Thơ & Truyện Nguyễn Văn Nghệ            |             www.ninh-hoa.com

NGUYỄN VĂN NGHỆ

Người làng Phong Ấp, xă Ninh Binh, Ninh Ḥa.

Tốt nghiệp K.19 Khoa Lịch sử Trường Đại học Khoa Học Huế

 

 

Hiện cư ngụ tại UK


 

 

 

 

 

 

 

TẢN MẠN TÊN GỌI CỦA MỘT VÀI

XỨ ĐẠO Ở KHÁNH H̉A
Nguyễn Văn Nighệ
 

  

 

  Trước đây dưới thời linh mục Benedicto Nguyễn Công Phú làm linh mục chánh xứ giáo xứ Cây Vông, linh mục vẫn duy tŕ cách gọi và phân chia khu vực trong giáo xứ đă có từ thời linh mục Gioan Phùng Văn Như và linh mục Vincente Lê Công Khương : giáo xứ chia thành bốn khu vực, gọi tắt là “Khu”. Đó là khu Phê rô; khu Phao lô; khu Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp; khu Fatima.

  Đến thời linh mục Augustino Mai Hứa bỏ cái từ “Khu” v́ theo linh mục cái từ “Khu” nghe không được thanh nhă cho lắm( Ví dụ có người hỏi: Anh ở khu nào? Thay v́ trả lời: Tôi ở khu Phê rô hoặc khu Phao lô th́ họ lại nói tắt: Tôi ở trong khu ông A hoặc trong khu ông B [do ông A hoặc ông B làm trưởng khu])nên đổi “Khu” thành “Giáo họ”. Ở giáo xứ  Đồng Hộ không gọi là “Khu” cũng không gọi “Giáo họ” mà  gọi là “Khu giáo A; Khu giáo B…”

 

  Cái từ “ Khu giáo” nghe hơi khiên cưỡng, bởi v́ trong từ ngữ giáo hội Việt Nam sử dụng th́ từ “giáo” được đặt lên phía trước như: giáo tỉnh, giáo khu, giáo phận, giáo hạt, giáo xứ, giáo họ, giáo điểm... Giáo họ là cách gọi nửa Hán,nửa nôm, tức là họ đạo. Chẳng lẽ trong giáo xứ Cây Vông có bốn “Họ đạo” (Giáo họ). Giáo họ là một xóm đạo nhỏ cách nhà thờ chính khoảng vài cây số, ở đó cũng có một ngôi nhà thờ nhỏ để giáo dân đến đọc kinh sớm tối.Trong bài “ Giáo xứ B́nh Cang: H́nh thành và phát triển” ghi: “ Giáo xứ B́nh Cang trước kia có hai Giáo họ là Ḥa Tân và Cầu Ké. Hiện nay đă thành hai Giáo xứ. Họ lẻ Thánh Gia nay trở thành Giáo họ biệt lập”. Giáo họ được hiểu là “họ lẻ”. Giáo xứ là gọi theo âm Hán – Việt. Gọi theo cách nôm na là “ Xứ đạo”, “Họ đạo”. Thế hệ của cha mẹ tôi không sử dụng từ “Giáo xứ” mà chỉ gọi là “ họ Cây Vông” hoặc “xứ Cây Vông” mà thôi. Nếu gọi đúng theo văn bản của Giáo hội trước đây là “Địa sở Cây Vông” (Hiện nay cổng vào nhà thờ Trà Kiệu, huyện Duy Xuyên, Quảng Nam vẫn c̣n bốn chữ “Địa sở Trà Kiệu”). Họ th́ có “Họ chánh” và “Họ lẻ” (c̣n gọi là “Họ nhánh”). Họ chánh có nhiều họ nhánh. Trước năm 1943 họ Hà Dừa có nhiều họ nhánh như : Cây Vông, Đồng Dưa (Đại Điền), Đồng Dài,Đồng Hộ, Cư Thạnh. Cha phó của họ chánh tới ở luôn tại một họ nhánh gọi là “Cha phó biệt lập”. Đầu năm 1943 họ nhánh Cây Vông được tách ra khỏi họ chánh Hà Dừa để trở thành họ chánh với linh mục tiên khởi là linh mục An tôn Phạm Cảnh Chẩm quê Trà Kiệu. Họ Đồng Dưa (Đại Điền) trở thành họ nhánh của họ Cây Vông.

