Cũng trong
mùa xuân ở Quỳnh Hải đó, Nguyễn Du có bài:
春 日 偶 興
Xuân Nhật
Ngẫu Hứng
患 氣 經 時 戶 不
開
Hoạn khí
kinh thời hộ bất khai
逡 巡 寒 暑 故 相
催
Thoan tuần
hàn thử cố tương thôi
他 鄉 人 與 去 年
別
Tha hương
nhân dữ khứ niên biệt
瓊 海 春 從 何 處
來
Quỳnh Hải
xuân ṭng hà xứ lai
南 浦 傖 心 看 綠
草
Nam phố
thương tâm khan lục thảo
東 皇 生 意 漏 寒
梅
Đông hoàng
sinh ư lậu hàn mai
鄰 翁 奔 走 村 前
廟
Thôn ông
bôn tẩu thôn tiền miếu
斗 酒 雙 柑 醉 不
回
Đẩu tửu
song cam túy bất hồi.
dịch là:
Ngày Xuân
Ngẫu Hứng
Trời đông
cửa đóng kín bưng
Rét qua nực
tới ngập ngừng đổi thay
Quê người
năm trước chia tay
Chốn đây
Quỳnh Hải xuân nay lại về
Bến nam cỏ
biếc năo nề
Đón xuân
mai nở e dè tường đông
Quẩn quanh
dọn miếu đầu thôn
Rượu bầu
cam ngọt lăo ông quên về.
Trong hoàn
cảnh tản cư về Quỳnh Hải, Nguyễn Du dường như mất nhậy cảm
với thời gian. Ông chợt thấy tiết trời đổi từ rét sang nóng
mới thấy như có sự đổi mùa sang xuân. Cảm tưởng đó dường như
cảm tưởng một người đang sống trọng sự chờ đợi với một hy
vọng mong manh. Cảnh chờ đợi kéo dài đă một năm kễ tù khi
chia tay. Mùa xuân lại về hy vọng lại nhen nhóm, cái hiện
tại như băi cỏ biếc bên bờ nam, cái hy vọng mong manh như
cánh hoa mai bên tường đông. Hai câu kết, khó biết nổi là
câu ông tự trách, hay câu ông trách người mà ông đặt hy
vọng, vẫn lần chần chưa tới, v́ c̣n say rượu.
Tóm lại,
bài Ngày Xuân Cảm Hứng trên đây cho thấy tâm trạng chờ đợi
trong hy vọng lẫn thất vọng ngày Nguyễn Du sống trong cảnh
tản cư thiếu thốn tại Quỳnh Hải.
Cũng trong
hoàn cảnh tản cư về Quỳnh Hải, Nguyễn Du viết hai bài sau:
自 嘆
二 首
Tự Thán
Nhị Thủ
其 一
Bài I
生 未 成 名 身 已
衰
Thân vị
thành danh thân dĩ suy
蕭 蕭 白 髮 暮 風
吹
Tiêu tiêu
bạch phát mộ phong xuy
性 成 鶴 脛 何 容
斷
Tính thành
hạc hĩnh hà dung đoạn
命 等 鴻 毛 不 自
知
Mệnh đẳng
hồng mao bất tự tri
天 地 與 人 屯 骨
相
Thiên địa
dữ nhân truân cốt tướng
春 秋 還 汝 老 鬚
眉
Xuân thu
hoàn nhữ lăo tu mi
斷 蓬 一 片 西 風
急
Đoạn bồng
nhất phiến tay phong cấp
畢 竟 飄 零 何 處
歸
Tất cánh
phiêu linh hà xứ quy
其 二
Kỳ nhị
三 十 行 庚 六 尺
身
Tam thập
hành canh lục xích thân
聰 明 穿 鑿 損 天
真
Thông minh
xuyên tạc tổn thiên chân
本 無 文 字 能 憎
命
Bản vô văn
tự năng tăng mệnh
何 事 乾 坤 錯 妒
人
Hà sự kiền
khôn thác đố nhân
書 劍 無 成 生 計
促
Thư kiếm vô
thành sinh kế xúc
春 秋 代 序 白 頭
新
Xuân thu
đại tự bạch đầu tân
何 能 洛 髮 歸 林
去
Hà năng lạc
phát quy lâm khứ
臥 聽 松 風 響 半
雲
Ngọa thính
tùng phong hưởng bán vân
dịch là:
Tự Thán
(Hai bài)
I
Thân suy
danh vẫn chưa thành
Trời chiều
tóc trắng dập dềnh gió bay
Cắt chân
tính hạc chẳng thay
Lông hồng
đầu gió nào hay mệnh trời
Gian truân
tùy cốt tướng người
Râu mày năm
tháng sớm rồi bạc phơ
Cánh bồng
ĺa gốc gió lùa
Rồi ra
phiêu dạt đẩy đưa phương nào.
