![]()
|
||||||
|
NGẢI HỜI Nguyễn Thanh Ty
N hà bà Năm Thẹo ở mé biển, phía sau nhà bác Năm tôi và xế cửa nhà ông Sáu Chúc. Cũng giống như mọi nhà khác, nhà bà cũng chỉ là một cái chòi, ra vào chỉ có tấm liếp, không có cái cửa sổ nào. Nhìn vào bên trong tối mờ mờ.Bà Năm góa chồng từ lâu. Bà ở với đứa con trai tên Thẹo. Anh Thẹo hơn tôi năm tuổi. Không biết hồi nhỏ anh bị bệnh tật gì mà hai mắt anh bị kéo xếch lên trông bộ dị dạng. Mặt anh có một vết sẹo dài chạy từ mang tai tới dưới cằm. Tôi đồ chừng anh bị phỏng nước sôi. Nhưng cũng không chắc lắm vì có người bà con mắc bệnh quai bị, đi mỗ vẫn có vết sẹo giống như thế. Có lẽ tên Thẹo là do cái thẹo dưới cằm anh chăng? Người trong xóm không ai biết tên bà là gì. Chỉ biết gọi bà là bà Năm kèm theo tên con cho có âm điệu: bà Năm Thẹo. Hai mẹ con bà Năm sống côi cút bên nhau. Năm ấy bà chừng bốn mươi tuổi, không đẹp, dáng quê mùa, nhưng hãy còn có nét gái một con, có da, có thịt hồng hào. Anh Thẹo không được đi học như chúng tôi, anh phải theo mẹ hàng ngày ra chợ để phụ bán rau, hành, chanh, ớt với mẹ, chiều tối mịt mới về nhà nên anh không có bạn bè. Chúng tôi chỉ gật đầu chào anhø mỗi khi chạm mặt thôi. Chẳng có mấy khi chuyện trò. Do vậy, chúng tôi gần như không biết một chút gì về đời riêng tư của hai mẹ con bà Năm. Trong cái danh sách dài tiểu sử dân làng của xóm: nhà ông A, nhà bà B... chúng tôi đều thuộc lòng từng chi tiết. Nhưng đến nhà bà Năm thì chỉ vỏn vẹn có một dòng: - Bà Năm giá chồng, sống với đứa con trai tên Thẹo! Chấm hết. Bà Năm là người gốc tỉnh nào, chồng bà trước kia là ai, làm cái gì thì không ai biết. Suốt thời gian bà ở xóm tôi cho đến lúc chết, bà sống rất đều đặn như cái đồng hồ. Sáng sớm hai mẹ con đi ra chợ, chiều đỏ đèn mới về nhà, lụi hụi cơm nước, rồi sụp cửa liếp, tắt đèn đi ngủ. Bà không giao tiếp với ai nên chẳng có gì rầy rà với xóm, làng. Mấy bà rỗi việc hay tò mò, tọc mạch chuyện người khác cũng chịu thua, không kiếm được câu chuyện làm quà nào về bà Năm để đàm tiếu trong chuyện " thời sự " hằng ngày, trong lúc chờ chồng đi mành về. Bỗng một hôm, nhà bà Năm có thêm một người đàn ông về sống chung. Người đàn ông này lại là người Hời. Thật là một biến cố lớn trong xóm tôi. Tiếng sấm sét ngày mưa dông tháng năm chưa chắc đã nổ to và vang rền trong xóm tôi bằng cái tin: Bà Năm Thẹo lấy Hời! Mấy bà nhọn mỏ mừng rơn như mành trúng "khẳm". Bây giờ thì tha hồ mà thêu dệt hàng trăm câu chuyện bí ẩn, ly kỳ, rùng rợn về bà Năm. T huở ấy, người Chàm từ Phan Rí, Phan Rang thường hay mang đồ gốm ra Nha Trang bán. Hàng của họ gồm những cái vò, cái nồi, cái trách, ông lò, ông Táo... bằng đất nung. Họ làm rất khéo, rất mỏng mà bền hơn đồ gốm mang từ Sài Gòn ra, dầy hơn, nặng hơn mà lại dễ bị nứt. Đồ gốm của họ không biết nung như thế nào và phun chất gì mà trên mặt gốm có những chấm tròn to nhỏ lốm đốm màu nâu đen trông như mặt