Tuyển
Tập:
LIÊU
TRAI
CHÍ
DỊ
GS
Đàm
Quang
Hưng
Giáo
Sư Toán
Trường Đại Học Cộng Đồng Houston, Texas
158.
KIM HÒA THƯỢNG
Phú quý tùng trung kết thiện duyên
Bất trì kinh chú bất tham thiền
Thích ca vô ngữ đồ lê tiếu
Y bát như Kim hữu biệt truyền
158.
LƯU MANH XƯNG HOÀ
THƯỢNG
Làng Thủy Pha, huyện Chư Thành, tỉnh Sơn Đông, có kẻ tên Kim
Khắc Hồng, có vợ, một trai. Tuy đứa con có diện mạo xấu xí,
thân hình thô kệch, tứ chi cục mịch, nhưng Khắc Hồng lại đặt
cho nó cái tên rất đẹp là Tuấn Chương.
Năm Tuấn
Chương lên 9, Khắc Hồng goá vợ.
Hết tiền
sinh sống, Khắc Hồng phải đem con lên chùa Ngũ Liên Sơn, xin
bán cho chùa. Thương cảnh nhà nghèo, cha goá con côi, hoà
thượng trụ trì trả cho Khắc Hồng 200 đồng. Khắc Hồng về rồi,
hòa thượng đem Phật pháp ra giảng cho Tuấn Chương nghe xem
có thể cho làm chú tiểu được không. Thấy Tuấn Chương trì
độn, chẳng hiểu chi cả, hòa thượng đành giao cho việc đi
chợ, chăn heo.
Bảy năm sau, hòa
thượng viên tịch.
Vì trong tang lễ,
Tuấn Chương chưa tụng được một câu kinh, chưa niệm được một
câu chú, nên sau tang lễ, Tuấn Chương vơ vét hết tiền bạc
cùng mọi đồ kim ngân trong chùa, cuốn gói trốn đi, chỉ để
lại có một chuông đồng, một mõ gỗ.
Tuấn
Chương lấy của chùa làm vốn đi buôn. Hễ thấy bán món chi có
lời là Tuấn Chương buôn ngay, dù lớn hay nhỏ, từ ngựa xe,
nhà cửa, tới sợi chỉ, que kim.
Vì lường gạt được cả
kẻ bán lẫn người mua nên chỉ bốn năm sau, Tuấn Chương đã trở
thành cự phú. Tuấn Chương bèn tung tiền kết nạp những kẻ
nghèo khó, vô nghệ nghiệp về làm môn nhân đủ loại, như con
hầu, đày tớ, bà vú, bõ già, đầu bếp. Có tới ngàn kẻ dẫn cả
vợ con tới xin làm môn nhân. Tuấn Chương tuyển chọn, kết nạp
chừng 300 gia đình.
Một hôm, Tuấn Chương
nhớ quê, liền quyết định đưa cả 300 gia đình môn nhân về
làng Thủy Pha cư ngụ.
Về làng, Tuấn Chương
bỏ tiền ra mua một khuôn viên vuông vức, rộng hơn chục mẫu,
thuê thợ xây cất riêng cho mình một dinh cơ đồ sộ.
Từ ngoài đường đi
vào, sau cổng chính là một quảng trường mênh mông, chung
quanh có dựng 4 dãy nhà liền nhau để cho các gia đình môn
nhân cư ngụ. Chính giữa quảng trường, có xây một ngôi nhà
lớn, gồm hai phần, trước là sảnh đường, sau là nội tẩm.
Trong sảnh đường,
trên các trụ cột đều có khắc hình Tuấn Chương. Bình phong,
bàn ghế đều được quang dầu bóng lộn, có thể làm gương soi.
Các đồ trang trí đều là bảo vật. Có nhiều bảo vật mà khách
tham quan chưa từng được nhìn thấy hay được nghe nói tới bao
giờ
Trong nội tẩm, có
giường khảm xà cừ, trên trải nệm gấm dày hơn thước. Ở 4 góc
giường có 4 cột gỗ bóng lộn. Trước giường có treo màn thêu,
với 2 rèm nhiễu đỏ, hương xạ thơm lừng. Bốn bức tường quanh
nội tẩm đều được treo kín bằng tranh mỹ nhân và phong cảnh
nổi tiếng. Trước cửa nội tẩm có treo một bức trướng gấm,
thêu rồng thêu phượng, cực kỳ xa xỉ.
Tuy chẳng dám nuôi
nhà trò con hát vì e dân làng dị nghị nhưng Tuấn Chương có
nuôi 20 tiểu đồng đẹp đẽ khôi ngô, giỏi nghề nịnh hót, mặc
đồng phục, quấn khăn đen, đi hài đoạn, tập múa hát những
khúc ca diễm tình để trình diễn trước khách tham quan.