 

   Hiện nay là thời đại thông tin toàn cầu, tại sao chúng ta không quy định thống nhất tên gọi các khu vực trong giáo xứ. Cũng cùng một giáo phận nơi th́ gọi là “Giáo họ”, nơi th́ gọi là “Khu giáo”, nơi th́ gọi “ Giáo khu” (Vạn Giă), nơi th́ gọi “Vùng” (Tân Hội- Phan Rang)…

 

    Giáo xứ Ḥa Thanh (Ninh An- Ninh Ḥa)

 

   Vào lúc 16 giờ ngày 19/07/2015 anh Nguyễn Xuân Nhị lớp Sao Biển 1958 tổ chức lễ tạ ơn mừng thọ thất tuần (70) tại nhà thờ giáo xứ Ḥa Thanh, tôi cùng một số anh Sao Biển lớp lớn ra tham dự. Lâu nay tôi đến nhà anh Nhị nhiều lần nhưng chưa bao giờ đến nhà thờ Ḥa Thanh. Lần đầu tiên đến nhà thờ Ḥa Thanh nhưng đến trong dịp “cửu hạn phùng cam vơ” (xe ra đến Phú Hữu th́ trời mưa rỉ rả kéo dài cho đến khi anh em dự tiệc xong về đến Nha Trang trời vẫn c̣n mưa). Từ tiền đường nhà thờ tôi nh́n bao quát và nói với anh em là trong địa phận Nha Trang không có nhà thờ nào có thế đất đẹp như nhà thờ Ḥa Thanh: lưng tựa vào núi nh́n ra cánh đồng bao la. Nếu giáo xứ đồi dào ngân quỹ th́ nên mua ngọn đồi kế sau lưng nhà thờ để sau này có thể làm đồi Đức Mẹ hoặc đồi Thánh Giá th́ rất đẹp.

 

    Trong lúc tiệc tùng, tôi có đề nghị với linh mục Phê rô Trần Anh Phú, cha sở xứ Ḥa Thanh: Sao cha không xin đổi tên giáo xứ thành Ḥa Huỳnh để nhiều người biết đến hơn là Ḥa Thanh?  Tên Ḥa Thanh : “Rằng hay th́ thật là hay/ Nghe qua chẳng biết xứ này ở đâu?”. Đúng y như vậy, nhiều người trong Giáo phận Nha Trang khi nói đến giáo xứ Ḥa Thanh th́ họ ngơ ngác không định vị được giáo xứ Ḥa Thanh ở đâu! Tên Ḥa Huỳnh phát âm theo tiếng địa phương là “Quà Quỳnh”. C̣n khi phiên âm từ Hán sang Việt nếu không hiểu ngôn ngữ vùng miền sẽ phiên âm là Ḥa Hoàng (người dân Đàng Trong cử tên Hoàng và đọc là Huỳnh).

 

    Địa danh Ḥa Huỳnh đă có trên 209 năm. Ḥa Huỳnh là một trong chín dịch trạm trên đất Khánh Ḥa dưới thời nhà Nguyễn. Ngày xưa trên đường thiên lư Bắc Nam cứ cách nhau khoảng 10 - 15 cây số th́ đặt một Dịch trạm. Dịch trạm là để chuyển công văn hoặc đón rước các quan đi công cán từ dịch trạm này qua dịch trạm nọ. Tháng 2 năm Canh Thân (1800) đặt phu trạm ở dinh B́nh Khang (dinh B́nh Khang, năm 1803 đổi thành dinh B́nh Ḥa, năm 1808 đổi làm trấn B́nh Ḥa, năm 1832 đổi thành tỉnh Khánh Ḥa). Dinh B́nh Khang có 9 dịch trạm tính từ Nam ra Bắc là Du Quân, Da Khê, Đại An, Phú Mỹ, Sa Quán, Toàn Thạnh, Tự Quán, Tô Hà, Chử Châu ( Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục tập 1, Nxb Giáo dục, trg 407).

