốt hương khấn: “Tiểu Thanh!
Tiểu Thanh! Chốn này không
phải duyên phận của mi đâu.” Nói xong nước mắt chan ḥa nấc
lên một tiếng rồi chết.
Bốn câu
sau Nguyễn Du dường như tự nói với ông. Cái hận của nàng
Tiểu Thanh phải mang hỏi
trời mới ra, nhưng khó là làm sao hỏi nổi trời. Riêng ḷng
ông tri kỷ với Tiểu Thanh, và ông cho
là nỗi khổ đau của Tiểu Thanh là nỗi khổ đau của con nguời.
Rồi ông tự hỏi rồi đây tới
ngoài ba trăm năm nữ, c̣n mấy ai khóc Tố Như, c̣n mấy ai tri
kỷ với Tố Như trước nỗi khổ đau
của con người.
Hai câu
cuối bài thơ, thời đầu thập niên thứ hai thế kỷ trước, có
nhiều nhà b́nh luận tên tuổi đă
cho là lời khẩu chiếm của ông trước khi ông từ trần. Sau đó,
nhiều người thắc mắc về luật
niêm giũa chữ thứ nh́ câu thứ sáu, (chữ vận) vần trắc và chữ
thứ hai câu bẩy (chữ tri) vần
bằng nên bài thơ thất niêm, khiến nên coi hai câu này là
người đời sau tự ư thêm vào bài thơ sáu
câu dở dang của Nguyễn Du.