II
Thân sáu
thước tuổi ba mươi
Thông minh
cho lắm tội trời càng tăng
Mệnh dường
ghen với thơ văn
Kiền khôn
sao khéo ghét lầm riêng ai
Kiếm thư
dang dở sinh nhai
Bạc đầu
cùng quẫn tháng ngày long đong
Vào rừng
xuống tóc những mong
Nằm nh́n
mây nổi nghe thông dạt dào.
Câu mở đầu
bài Tụ Thán I cho biết hoàn cảnh của tác giả: chua thành
danh và thân dă bắt đầu suy. H́nh ảnh tấm thân suy nhược là
mái tóc trắng bay trong gió chiều. Tác giả dụng như đứng
trước một lựa chọn. Bài thơ không cho biết đối tượng của sự
lựa chọn. Đó là điểm lôi kéo người đọc. Chỉ cho biết là sự
lựa chọn này mang h́nh ảnh cắt chân hạc của sách Nam Hoa
Kinh: đ̣i ḥi một điều mang danh là tàn sinh tổn tính.
Nguyễn Du đă không theo ngả lựa chọn đó mà kệ cho số mệnh an
bài.
Sang bài Tự
Thán II, tác giả cho biết rơ là đă đến tuổi nhi lập, nhưng
v́ trời sinh thông minh nên tội trời càng nặng. Chữ thiên
chân tạm dịch là tội trời đây, làm người đọc nghĩ đến cái
tội trời sinh khi mới lọt ḷng mẹ là tội phải pḥ vua thờ
cha như Nguyễn Công Trứ đă nói rơ.
Nguyễn Du
tin là nếu không bởi thông minh mà bị số mệnh hành hạ, th́
sao trời đất lại ghét lầm người làm thơ văn. Hoàn cảnh hiện
tại của tác già là cả hai đường múa gươm đọc sách đều như vô
vọng. Chỉ c̣n nẻo xuống tóc vào rừng, nằm nh́n mây bay, nghe
thông reo.
Trong hoàn
đó, Nguyễn Du đă có dịp đi qua trại quân Vị Hoàng và ghi lại
cảm tưởng của ông như sau:
渭 潢 營
Vị Hoàng
Doanh
渭 湟 江 上 渭 湟
營
Vị Hoàng
giang thượng Vị Hoàng doanh
樓 檜 參 差 接 太
清
Lâu cối sâm
si tiếp thái thanh
古 渡 斜 陽 看 飲
馬
Cổ độ tà
dương khan ẩm mă
荒 郊 靜 夜 亂 飛
螢
Hoang giao
tĩnh dạ loạn phi huỳnh
古 今 未 見 千 年
國
Cổ kim vị
kiến thiên niên quốc
形 勢 空 留 百 戰
名
H́nh thế
không lưu bách chiến danh
莫 向 清 華 村 口
望
Mạc hướng
Thanh Hoa thôn khẩu vọng
疊 山 不 改 舊 時
青
Điệp Sơn
bất cải cựu tḥi thanh.
dịch là
Đồn Quân Vị
Hoàng
Vị Hoàng
đầu bến quân doanh
Thấp cao
sừng sững cây xanh bốn bề
Bến chiều
ngựa uống thỏa thuê
Đồng hoang
đom đóm lập loè âm u
Triều nào
đứng vững ngàn thu
Đất này
chiến trân oán thù lưu danh
Vời trông
theo ngả vào Thanh
Ngọn đèo Ba
Dọi núi xanh trùng trùng.
Vị Hoàng là
tên nhánh sông Nhị chẩy ngang thành Nam Định. Dưới triều nhà
Lê, bên bờ sông có xây doanh trại lớn chống địch từ miền
trong ra hay từ ngoài biển vào. Nam 1786 Nguyễn Hữu Chỉnh
dẫn quân Tây Sơn, đánh chiếm đồn Vị Hoàng, rồi tiến chiếm
Phố Hiến, tức tỉnh lỵ Hưng Yên.
Nguyễn Du
qua đây, nh́n cảnh cũ, nhớ lại chiến trận mấy năm trước, suy
nghĩ về sự tồn vong của các triều đại, nhà Lê mất, chúa
Trịnh cũng chấm dứt, Tây Sơn c̣n đang lùi bước trước quân
nhà Nguyễn. Chẳng có triều đại nào đứng vững ngàn năm. Phải
chăng, hưng vong là lẽ thường trong đại hóa, là điều ông
nh́n thấy rơ trước cảnh hoang phế của doanh trại Vị Hoàng?