 

   Trước năm 1806 vua Gia Long quy định lại tên các dịch trạm, dinh B́nh Định th́ có chữ B́nh đứng trước, dinh Phú Yên th́ có chữ Phú đứng trước, dinh B́nh Thuận th́ có chữ Thuận đứng trước, dinh B́nh Ḥa có chữ Ḥa đứng trước. Chín trạm của dinh B́nh Ḥa được đổi tên (tính từ Nam ra Bắc): Ḥa Quân, Ḥa Do, Ḥa Tân, Ḥa Thạnh, Ḥa Cát, Ḥa Mỹ, Ḥa Huỳnh, Ḥa Lăng, Ḥa Mă. Trạm Tự Quán (c̣n gọi là Quán Chùa) được đổi tên thành Ḥa Huỳnh. Trạm nằm giữa ranh giới của hai dinh th́ lấy tên của hai dinh ghép lại. Giữa B́nh Định và Phú Yên là dịch trạm B́nh Phú, giữa B́nh Ḥa và B́nh Thuận (thời ấy Ninh Thuận chỉ là một phủ của B́nh Thuận) gọi là Ḥa Thuận, giữa Phú Yên và B́nh Ḥa gọi là Phú Ḥa. Hoàng Việt nhất thống dư địa chí viết về trạm Phú Ḥa: “ Phú Ḥa dịch, kiến tại Đèo Cả đỉnh trung, thử vi Phú Yên, B́nh Ḥa nhị dinh giáp giới chi sở. Cố danh Phú Ḥa dịch. Kim phụng thiết dịch binh lục thập suất, Phú Yên dinh bán phần tam thập suất. B́nh Ḥa dinh bán phần tam thập suất. Hợp phân vi tam phiên, mỗi phiên nhị thập suất, thường nhật trực hậu tại trạm. Phàm hậu dịch trạm tại giáp giới chi sở. Giai phỏng thử lệ” (Trạm Phú Ḥa, đóng ngay giữa đỉnh Đèo Cả, nơi địa giới của hai dinh Phú Yên và B́nh Ḥa, vậy nên đặt tên trạm là Phú Ḥa. Nay đặt ở trạm 60 suất lính, dinh Phú Yên một nửa là 30 suất, B́nh Ḥa một nửa là 30 suất, hợp lại thành 3 phiên, mỗi phiên 20 suất thường trực ở trạm, lo việc trạm nơi vùng giáp giới, hai dinh đều tuân theo lệ ấy)( Lê Quang Định, Hoàng Việt nhất thống dư địa chí [Phan Đăng dịch] Nxb Thuận Hóa. Phần chữ Hán trang 1698-1697, phần dịch nghĩa trang 47).

 

   Khi thực dân Pháp qua xâm lược và cai trị nước ta th́ hệ thống dịch trạm của triều đ́nh cũng dần bị mai một. Ngôi nhà dịch trạm Ḥa Thạnh (trước có tên là Phú Mỹ, do dịch trạm đóng tại địa bàn thôn Phú Mỹ, sau Phú Mỹ đổi thành Phú Khánh, nay thuộc xă Diên Thạnh, huyện Diên Khánh) tọa lạc tại ngă ba Mả Xá (Quốc lộ I đi lên nhà thờ Hà Dừa) mới bị phá bỏ cách nay khoảng vài thập niên. Hiện nay địa danh của 6 trong tổng số 9 dịch trạm trên đất Khánh Ḥa đă bị mai một chỉ c̣n lại 3 nơi c̣n duy tŕ địa danh: Ḥa Do, Ḥa Tân và Ḥa Huỳnh. Về phía Giáo hội Công giáo th́ có hai nơi c̣n duy tŕ địa danh dịch trạm, đó là giáo xứ Ḥa Do ở Cam Ranh, giáo xứ Ḥa Tân ở Cam Lâm.

 

   Năm 1935 linh mục Nguyễn Đức Kính lập họ đạo Ḥa Huỳnh thuộc thôn Ngọc Sơn.Họ đạo Ḥa Huỳnh là họ nhánh (lẻ) của họ đạo G̣ Muồng. Linh mục xin trưng khẩn đất chung quanh nhà thờ Ḥa Huỳnh để bổn đạo canh tác lấy huê lợi sử dụng cho họ đạo. Diện tích khu đất rộng 22 ha: đông giáp Quốc lộ I; tây giáp đường sắt; nam giáp hương lộ Ngọc Sơn(nay là Tỉnh lộ 7); bắc giáp suối nước.

 

    Sau “giải phóng” giáo dân về lại quê lập nghiệp và chính quyền không cho giáo dân tái thiết nhà thờ tại địa điểm cũ mà phải dời lên phía Tây cách địa điểm cũ khoảng 3 cây số, tại thôn Gia Mỹ. Nhà thờ mới khởi công xây dựng vào ngày 15/06/1995 và khánh thành ngày 05/01/1997 và lấy tên là Ḥa Thanh (ghép tên Giám mục Phao lô Nguyễn Văn Ḥa và tên linh mục Ta đê ô Lê Văn Thanh- Linh mục chánh xứ giáo xứ G̣ Muồng).