Tuấn Chương thường
dung túng đám môn nhân, bất kể luật pháp triều đình. Có môn
nhân cãi vã với người rồi nổi nóng giết người, đem xác vào
chôn dưới gầm giường. Có kẻ báo cho Tuấn Chương hay thì Tuấn
Chương chỉ đuổi môn nhân ấy đi, nhưng cấm mọi kẻ trong nhà,
không ai được đi trình quan
Khi ở nhà, hễ Tuấn
Chương gọi một tiếng là có cả mấy chục con hầu đày tớ dạ
ran, đua nhau chạy lên chờ lệnh. Khi có đông khách tham quan
thì chỉ trong khoảnh khắc là đã có cả chục chiếc chiếu hoa
cạp điều được trải ra trong sảnh đường để mời khách an tọa.
Rồi chỉ lát sau là đầu bếp đã cho con hầu bưng lên đủ loại
thịt cá, xào nấu thơm ngon, mời khách dùng rượu.
Khi ra ngoài, Tuấn
Chương cưỡi tuấn mã có phủ yên cương thêu tua, trông cao
sang như bậc công hầu quý phái. Đám môn nhân đeo kiếm cung
quanh bụng, cưỡi ngựa theo hầu, tiền hô hậu ủng, trông rất
oai vệ.
Tuấn Chương coi dân
chúng trong vùng như con cháu mình, tự xưng là Kim Hoà
Thượng. Thế nhưng, vì từ khi trốn khỏi chùa, Tuấn Chương
chưa hề trở lại chùa nên dân chúng trong vùng vẫn không chịu
gọi Tuấn Chương bằng hòa thượng, bằng thầy hay
bằng một danh hiệu nhà Phật mà chỉ gọi bằng
chú, bằng bác, hay bằng ông mà
thôi. Tuy nhiên, có một số môn nhân lại gọi Tuấn Chương bằng
cha.
Tuấn
Chương có tính hiếu sắc, thường ban phát phấn sáp điểm trang
cho những đàn bà con gái có chút nhan sắc, thuộc các gia
đình môn nhân. Để tạo thêm của cải, Tuấn Chương tậu cả ngàn
mẫu ruộng, bắt các gia đình môn nhân phải cày cấy cho
mình..
Sau cùng, để sửa
soạn cho hậu sự, Tuấn Chương thuê thợ đóng sẵn cho mình một
quan tài bằng gỗ cực quý, trạm trổ tinh vi. Tuấn Chương mua
một khuôn viên vuông vức, rộng trên 4 mẫu, thuê thợ dựng
hàng rào bao quanh, có đầy đủ cổng chính, cổng phụ, đào sẵn
cho mình một huyệt mộ, xây một nhà mồ cực kỳ xa xỉ, có đầy
đủ phòng ốc, hành lang, với nhiều đồ trang trí quý giá, ít
người biết tên gọi, trông chẳng khác chi tư thất của các bậc
công hầu đang thời thịnh thế.
Tuấn Chương tìm cách
giao thiệp với các quan chức cao cấp địa phương để cậy quyền
thế của họ mà áp đảo dân chúng quanh vùng, khiến những người
lỡ có chuyện đụng chạm với Tuấn Chương thường lo sợ đến mất
ăn mất ngủ. Tuấn Chương lại giao thiệp với các nhà quyền quý
ở xa nên có rất nhiều người ở cách ngàn dặm cũng biết tiếng
Tuấn Chương.
Để khoe của, Tuấn
Chương yết bảng mời khách phương xa tới làng Thủy Pha tham
quan cơ nghiệp của mình. Tuấn Chương mua lại của một phú ông
trong làng một dãy nhà gồm 30 căn, rộng rãi mát mẻ, chỉ dùng
làm nơi tạm cư cho khách tham quan trong thời gian khách ở
Thủy Pha.
Vì không vợ không
con, Tuấn Chương sang làng bên mua một đứa bé họ Đào, 9
tuổi, đem về làm con nuôi. Tuấn Chương đặt tên cho đứa bé là
Bỉnh Trung, rước thầy đồ về nhà dạy học. Vì tư chất thông
minh nên năm sau, Bỉnh Trung thi đậu vào học ở trường huyện.
Sáu năm
sau. Bỉnh Trung đi thi hương, đậu hiếu liêm (cử
nhân). Từ đó, đám môn nhân đều gọi Tuấn Chương bằng
Thái Công. Cũng từ đó, khách tới thăm Tuấn Chương đều lễ
phép, kính cẩn, chắp tay, cúi đầu từ ngoài cổng vào nhà. Hai
năm sau, Tuấn Chương cưới vợ cho Bỉnh Trung, người họ
Khương.