Hoàn cảnh
khó khăn của Nguyễn Du khiến ông khó ngủ, như ông ghi rơ
trong bài:
不 寐
Bất Mị
不 寐 聽 寒 更
Bất mị
thính hàn canh
寒 更 不 肯 盡
Hàn canh
bất khẳng tận
關 山 引 夢 長
Quan sơn
dẫn mộng trường
砧 杵 催 寒 近
Châm chữ
thôi hàn cận
廢 灶 聚 蝦 蟆
Phế táo tụ
hà mô
深 堂 出 蚯 蚓
Thâm đường
xuất khâu dẫn
暗 誦 問 文 章
Ám tụng vấn
văn chương
天 高 何 處 問
Thiên cao
hà xứ vấn.
dịch là:
Mất ngủ
Canh khuya
mất ngủ lạnh lùng
Đêm dài
chẳng hết th́ thùng trống canh
Dặm trường
dẫn giầc mộng xanh
Th́ thùng
chầy vải trạnh t́nh xa xôi
Bếp tàn cóc
nhẩy vái trời
Nhà xiêu
nền mốc loi nhoi giun ḅ
Thân c̣n
năng nghiệp văn thơ
Trời cao
ướm hỏi nơi mô gặp trời.
Bốn câu đầu
dường như là bốn câu quen thuộc trong thơ Việt Âm để mô tả
cảnh đêm mùa thu se sắt với tiếng trống canh xen tiếng chầy
giặt vải. Bốn câu sau là sáng tác riêng của tác giả, mô tả
cái chua chát trong hiện cảnh của ông. Bếp nguội lạnh lâu
ngày không nhóm lửa khiến cóc vào làm tổ. Nhà ở nền mốc vách
xiêu giun ḅ ra loi nhoi. Thế mà thân ông c̣n nặng nghiệp
văn thơ là điều ông muốn hỏi trời. Nhưng trời cao chẳng ai
biết trời ở nơi đâu mà hỏi.
Ngoài hiện
cảnh thiếu thốn vật chất, Nguyễn Du c̣n thêm mối nhớ quê
hương, c̣n bận tâm về mối an nguy của các anh chị em ông
phân tán mỗi người một nơi, từ lâu biệt tin, những lá thư
ông hằng ngày mong đợi vẫn không thấy tới. Nỗi khắc khoải đó
ông ghi lại trong bài:
山 居 漫 興
Sơn Cư Mạn
Hứng
南 去 長 安 千 里
餘
Nam khứ
Trường An thiên lư dư
群 峰 深 處 野 人
居
Quần phong
thâm xứ dă nhân cư
柴 門 晝 靜 山 雲
閉
Sài môn trú
tĩnh sơn vân bế
藥 圃 春 寒 隴 竹
疏
Được phố
xuân hàn lũng trúc sơ
一 片 鄉 心 蟾 影
下
Nhất phiến
hương tâm thiềm ảnh hạ
經 年 別 戾 雁 聲
初
Kinh niên
biệt lệ nhạc thang sơ
故 鄉 弟 妹 音 耗
絕
Cố hương đệ
muội âm hao tuyệt
不 見 平 安 一 紙
書
Nhất kiến
b́nh an nhất ch́ thư.
dịch là:
Ở Nứi Cảm
Hứng
Đế đô
ngàn dặm trời nam
Mái quê
giữa chốn non lam ẩn ḿnh
Cửa sài
mây núi vờn quanh
Rét xuân
vườn thuốc dập dềnh trúc thưa
Nhớ quê
trăng tỏ thẫn thờ
Biệt ly
tiếng nhạn lệ mờ bao năm
Chị em
làng cũ biệt tăm
Vắng thư
chẳng biết làm ăn thế nào.