 

    Hiện nay trên trang web Giáo phận Nha Trang, mỗi khi đề cập đến giáo xứ Ḥa Thanh, th́ kế sau hai chữ Ḥa Thanh thường chua thêm hai chữ Đá Bàn. Đá Bàn là một địa danh cách nhà thờ Ḥa Thanh khoảng gần 10 cây số về phía tây. Vả lại địa danh Đá Bàn chỉ có người trong tỉnh biết mà thôi, c̣n địa danh Ḥa Huỳnh th́ rất nhiều người trong cả nước biết đến. Nếu sau này giáo xứ Ḥa Thanh có đổi tên th́ nên phục hồi lại tên Ḥa Huỳnh.

 

      Đồng Trăng hay Đồng Trăn? (Diên Đồng- Diên Khánh)

 

  Trước năm 1975 có tuyến xe lam chạy trên Tỉnh lộ 2 (chạy ngang hông nhà thờ Hà Dừa),hai bên hông xe ghi: Thành- Đồng Trăng và Đồng Trăng- Thành. Tuy nói đi Đồng Trăng nhưng xe lên đến cầu Ồ Ồ thôn Lễ Thạnh xă Diên Thọ là dừng. Hai chữ Đồng Trăng đă ăn sâu vào tâm trí của tôi, và theo tôi suy nghĩ là nơi đây ngày xưa lúc đoàn người đầu tiên đến đây khai khẩn vào những đêm trăng nh́n trăng chiếu xuống ruộng đồng rất là thơ mộng nên mới chọn cái tên Đồng Trăng để đặt cho vùng đất vừa khai phá!

 

    Sau năm 1975 Đồng Trăng trở thành khu kinh tế mới, muốn qua Đồng Trăng phải đi đ̣. Đ̣ không chống, không chèo mà người lái đ̣ chỉ vịn sợi dây cáp cột từ gốc cây cổ thụ bên này sông và gốc cây cổ thụ bên bờ bên kia mà lần đi tới, do nơi đó nước chảy lờ đờ. Sau này nhà nước mới làm cầu tràn (cầu ch́m)về phía đông của bến đ̣ xưa để dân qua lại cho tiện, nhưng khổ nỗi là mỗi khi có mưa lớn trên nguồn  là nước tràn ngập cầu và không thể qua lại được, lại phải đi đ̣. Cách nay khoảng một năm nhà nước cho xây một cây cầu kiên cố nối liền hai bờ sông nằm về phía tây bến đ̣ xưa. Hai đầu cầu có biển hiệu ghi: “cầu Đồng Trăn”. Nhiều người không hiểu nguồn gốc địa danh cho là người chủ trương viết biển hiệu là viết sai. Kẻ th́ đùa với nhau: Trăng qua cầu mất “gờ” biến thành “Trăn”. Nhiều người lư luận: địa danh Đồng Trăng không có nghĩa. Mặt trăng soi chung nên đồng nào chẳng là Đồng Trăng đâu riêng xă Diên Đồng mới có Đồng Trăng! Có người lại bảo: Ngày xưa những người đầu tiên đến đây khai khẩn thấy  trăn ḅ lổn ngổn nên mới đặt là Đồng Trăn.

 

    Nhân đọc quyển Đại Nam thực lục chính biên đệ lục kỷ do Quốc sử quán triều Nguyễn soạn bằng chữ Hán và được Cao Tự Thanh dịch ra quốc ngữ nơi trang 540 ghi vào tháng 12 năm Đinh Mùi (dương lịch sang năm 1909): “Bộ Hộ tâu nói quan tỉnh Khánh Ḥa Phạm Ngọc Quát khám việc Lê Bá Cử làm đơn nói khai khẩn xứ Đồng Trăng trong hạt hiện đă thành ruộng đất 400 mẫu, xin sáp nhập vào xă Khánh Xuân (nay là thôn Khánh Xuân, xă Diên Lâm- TG) bên cạnh, lập sổ chịu thuế, Bá Cử  khai khẩn có công sẽ nghĩ thưởng riêng, theo như lời tâu”. Ngoài ra ông Lê Bá Cử “lại đắp một con đường từ xứ Đồng Trăng tới tỉnh thành khoảng 12.000 thước tây, khiến nhân dân đi lại buôn bán được tiện lợi” (Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục đệ lục kỷ [Cao Tự Thanh dịch], Nxb Văn hóa- Văn nghệ, trang 540; 565). Tuy dịch giả ghi là “xứ Đồng Trăng” nhưng bên dưới cuối trang có ḍng chú thích:  Nguyên bản viết là “Đồng Trăn”.