Hai năm sau nữa,
Tuấn Chương bị bạo bệnh mà chết. Bỉnh Trung bèn sai môn nhân
khâm liệm thi thể, đặt vào quan tài đóng sẵn, đặt linh cữu
giữa sảnh đường, chung quanh chất đầy hương hoa và trái cây
cùng mọi lễ vật. Bỉnh Trung với Khương thị cùng mặc xô gai,
để tang Tuấn Chương theo lễ trưởng nam, tức nữ. Chỉ có một
mình Khương thị được vào ngồi khóc trên chiếc chiếu hoa cạp
điều trải sau linh cữu. Những môn nhân tự coi mình như con
đẻ của Tuấn Chương thì phải tự tay đi đốn trúc làm gậy chống
chịu tang.
Các quan chức cao
cấp địa phương tới viếng tang cũng phải khom lưng bước từ
cửa vào sảnh đường. Các quan chức cấp thấp cùng các thân hào
nhân sĩ trong vùng thì phải chống tay xuống đất mà bò vào.
Họ bắt vợ con họ phải ăn mặc sạch sẽ, tới chia buồn, an ủi
Khương thị. Ngựa xe của đám người tới viếng tang làm tắc
nghẽn cả đường phố.
Ngày đưa
đám, Bỉnh Trung ra lệnh cho đám môn nhân phải dựng một rạp
thực dài để quan khách tham dự tang lễ đứng tránh nắng. Cành
phan, cờ quạt, lọng tán cũng che rợp cả ánh nắng một vùng.
Khi bắt
đầu đưa đám, có một môn nhân đóng vai thần mở đường, đầu
quấn khăn lụa đen, vắt vẻo ngồi trên một xe ngựa cao lênh
khênh, đi trước linh cữu.
Theo sau
linh cữu là vợ chồng Bỉnh Trung rồi đến đám môn nhân. Kế đến
là các quan chức cao cấp địa phương rồi đến các quan chức
cấp thấp và thân hào nhân sĩ. Sau cùng mới đến đám dân chúng
hiếu kỳ.
Rất đông dân chúng
trong vùng rủ nhau đi coi đám táng. Đàn ông dắt vợ, đàn bà
địu con, mồ hôi nhễ nhại mà vẫn chịu khó đứng chen nhau bên
đường để chờ đám táng đi qua. Khi đám táng tới gần thì tiếng
trống tiếng la, đinh tai nhức óc, chẳng còn ai nói chuyện
được với ai. Lúc đó thì dù có người la hét cũng chẳng ai
nghe thấy tiếng. Từ xa nhìn vào, người ta chỉ thấy hàng vạn
chiếc đầu đồng loạt cử động để nhìn theo đám táng, còn từ
vai trở xuống thì chẳng ai nhìn thấy chi.
Khi đám
táng tới nhà mồ, người ta bày ra đủ loại phẩm vật tế lễ cùng
các pho tượng phúng viếng để làm lễ an táng.
Có tới
trên 300 món, gồm đủ mọi loại vật dụng lớn nhỏ, kể cả ngựa
xe, mỹ nữ, do đám môn nhân bện bằng cỏ, dán giấy ngũ sắc lên
trên, để tuẫn táng, nghĩa là để chôn chung với linh
cữu Tuấn Chương. Họ tin rằng làm như thế thì Tuấn Chương sẽ
nhận được đầy đủ mọi loại vật dụng cần thiết để dùng dưới âm
phủ. Có nhiều khách dự tang lễ và dân chúng đi coi bị lạc
trong nhà mồ, nửa ngày sau mới về được tới nhà.
Đám táng
này nổi tiếng là đám táng lớn nhất trong vùng vào thời bấy
giờ.
Sau tang lễ, Bỉnh
Trung chia gia tài theo di chúc của Tuấn Chương.
Ngôi nhà lớn cùng
tiền bạc thì được dành cho Bỉnh Trung, còn các dãy nhà ở
chung quanh quảng trường thì được chia đều cho các môn nhân.
Bất kể thân sơ, ai cũng có phần.
Có chuyện lạ
như sau:
Một sản phụ sắp đến
ngày sanh cũng cố lết đi coi. Tới nơi, sản phụ trở dạ. Đám
bạn gái phải dùng quần của sản phụ quây thành màn che cho
sản phụ sanh con. Khi nghe tiếng hài nhi oe oe chào đời, đám
bạn gái mải coi đám táng, chẳng ai buồn để ý xem hài nhi là
gái hay trai. Họ chỉ xé áo quần để băng bó cho sản phụ, rồi
ẵm hài nhi, dìu sản phụ khập khiễng đi theo đám táng để tiếp
tục cùng coi.
Quả là chuyện lạ.
GS
Đàm
Quang
Hưng
Giáo
Sư Toán
Trường Đại Học Cộng Đồng Houston, Texas
www.ninh-hoa.com |