Thi cảnh
và tâm cảnh của Nguyễn Du trong bài Sơn Cư Cảm Hứng trên
đây, gặp thời loạn lạc phải vào núi tạm ẩn, trong một đêm
trăng sáng, chờ thư không đến, nhớ tới chị em nơi quê nhà
nhắc người đọc nhớ tới bài ngụ ngôn của nhà thơ Đường Đỗ Phủ
5 với cùng một thi cảnh và cùng một tâm cảnh:
月 夜 憶 舍 第
Nguyệt Dạ
Ức Xá Đệ
戍 鼓 斷 人 行
Thú cổ
đoạn nhân hành
邊 秋 一 雁 聲
Biên thu
nhất nhạn thanh
露 從 今 夜 白
Lộ ṭng
kim dạ bạch
月 是 故 薌 明
Nguyệt
thị cố hương minh
有 第 皆 分 散
Hữu đệ
giai phân tán
無 家 問 死 生
Vô gia
vấn tử sinh
寄 書 長 不 達
Kư thư
trường bất đạt
況 乃 未 休 兵
Huống năi
vị băi binh.
dịch là
Đêm Trăng
Nhớ Anh Em
Trống
trận thúc người đi
Tiếng
nhạn thu biên giới
Đêm nay
sương trắng rơi
Quê nhà
trăng sáng rọi
Anh em
người mỗi nơi
Sống chết
không nơi hỏi
Thư gửi
lâu chẳng tới
Chinh
chiến măi không thôi.
Hoàn cảnh
tản cư tạm trú c̣n là thi hứng của Nguyễn Du trong hai bài
dưới đây:
幽 居
二 首
其 一
桃 花 桃 葉 落
分 分
Đào hoa
đào diệp lạc phân phân
門 掩 斜 扉 一
院 貧
Môn yểm
tà phi nhất viện bần
住 久 頓 忘 身
是 客
Trú cửu
đốn vong thân thị khách
年 深 更 覺 老
隨 身
Niên thâm
cánh giác lăo tùy thân
異 鄉 養 拙 初
防 俗
Di hương
dưỡng chuyết sơ pḥng tục
亂 世 全 生 久
畏 人
Loạn thế
toàn thân cửu úy nhân
流 落 白 頭 成
底 事
Lưu lạc
bạch đầu thành để sự
西 風 吹 倒 小
烏 巾
Tây phong
xuy đảo tiểu ô cân.
其 二
Bài II
十 載 風 塵 去
國 賒
Thập tải
phong trần khứ quốc xa
蕭 蕭 白 髮 寄
人 家
Tiêu tiêu
bạch phát kư nhân gia
長 途 日 暮 新
遊 少
Trường đồ
nhật mộ tân du thiểu
一 室 春 寒 舊
病 多
Nhất thất
xuân hàn cựu bệnh đa
壞 璧 月 明 蟠
蜥 蜴
Hoại bích
nguyệt minh bàn tích dịch
荒 池 水 涸 出
蝦 蟆
Hoang tŕ
thuỷ hạc xuất hà mô
行 人 莫 誦 登
樓 賦
Hành nhân
mạc tụng đăng lâu phú
強 半 惷 光 在
海 涯
Cường bán
xuân quang tại hải nhai.
dịch là:
Ở Chốn U
Tịch
Hai bài
I
Cây đào
tơi tả lá hoa
Cổng xiêu
cánh lệch căn nhà xác xơ
Trọ lâu
quen phận ở nhờ
Năm dài
chợt thấy bơ vơ thân già
Dưỡng khờ
thói lạ pḥng xa
Giữ thân
giữa buổi can qua né người
Bạc đầu
lưu lạc nổi trôi
Khăn đen
gió mới thổi rơi mất rồi.
II
Xa quê
gió bụi mười năm
Bơ phờ
tóc bạc cam tâm nương nhờ
Đường dài
chiều xế bạn thưa
Rét đài
nhà lạnh bệnh xưa lại hành
Mối leo
vách nát trăng thanh
Ao hoang
ếch nhái nhẩy quanh đục ngầu
Người đi
quên phú Đăng Lâu
Tuổi xuân
góc biển bấy lâu phí hoài.
Câu thứ
năm trong bài U Cư kỳ 1, Nguyễn Du viết:
Dị hương
dưỡng chuyết sơ pḥng tục
dịch xuôi
là:
Quê người
giả khờ pḥng thói đời người đọc có thể hiểu là v́ Nguyễn Du
nghi ngại phong tục quê người mà giả khờ khạo để pḥng thân.
Nhưng dường như tại chốn u tịch đâu có cần pḥng thân cẩn
mật đến như vậy. Phải chăng Nguyễn Du tới chốn u tịch này,
xử thế theo đúng lời Lăo Tử dậy trong Chương XV 6:
若 畏 四 鄰
nhược úy
tứ lân
nghĩa là:
như sợ
láng giềng bốn bên bước đầu tiến tới chỗ đạt đươc mức 7:
不 敢 為 天 下
先
bất cảm
vi thiên hạ tiên
nghĩa là
:
không dám
đặt ḿnh trên thiên hạ
để đạt
tới mức vô danh, vô kỷ, vô công của một chân nhân như trong
sách Trang Tử Nam Hoa Kinh 8.