 

    Con đường dài khoảng 12.000 thước tây ấy chính là Tỉnh lộ 2 nối dài từ thành Diên Khánh lên Đồng Trăng (trước năm 1945, thành Diên Khánh là tỉnh lỵ của tỉnh Khánh Ḥa nên gọi là “tỉnh thành”. Sau năm 1945 tỉnh lỵ Khánh Ḥa dời xuống Nha Trang và địa điểm tỉnh lỵ cũ trở thành quận lỵ quận Diên Khánh. Tuy thành Diên Khánh đă trở thành quận lỵ nhưng thế hệ cha mẹ tôi mỗi khi có việc ǵ qua quận lỵ vẫn gọi là : Qua bên tỉnh).

 

   Trong âm Hán Việt không có âm “trăng”. Tôi cố t́m cho được nguyên văn hai chữ Đồng Trăn bằng chữ Hán. Và trong địa bạ (sổ khai đất ruộng) của xă Đồng Trăng khai năm 1811 (Gia Long năm thứ 10) và thấy chữ “Trăn” thuộc bộ “mộc”. Giở Hán Việt tự điển của Thiều Chửu giải thích chữ “Trăn” thuộc bộ “mộc” t́m được 3 giải đáp: 1- cây trăn. 2- bụi cây. 3- bùm tum, vướng vít. Như vậy ta có thể kết luận là vùng đất này ngày xưa có nhiều cây trăn. Năm 1811 xă Đồng Trăn thuộc tổng Thượng, huyện Hoa Châu. Địa bạ xă Đồng Trăn được nhà nghiên cứu Nguyễn Đ́nh Đầu tóm gọn:

 

     Đồng Trăn xă (xứ An Lâm)

. Đông giáp sông và rừng.

 . Tây giáp rừng.

 . Nam giáp địa phận xă Triều Sơn (nay là Cẩm Sơn- TG)

 . Bắc giáp sông và rừng

Toàn diện tích 10 mẫu 04 sào:

 . Tư điền  07 mẫu.

 . Tư thổ châu  02 mẫu 04 sào

 . Đất hoang 01 mẫu (1 khoảnh)

   Khê cừ 1 dải 20 tầm ( Nguyễn Đ́nh Đầu, Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn – Khánh Ḥa, Nxb TP.HCM, trang 205)

 

   Đây có thể xem là tư liệu xưa nhất của xứ Đồng Trăn. Hiện ở xă Diên Đồng có giáo xứ mang tên Đồng Trăng. Rất mong giáo quyền nên sửa lại tên giáo xứ cho đúng với tên gốc của nó!

 

        Giáo xứ Cây Vông (Diên Sơn- Diên Khánh)

 

   Nhiều người khi chưa đặt chân đến giáo xứ Cây Vông thường h́nh dung ở giáo xứ Cây Vông có rất nhiều cây vông nhưng khi đến th́ chẳng thấy cây vông nào cả! Vâng, ngày xưa vùng đất này lắm cây vông. Phía đông của giáo xứ Cây Vông có một vùng đất tục danh là Vườn Vông và nay con đường đi qua vùng đất ấy được gắn biển tên là đường G̣ Cây Vông. Vông có hai loại: vông nem (ngày xưa hay dùng đậy ú mắm nêm cho khỏi sinh gịi, nay dùng lá cho thỏ ăn) và vông đồng (vông đồng gai to và nhiều hơn vông nem thường mọc ở ven sông,ven bàu nước và hoa vông đồng đỏ tươi nên dân gian hay nói : “đỏ như bông dông [vông]”).

 

   Trước năm 1975 mỗi làng ở Diên Khánh có một tên riêng dành cho người chết.Ví dụ làng Đại Điền Tây có tên là Hoành Sơn, do phía tây của làng có dăy núi Ḥn Ngang; làng Đại Điền Nam và Đại Điền Trung  có tên là Qua Sơn, do gắn liền với sự tích bà Thiên Y A Na với sự tích Núi Dưa; làng Đại Điền Đông có tên Đông Khê, do phía đông làng có một khe nước lớn từ núi chảy ra. Riêng làng của tôi là làng Phú Lộc giáp ranh với làng Đại Điền Tây nơi có nhà thờ Cây Vông, có tên là Đồng Xuyên, do có nhiều cây vông mọc bên bờ sông.Cái tên Đồng Xuyên được  dùng để viết vào tờ minh tinh (có nơi phát âm là “minh sinh”). Khi quan tài được hạ xuống huyệt xong xuôi th́ có hai người giăng dọc tờ minh tinh màu đỏ viết chữ Hán trên huyệt. Thầy lễ đọc ba lần, sau mỗi lần đọc th́ hai người cầm hai đầu tờ minh tinh úp lại rồi lật ngửa lên để thầy lễ đọc lần thứ hai. Tờ minh tinh là tờ giấy thông hành cho người chết sang bên kia thế giới. Trên tờ minh tinh ghi  quê quán, tên tuổi, chức tước của người chết. Tờ minh tinh của làng tôi mở đầu : “Việt Nam Đồng Xuyên Thượng ấp…” ấy vậy mà dưới âm phủ biết là người chết ấy là dân ở ấp Thượng, làng Phú Lộc, mà chẳng cần phải đọc “Việt Nam quốc, Khánh Ḥa tỉnh, Diên Khánh quận, Phú Lộc xă, Thượng ấp…” ǵ cả! Sau khi đọc xong, người ta đem tờ minh tinh ấy “hóa” (đốt) đi để cho dưới âm phủ nhận.

 

     Người dân bên lương hay cải tên địa danh Cây Vông thành Hoa Vông. Ngay cả thống kê năm 1843 của Hội Thừa sai Ba Lê cũng ghi là Hoa Vông: Tỉnh Khánh Ḥa có 11 họ đạo: B́nh Cang (212 giáo dân), Hoa Vông (147 giáo dân), Hà Dừa (328 giáo dân), Mà Gai (51 giáo dân), Đồng Dài (37 giáo dân), Lâm Toàn (201 giáo dân), Xóm Cồn (67 giáo dân), Cầu Kè (45 giáo dân), Dinh B́nh Ḥa (207 giáo dân), Quán Đồng Nai (35 giáo dân).Cộng 1498 giáo dân (Nguyễn Đ́nh Đầu, Kỷ niệm 350 năm Địa phận địa danh tỉnh Khánh Ḥa với Giáo phận Nha Trang. Đăng trên tuần báo Công giáo & Dân tộc số 1370 Tuần lễ từ 16/08= 21/08/2002, trang 25).

 

  Tại Phú Yên trước đây có giáo xứ Hoa Vông rất là đông giáo dân, sau này do mất an ninh nên sinh hoạt của giáo xứ chuyển dần vào địa điểm mới là Tuy Ḥa và tên giáo xứ Hoa Vông bị xóa sổ. Hiện nay tại thôn Chánh Nghĩa, xă An Phú, huyện Tuy An vẫn c̣n nền nhà thờ Hoa Vông. Ở B́nh Định trên đoạn đường từ Quảng Nghiệp đi về G̣ Bồi có giáo xứ Vườn Vông.
 

   Trước nhà thờ Cây Vông nên trồng hai đầu sân hai cây vông (một cây vông nem và một cây vông đồng) để kỷ niệm và để thế hệ trẻ có dịp học hỏi quan sát tường tận về cây vông.

 

  Bắt đầu trong năm 2014, chính quyền kêu gọi “ Xây dựng nông thôn mới”. Để xây dựng nông thôn mới cần phải có 18 hoặc 19 tiêu chí ǵ đó, trong đó có tiêu chí là đường, ngơ có tên, nhà có số. Xă Diên Sơn cũng đang phấn đấu trở thành xă xây dựng nông thôn mới, cho nên con đường chạy ngang trước mặt nhà thờ dài khoảng 1,5 km được gắn tên là đường Cây Vông.

 

    Giáo xứ Đồng Dưa  - Đại Điền (Diên Phú- Diên Khánh)

 

   Những người bên lương ở vùng đất Diên Khánh họ không gọi Nhà thờ Đại Điền mà gọi bằng Nhà thờ Đồng Dưa. Trước đây giáo xứ Đại Điền thuộc hạt Diên Khánh có tên là Đồng Dưa. Đồng Dưa là gọi theo cách nôm na. Gọi theo âm Hán Việt là Qua Điền ( Ruộng Dưa, Đồng Dưa). Địa danh Đồng Dưa đă có từ xa xưa, có liên quan đến truyền thuyết bà Thiên Y A Na trên núi Đại An( dăy núi sau lưng nhà thờ Cây Vông và nhà thờ Đại Điền). Những giấy tờ đất đai bằng chữ Hán của dân chúng trong khu vực chung quanh nhà thờ Đại Điền đều ghi “ Đồng Dưa xứ”.