Nguyễn Du
ghi lại cảm nghĩ của ông trong những ngày tản cư, như thấy
trong hai bài kế tiếp:
漫 興
二 首
Mạn Hứng
nhị thủ
其 一
kỳ nhất
百 年 身 世 委
風 塵
Bách niên
thân thế ủy phong trần
旅 食 江 津 又
海 津
Lữ thực
giang tân hựu hải tân
高 興 久 無 黃
閣 夢
Cao hứng
cửu vô hoàng các mộng
虛 名 未 放 白
頭 人
Hư danh
vị phóng bạch đầu nhân
三 春 積 病 貧
無 藥
Tam xuân
tích bệnh bần vô được
卅 載 浮 生 患
有 身
Táp tải
phù sinh hoạn hũu thân
遙 憶 家 薌 千
里 外
Dao ước
gia hương thiên lư ngoại
澤 車 段 馬 愧
東 鄰
Trạch xa
đoạn mă quí đông lân.
其 二
kỳ nhị
行 腳 無 根 任
轉 蓬
Hành cước
vô căn nhiệm chuyển bồng
江 南 江 北 一
囊 空
Giang nam
giang bắc nhất nang không
百 年 窮 死 文
章 裡
Bách niên
cùng tử văn chương lư
六 尺 浮 生 天
地 中
Lục xích
phù sinh thiên địa trung
萬 里 黃 冠 將
暮 景
Vạn lư
hoàng quang tương mộ cảnh
一 頭 白 髮 散
西 風
Nhất đầu
bạch phát tản tây phong
無 窮 今 古 傷
心 處
Vô cùng
kim cổ thương tâm xứ
依 舊 青 山 夕
照 紅
Y cựu
thanh sơn tịch chiếu hồng.
dịch là:
Mạn Hứng
hai bài
I
Trăm năm
thân thế long đong
Ăn nhờ
băi biển bờ sông phong trần
Gác vàng
mộng cũ đà tàn
Bạc đầu
chưa thoát nẻo đàng hư danh
Ba năm
không thuốc bệnh lành
Có thân
có khổ phù sinh nửa đời
Dăm ngàn
quê cũ xa vời
Ngựa gầy
xe nhỏ thẹn người xóm đông.
II
Chân
không bén rễ bông lông
Bến nam
bờ bắc tay không đi về
Nghiệp
văn sống chết chẳng nề
Tấm thân
sáu thước mải mê ṿng trời
Mũ vàng
muôn dặm chiều rơi
Trên đầu
tóc trắng rối bời gió thu
Đau ḷng
truyện cũ thật hư
Vừng hồng
nắng tắt mịt mù non xanh.
Trong bài
Mạn Hứng I, như ghi lại nỗi khó khăn của ông trong những năm
tháng tản cư về miền bờ sông băi biển. Giấc mộng gác vàng
nay đă tàn, bệnh cũ ba năm không thuốc thang cũng lành, có
thân có khổ ai chẳng vậy, xa quê nhớ nhà cũng nguôi ngoai,
nhưng dầu nay tóc đă bạc ông c̣n thấy ḿnh bị giàng buộc với
chữ hư danh. Bốn chữ trạch xa đoạn mă trong câu chót, theo
giới b́nh giảng thơ Nguyễn Du, thời ông đă trích lời Mă
Thiếu Du, người em họ của Mă Viện, theo sách Hậu Hán Thư,
nói với anh: “Kẻ sĩ sinh ra ở đời, chỉ cần đủ cơm ăn áo mặc,
ngồi xe nhỏ cưởi ngụa c̣m, làm viên lại ở quận, giữ được mồ
mả ở làng, đủ là người tốt được rồi”, trái với Mă Viện có
chí lớn lập công to, dầu phải chết ở chiến trường lấy da
ngựa bọc thây. Nguyễn Du thẹn với người bên xóm đông vui với
cỗ xe nhỏ con ngựa gầy, phải chăng bởi chợt thấy ḿnh chưa
thoát khỏi chữ hư danh ?
Trong bài
Mạn Hứng II, ông cũng ghi lại cảnh sống như cỏ bồng trốc rễ
của ông, nhưng ông thấy ḿnh hăy c̣n mê say với văn thơ. Ông
thoáng thấy h́nh bóng ḿnh với chiếc mũ vàng, tức trở thành
một đạo sĩ, nhưng gió tây hiện c̣n thổi bù mái tóc trắng của
ông. Những truyện đau ḷng chỉ là những điều vô thường, cái
thường hằng là núi xanh trong nắng nhạt chiều vàng trước mắt
ông.