 

    Các làng Đại Điền Đông, Đại Điền Trung (xă Diên Điền) và Đại Điền Nam, Đại Điền Tây (xă Diên Sơn) dưới thời vua Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị cùng chung một xă là xă Đại An (cho nên dăy núi phía bắc của hai xă Diên Điền và Diên Sơn gọi là dăy Đại An). Khoảng sau năm 1860 mới đổi tên từ Đại An xă thành Đại Điền xă ( Bia đá khắc năm 1858 dựng tại sân Văn miếu Diên Khánh vẫn c̣n tên Đại An xă). Vào thời vua Thành Thái (1889-1906) mới phân chia xă Đại Điền thành tứ thôn: Đại Điền Đông, Đại Điền Trung, Đại Điền Nam, Đại Điền Tây.

 

      Địa danh Đại Điền mới có khoảng trên 150 năm, c̣n địa danh Đồng Dưa xứ đă có từ rất xa xưa và gắn liền với truyền thuyết bà Thiên Y A Na.

 

    Giáo xứ Lâm Tuyền- Chợ Mới (Vĩnh Ngọc- Nha Trang)

 

    Giáo xứ Chợ Mới ngày xưa có tên là giáo xứ Lâm Tuyền, có tài liệu ghi là giáo xứ Làm Thuyền và chú thích là khu vực này có xóm đóng thuyền bè. Làm Thuyền có thể là “tam sao thất bổn” của Lâm Tuyền. Lâm Tuyền lại là cách gọi trại của Lâm Toản. Địa bạ Gia Long năm 1811 ghi là Lâm Toản thôn. Thôn Lâm Toản gồm có xứ G̣ Gốm, G̣ Dê, G̣ Gạch, Cây Me, Biên Sơn. Như vậy vùng đất G̣ Dê (giáo xứ Ngọc Thủy) trước đây thuộc thôn Lâm Toản. Chữ “Toản” c̣n có thể đọc là “ Toàn”. Trong Nho giáo có câu tán dương Khổng tử : “ Ngưỡng chi di cao, toản chi di kiên”  và cũng có sách phiên âm là “ Toàn chi di kiên”. Lâm Toản và Lâm Toàn y như nhau chỉ khác cách phát âm một tí. Và chữ “Toàn” có thể đọc là “Tuyền”. Sách Khổng học đăng do cụ Phan Bội Châu soạn khi gặp chữ “toàn” cụ viết là “tuyền”.Một trong những tiêu chí chọn con vật để tế thần thánh là con vật phải toàn sắc (một sắc lông) c̣n gọi là “tuyền sắc”. Từ Lâm Toản đọc thành Lâm Toàn rồi lại Lâm Tuyền. Theo thống kê năm 1843 của Hội Thừa sai Ba Lê th́ giáo xứ Lâm Toàn có 201 giáo dân. Thôn Lâm Toản sau đổi thành Ngọc Toản rồi đổi thành Ngọc Hội.

 

    Địa danh Chợ Mới mới có khoảng hơn 150 năm mà thôi. Năm 1843 vẫn c̣n tên giáo xứ Lâm Toàn. Theo như văn bia bằng chữ Hán khắc năm 1860 dựng tại miếu Tiền hiền làng Ngọc Hội cho biết là bà Nguyễn Thị Hiếu đă tự bỏ tiền của xây cầu xây chợ trong thôn Ngọc Toản. Do vậy địa danh Chợ Mới xuất hiện sau năm 1860.