Tiếp
theo là bài:
春 夜
Xuân Dạ
黑 夜 韶 光 何
處 尋
Hắc dạ
thiều quang hà xứ tầm
小 窗 開 處 柳
陰 陰
Tiểu song
khai xứ liễu âm âm
江 湖 病 到 經
時 久
Giang hồ
bệnh đáo kinh thời cửu
風 雨 春 隨 一
夜 深
Phong vũ
xuân tùy nhất dạ thâm
羈 旅 多 年 燈
下 淚
Ky lữ đa
niên đăng hạ lệ
家 鄉 千 里 月
中 心
Gia hương
vạn lư nguyệt trung tâm
南 臺 村 外 龍
江 水
Nam Đài
thôn ngoại Long giang thủy
一 片 寒 聲 送
古 今
Nhất
phiến hàn thanh tống cổ kim.
dịch là:
Đêm Xuân
Đêm xuân
đen tối mịt mù
Dập dờn
bóng liễu âm u song ngoài
Giang hồ
đau ốm bấy nay
Xuân về
mưa gió canh dài thâu canh
Xa quê
năm tháng qua nhanh
Nhớ nhà
nhớ ánh trăng thanh ngỡ ngàng
Xóm Nam
Đài bến Long Giang
Tiễn đưa
tiếng sóng giá băng tấc ḷng.
Trong
hiện cảnh một đêm xuân gió dập mưa vùi, trời tối đen như
mực, lại thêm cảnh đau ốm kéo dài, Nguyễn Du nhỏ lệ nhớ lại
những đêm sáng trăng nơi quê nhà, nhớ xóm Nam Đài, nhớ bến
Long Giang, với tiếng sóng bên tai những buồi tiễn đưa, như
ông ghi trong mấy bài sau đây:
留 別 阮 大 郎
Lưu Biệt
Nguyễn Đại Lang
西 風 歸 袖 柳
高 林
Tây phong
quy tụ liễu cao lâm
傾 盡 離 杯 話
夜 深
Khunynh
ntận ly bôi thoại dạ thâm
亂 世 男 兒 羞
對 劍
Loạn thế
nam nhi tu đối kiếm
他 鄉 朋 友 重
分 襟
Tha hương
bằng hữu trọng phân khâm
高 山 流 水 無
人 識
Cao sơn
lưu thủy vô nhân thức
海 角 天 涯 何
處 尋
Hải giác
thiên nhai hà xứ tầm
留 取 江 南 一
片 月
Lưu thủ
giang nam nhất phiến nguyệt
夜 來 常 照 兩
人 心
Dạ lai
thường chiếu lưỡng nhân tâm.
dịch là:
Lưu Biệt
Anh Nguyễn
Gió về
rừng liễu áo bay
Biệt ly
chén cạn t́nh đầy thâu canh
Ngắm gươm
thời loạn hổ ḿnh
Bạn bè
đất khách nặng t́nh chia phôi
Chân trời
góc biển đôi nơi
Non cao
nước chẩy ai người hiểu ta
Trời nam
c̣n mảnh trăng ngà
Soi chung
đôi ngả đôi ta đêm dài.
Giới
nghiên cứu không rơ Nguyễn Đại Lang trong bài thơ này là ai.
Câu thứ ba đặt ra câu hỏi là tại sao tác giả giữa thời loạn
nh́n gươm lại thẹn cho ḿnh? Trong cả tám câu không có chữ
nào giúp người đọc hiểu rơ hơn. Phải chăng cần phải đối
chiếu với một số bài khác trong toàn bộ thơ của tác giả?
Bài tiễn
biệt thứ hai là bài:
送 阮 士 友 南
歸
Tống
Nguyễn Sĩ Hữu Nam Quy
南 山 有 鳥 含
精 華
Nam Sơn
hữu điểu hàm tinh hoa
飛 去 飛 來 輕
網 羅
Phi khứ
phi lai khinh vơng la
鴻 嶺 有 人 來
做 主
Hồng Lĩnh
hữu nhân lai tố chủ
白 頭 無 賴 不
還 家
Bạch đầu
vô lại bát hoàn gia
生 平 文 彩 殘
籠 鳳
Sinh b́nh
văn thái tàn lung phượng
浮 世 功 名 走
壑 蛇
Phù thế
công danh tẩu hắc xà
歸 去 故 鄉 好
風 月
Quy khứ
cố hương hảo phong nguyệt
午 窗 無 夢 到
天 涯
Ngọ song
vô mộng đáo thiên nhai.
dịch là:
Tiễn
Nguyễn Sĩ Hữu Về Nam
Nam Sơn
có con chim khôn
Bay đi
lượn lại coi nhờn lưới ngăn
Non Hồng
rầy có chủ nhân
Bạc đầu
đành vẫn gửi thân sống nhờ
Văn thơ
lồng phượng nằm co
Công danh
mây nổi rắn ḅ về hang
Quay về
trăng gió quê hương
Trưa hè
đẫy giấc bên song quên đời.