 

   Giáo xứ Ngọc Thủy- G̣ Dê ( Ngọc Hiệp- Nha Trang)

 

      Đứng trên cầu Bóng, cầu Hà Ra nh́n về hướng tây hoặc từ cầu Sắt xe lửa vượt sông Cái nh́n về hướng đông ta sẽ thấy thấy tháp chuông của một nhà thờ trỗi vượt giữa rừng dừa xanh tươi được bao bọc bởi bốn bề sông nước, đó là tháp chuông của nhà thờ Ngọc Thủy. Hiện nay Giáo xứ Ngọc Thủy nằm trên địa bàn tổ dân phố 13 và 14 khóm Ngọc Thảo, phường Ngọc Hiệp, Thành phố Nha Trang. Trước đây giáo xứ Ngọc Thủy có tên là G̣ Dê. G̣ Dê là vùng đất lâu đời, năm 1811 đă có tên trong địa bạ Gia Long và khi ấy thuộc thôn Lâm Toản. Vùng đất G̣ Dê được bao bọc bởi các chi lưu của ḍng sông Nha Trang. Cách nay khoảng ba thập kỷ vùng đất G̣ Dê là vùng đất  100% dân theo đạo Công giáo.

 

  Tại sao vùng đất có tục danh G̣ Dê? Có  người cho rằng ngày xưa ở vùng đất này nuôi nhiều dê nên mới có tên như vậy!

 

   Sự thực không phải như vậy.  Theo Kỷ yếu Địa phận Nha Trang 1971 trang 53 th́ khi xưa tại vùng đất G̣ Dê mọc nhiều cây nhăn phân dê (cứt dê), tên khoa học là Nephelii species, là một loại nhăn rừng, quả nhăn rừng có vị ngọt chát và ăn được, khi trái chín và rụng xuống đất có màu đen tuyền giống như phân con dê. Ngày nay đến vùng đất G̣ Dê sẽ không c̣n gặp cây nhăn cứt dê nữa mà bắt gặp toàn là dừa. Năm 1967 giáo xứ G̣ Dê được đổi tên thành Ngọc Thủy.

 

Giáo họ Vĩnh Ḥa – Phường Dầu (Cam Hải Tây- Cam Lâm)

 

   Trước năm 1975, mẹ tôi thường buôn bán ở vùng Cam Ḥa, Cam Hải,Cam Đức, Cam Thành và mẹ tôi gọi vùng đất xă Cam Hải Tây hiện nay bằng cái tên Phường Dầu. Sau năm 1975 tôi không hề nghe cái tên Phường Dầu nữa. Đầu tháng 8/2015 tôi đọc trang web Giáo phận Nha Trang mới biết vào lúc 8h15’ ngày 30/07/2015 Giám mục Giu se Vơ Đức Minh đến giáo họ Vĩnh Ḥa chủ sự lễ đặt viên đá đầu tiên xây dựng nhà thờ Vĩnh Ḥa. Trong bài viết cho biết trước năm 1960 Vĩnh Ḥa được gọi là Phường Dầu. Lúc đầu giáo họ Vĩnh Ḥa thuộc giáo xứ Tân B́nh, sau đó được nhập vào giáo xứ Bắc Vĩnh. Đầu tháng giêng năm 1972 bắt đầu xây nhà nguyện, đến tháng 5 năm 1972 th́ hoàn tất và linh mục Phê rô Nguyễn Đăng Khoa – quản xứ Bắc Vĩnh- đặt tên cho giáo họ lẻ là Vĩnh Ḥa (Vĩnh là giáo xứ Bắc Vĩnh, Ḥa là  dân ở xă Suối Ḥa).

 

   Địa danh Phường Dầu đă có trước năm 1811. Theo Địa bạ Gia Long năm 1811 Phường Dầu phụ lũy thôn thuộc tổng Hạ, huyện Vĩnh Xương. Phường Dầu phụ lũy thôn gồm các xứ An Du, Cây Ké, An Phụ. Đông, Tây, Nam, Bắc đều giáp rừng. Diện tích toàn thôn là 17 mẫu 7 sào 10 thước, trong đó tư thổ là 2 mẫu 7 sào, đất hoang là 15 mẫu ( 2 khoảnh). Đường thiên lư đi ngang qua thôn 1 đoạn dài 4521 tầm ( 1 tầm = 2,12m) (Nguyễn Đ́nh Đầu, Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn – Khánh Ḥa, Nxb TP.HCM, trang 239).

 

    Những địa danh G̣ Muồng, G̣ Dê, Đồng Dưa, Đồng Lác, Cà Đú, Láng Mun, Rừng Lai…tuy nó dân dă, hơi thô kệch nhưng nó đă ăn sâu vào tâm trí nhiều thế hệ và được nhiều người không kể lương- giáo biết đến.

 

 

 

 

 

 


 
Nguyễn Văn Nghệ

 

9/2015

 

 

 

 

 

 

 

 

Thơ & Truyện Nguyễn Văn Nghệ           |             www.ninh-hoa.com