Giới
nghiên cứu chưa t́m ra được Nguyễn Sĩ Hữu là nhân vật nào.
Nhưng trong hai câu đầu, người đọc thấy như nhân vật này
cũng là người đất Hồng Lĩnh như tác giả. Đất này đă có chủ
mới, nhưng Nguyễn Du vẫn chưa quay về. Hai câu năm và sáu
cho thấy tác giả coi việc nhập thế và truyện công danh đều
không đáng trọng. Hai câu cuối cùng với hai chữ quy khứ
khiến người đọc cảm thấy như tác giả muốn nhắc tới việc lui
về đồng ruộng tựa Đào Tiềm.
Ngày thu
chí nhắc Nguyễn Du truyện thời gian trôi qua, cuộc tản cư ở
nhờ kéo dài, ông ghi lại những cảm tưởng thương thân trong
hoàn cảnh đó như sau:
秋 至
Thu Chí
四 時 好 景 無
多 日
Tứ thời
hảo cảnh vô đa nhật
拋 擲 如 梭 喚
不 回
Phao
trịch như thoa hoán bất hồi
千 里 赤 身 為
客 久
Thiên lư
xích thân vi khách cửu
一 庭 萬 葉 送
秋 來
Nhất đ́nh
vạn diệp tống thu lai
簾 垂 小 閣 西
風 動
Liêm thùy
tiểu các tây phong động
雪 暗 窮 村 曉
角 哀
Tuyết ám
cùng thôn hiểu giác mai
惆 悵 流 光 催
白 髮
Trù
trướng lưu quang thôi bạch phát
一 生 幽 思 未
曾 開
Nhất sinh
u tứ vị tằng khai.
dịch là:
Thu Chí
Bốn mùa
cảnh đep bao ngày
Thoi đưa
vùn vụt chẳng quay trỏ về
Thân già
ngàn dặm xa quê
Vào thu
vàng rụng năo nề lá bay
Rèm
nghiêng gác nhỏ gió tây
Xóm nghèo
tiếng ốc sớm mai năo nùng
Ngày qua
buồn tóc nhuốm sương
Một đời u
uất không đường gỡ ra.
Cảnh thu
c̣n gợi hứng cho Nguyễn Du viết hai bài dưới đây trong thi
cảnh đêm vắng, tâm cảnh chĩu buồn hơn nữa v́ bệnh tật hành
hạ và ở trong cảnh nhớ thương cách biệt, lại thêm nổi thiếu
thốn vật chất.
秋 夜
Thu Dạ
二 首
Nhị Thủ
其 一
繁 星 歷 歷 露
如 銀
Phồn tinh
lịch lịch lô như ngân
東 壁 寒 虫 悲
更 辛
Đông bích
hàn trùng bi cánh tân
萬 里 秋 聲 催
落 葉
Vạn lư
thu thanh thôi lạc điệp
一 天 寒 色 掃
浮 雲
Nhất
thiên hàn sắc tảo phù vân
老 來 白 髮 可
憐 汝
Lạo lai
bạch phát khả liên nhữ
住 久 青 山 未
厭 人
Trú cửu
thanh sơn vị yếm nhân
最 是 天 涯 倦
遊 客
Tối thị
thiên nhai quyện du khách
窮 年 臥 病 劌
江 津
Cùng niên
ngọa bệnh Quế Giang tân.
其 二
白 露 為 霜 秋
氣 深
Bạch lộ
vi sương thu khí thâm
江 成 草 木 共
蕭 森
Giang
thành thảo mộc công tiêu sâm
剪 燈 獨 照 初
長 夜
Tiễn đăng
độc chiếu sơ trường dạ
握 髮 經 懷 末
日 心
Ác phát
kinh hoài mạt nhật tâm
千 里 江 山 頻
悵 望
Thiên lư
giang sơn tần trướng vọng
四 時 湮 景 獨
時 吟
Tứ thời
yên cảnh độc thời ngâm
早 寒 已 覺 無
衣 苦
Tảo hàn
dĩ giác vô y khổ
何 處 空 閨 催
暮 砧
Hà xứ
không khuê thôi mộ châm.
dịch là:
Đêm Thu
Hai bài
I
Đầy trời
sao sáng bạc sương
Năo nùng
canh vắng ven tường dế than
Tiếng thu
ngàn dặm lá vàng
Mây quang
lạnh giá ngút ngàn trời trong
Sóm già
thương tóc điểm sương
Non xanh
chưa chán ngạ ngùng t́nh thơ
Bên trời
mỏi mệt bơ phờ
Suốt năm
nằm bệnh bên bờ Tuế Giang.
II
Trời thu
trắng móc nḥa sương
Xác xơ
cây cỏ bên sông đầu thành
Đêm dài
khêu ngọn đèn xanh
Ngày tàn
vắt tóc thương ḿnh long dong
Non sông
ngàn dặm ước mong
Bốn mùa
mây phủ khói lồng âu lo
Lạnh về
thiếu áo co ro
Rộn ràng
chầy vải lửng lơ bóng chiều.
Tạm bỏ
bài Khất Thực, chỉ c̣n lại bốn câu, Thanh Hiên Tiền Hậu Tập
chép tiếp bài:
雜 吟
Tạp Ngâm
踏 遍 天 涯 又
海 涯
Đạp biến
thiên nha hựu hải nha
乾 坤 隨 在 即
為 家
Càn khôn
tùy tại tức vi gia
平 生 不 起 蒼
蠅 念
B́nh sinh
bất khởi thương dăng niệm
今 古 誰 同 白
蟻 窩
Kim cổ
thùy đồng bạch nghĩ oa
寥 落 壯 心 虛
短 劍
Liêu lạc
tráng tâm hư đoản kiếm
蕭 倏 旅 悶 對
時 歌
Tiêu điều
lữ muộn đối thời ca
閉 門 不 識 春
深 淺
Bế môn
bất thức xuân thâm thiển
但 見 棠 蔾 落
盡 花
Đăn kiến
đường lê lạc tận hoa.
dich là:
Tạp Ngâm
Gót ṃn
biển rộng trời cao
Dọc ngang
tṛi đất ngả đâu cũng nhà
Truyện
ruồi xanh đà bỏ qua
Sống
chung tổ kiến ḷng ta ngại ngùng
Tráng tâm
tàn lụi thẹn gươm
Thời ca
xiết chặt mối buồn buồn thêm
Chẳng hay
sớm muộn tiết xuân
Gốc lê
hoa rụng trắng ngần tả tơi.
Nỗi buồn
v́ hoàn cảnh cá nhân thiếu thốn trong hai bài Thu Dạ trên
đây, nhường chỗ chố mối buồn v́ thời cuộc trong thi hứng của
Nguyễn Du trong bài Tạp Ngâm. Hai câu đầu ông nhắc lại hiện
cảnh tản cư phải ở đậu nơi quê người, Hai câu tiếp cho thấy
ông muốn bỏ qua hay đúng là chán nản cố quên nhưng truyện
nhỏ nhặt trong đời sống tạm bợ lúc này mà ông không thể bước
ra khỏi đươc. Câu kế theo, ông nh́n thanh gươm ngắn mà thẹn,
ư thơ này lạp lại ư thơ trong câu thứ ba bài Lưu Biệt Nguyễn
Đại Lang. Lần này Nguyễn Du dường như nói rơ hơn đôi chút:
bài thời ca làm tăng mối buồn của ông. Hai câu cuối cùng gợi
cho người đọc hai câu 21-22 trong bài Đào Nguyên Kư của Đào
Tiềm9:
雖 無 紀 歷 志
Tuy vô kỷ
lịch chí
四 時 自 成 歲
Tứ th́ tự
thành tuế
nghĩa là:
tuy không dùng lịch, bốn mùa tự thành năm, tỏ ư người dân
lánh nạn Tần Thủy Hoàng vào ẩn tại Nguồn Đào, không dùng
lịch của vua, nh́n bốn mùa trôi qua tự ghi thành năm. Trở
lại hai câu kết bài Tạp Ngâm của Nguyễn Du, cho thấy ḷng
căm giận của ông với triều Tây Sơn, đă đốt phá làng ông, làm
tan nát đại gia d́nh ông, sau khi người anh thứ tư của ông
tức Nguyễn Quưnh nổi lên chống Tây Sơn, chẳng kém ǵ ḷng
người Trung Quốc xưa kia căm giận Tần Thủy Hoàng.