người tàn nhang. Đa số người xóm tôi thích dùng gốm Chàm hơn gốm Sài Gòn. Có điều lạ là họ không kêu những người này là Chàm mà là Hời. Cái tiếng Hời nghe đầy vẻ linh thiêng, thần bí. Liên tưởng tới chuyện mả Hời, tháp Hời có hồn người chết canh giử của.Ngoài đồ gốm ra, người Hời còn bán thuốc Nam. Những rễ cây, cành lá bằm nhỏ phơi khô, sao vàng, họ chất đầy trong "cái nừng", đội trên đầu, đi khắp các làng, các xóm để bán. " Nừng" đan bằng cật tre, vuông vức, mỗi bề chừng hai gang tay, cao chừng ba gang tay, trên có nắp đậy cũng bằng tre đan. Dưới đáy nừng có hai thanh tre dầy, bắt chéo bốn góc để bảo vệ nừng khỏi bị mòn khi lôi tới, kéo lui hàng ngày. Nừng được sơn bóng bằng dầu rái chống ướt. Họ đi từng nhóm năm, bảy người. Họ ăn mặc giống nhau. Đàn ông cũng như đàn bà đều mặc áo váy chùng màu đen, dài tận mắc cá chân. Đầu vấn khăn để đội "nừng". Họ đi hàng một rất thong thả. Cái nừng lắc lư trên đầu theo nhịp bước mà rất vững vàng không nghiêng hoặc rớt. Chúng tôi rất sợ họ vì những câu truyện mả Hời chôn người sống theo để làm ma giử của và nhất là chuyện ếm bùa ghe mành của họ đã ăn sâu vào trong trí từ thuở nhỏ. Chúng tôi được người lớn dặn dò là đừng cho họ nắm tay. Ai bị họ nắm tay là người đó đã bị thư bùa trong bụng rồi. Có một nhóm người Hời chuyên ngồi sắp hàng cạnh tiệm sách Vĩnh An Thành, gần cây trụ điện và hai xe bán chè và nước đá bào nhận ly ở góc chợ Đầm, nơi chúng tôi thường ghé vô mua ăn. Bất cứ ai đi ngang, đám người đó, tay ngoắc lia lịa, miệng kêu rối rít, mời mua thuốc, giọng họ lơ lớ, không có dấu: - Nay ông, nay ba, vao đây mua thuôc đi, tui ban re cho! ( Này ông, này bà, vào đây mua thuốc đi, tui bán rẽ cho!) - Cai mat ong vang nhu the la dang binh do! Toi day tui bat mach cho khong ton tien dau, chi mua thuoc thoi. ( Cái mặt ông vàng như thế là đang bịnh đó! Tới đây tui bắt mạch cho không tốn tiền đâu, chỉ mua thuốc thôi ) Ai mà bị họ nắm tay rồi thì rứt không ra. Họ làm đủ thứ, họ nói líu lo liên miên, khiến người gan dạ mấy cũng e dè, sợ sệt. Chừng phải mua xí cô hồn cho họ một gói rễ cây mấy đồng họ mới chịu buông tay ra cho. Người ta gọi họ là những ông Thầy Hời, những bà Thầy Hời. Không biết họ là Thầy gì? Có chửa được bệnh như họ nói không? Bất cứ bệnh nào, bất cứ ai, họ cũng gói cho mấy cái thứ rễ, lá đó cả. Nhưng chắc chắn những người được rước về xóm tôi đều là những Thầy ếm bùa. Mỗi lần mua sách vở hay mua ly đá nhận, chúng tôi phải đi vòng xa xa để khỏi bị nắm tay ếm bùa, thư ngải. Những lần họ đi xuống xóm tôi bán thuốc, trẻ con đi theo hàng đàn để coi cách đi của họ với cái nừng trên đầu lắc lư nhịp nhàng theo hai cánh tay đánh đòn xa. Nhưng không một đứa nào dám đến gần cả. Phải cách xa xa chừng năm thước. Khác với khi bu quanh ông Đỗ Khánh Du hát xiệc bán dầu cù là. Tôi không biết trong xóm tôi có ai đã từng mua thuốc của mấy ông, bà Thầy Hời này chưa ? Nhưng xem ra ai ai cũng e ngại, tránh tiếp xúc với đám Thầy Hời này. Vậy mà đùng cái, bà Năm Thẹo lại lấy một lão Thầy Hời làm chồng! Một người hiền lành, quê mùa, ít giao thiệp như bà Năm ngày tối bận bịu với mấy cái rỗ rau hành chanh ớt và thằng con bên cạnh sao lại bỗng dưng rước một lão Thầy Hời về nhà ăn chung, ở lộn. Đúng là bà bị lão Thầy Hời này bỏ bùa rồi! B à vẫn sáng sáng cùng người con trai ra chợ. Lão Thầy Hời đội nừng đi bán thuốc. Chiều tối họ lại tụ về nhà. Trong nhà vẫn im hơi lặng tiếng. Người ta rình nghe bà Năm cùng lão Thầy Hời trò chuyện hoặc nghe anh Thẹo nói chuyện với dượng ghẻ để có thêm tin tức mới lạ về những câu truyện thần bí hoang đường họ đang thêu dệt dở dang chưa có hồi kết. Nhưng vô ích. Trong nhà vẫn im lặng như tờ, từ lúc về cho đến lúc tắt đèn đi ngủ.Không xuyên thủng được bức màn bí mật để khám phá được điều gì họ quay ra dùng chiến thuật bao vây và " cách không điểm huyệt". Họ giả bộ ngồi hóng mát, tập trung xế cửa nhà bà Năm, nói chuyện bao đồng, nhưng chủ ý nói khoé, nói cạnh, nói xa, nói gần về cái chuyện người mình thiếu gì không lấy, lại đi lấy Mọi, lấy Hời. Dưng không rước ba cái thứ Ma Hời về xóm để " dưởng". Đây rồi cả xóm cũng có người bị nó bùa, nó ếm chết sình, chết sộp cho mà coi. Chiến dịch bao vây và ngón võ " cách sơn đả ngưu" kéo dài ngày này qua ngày khác theo kiểu " trường kỳ kháng chiến" coi vậy mà có kết quả khả quan. Chừng giáp một năm ở chung với mẹ con bà Năm, một ngày kia lão Thầy Hời đi bán thuốc như hàng ngày rồi đi luôn không thấy trở lại nữa. Người ta chờ coi phản ứng của bà Năm. Suốt cả tuần nôn nóng lom lom dòm chừng, hỏi nhau thầm thì, nhưng vẫn không một tin tức gì. Bà Năm vẫn im lặng như mọi ngày. Sáng sáng bà vẫn cùng con ra chợ. Thiệt là bực mình bực mẫy. Người gì đâu mà lạ! Làm thinh làm thế dẫn một thằng cha Hời về nhà ăn chung, ngủ lộn cả năm. Rồi thằng cha Hời bỏ đi cũng làm thinh, làm thế! Con mẹ Năm này bị bỏ bùa điên, bùa khùng, rồi bây giờ bị bùa câm nữa! Mấy bà nhọn miệng, lưỡi dài chung quanh xóm, mỗi người một câu, chu mỏ ra mỉa mai, hành tỏi sau lưng bà Năm cho hả giận. Cái giận âm ỉ không tìm ra kẻ hở bí mật của bà Năm. Thời gian cũng làm cho mọi chuyẹân phôi pha. Chừng ba tháng sau, mấy bà trong xóm cũng mõi mệt với việc ngóng cổ chờ tin tức về lão Thầy Hời có còn tiếp diễn với bà Năm không. Tất cả chìm vào quên lãng. ... Suốt cả tuần bà Năm không ra chợ được. Anh Thẹo thi thoảng hé liếp ra ngoài, đến quán Má tôi mua bánh kẹo. Tôi hỏi thăm, anh nói má anh bị bệnh cảm phải nằm nhà để dưởng bệnh. Bà Năm nằm liệt giường cả tháng. M ột buổi sáng, anh Thẹo vừa khóc lóc vừa chạy kiếm người tới nhà giúp anh chửa bệnh cho mẹ. Chừng đó mấy bà mới có dịp xồ vô nhà để coi bà Năm cho mãn nhãn.Bà Năm nằm thiêm tiếp trên chỏng tre, sắc mặc vàng như giấy vàng mã. Tay chân chỉ còn da bọc xương. Duy cái bụng thì trương to đội cả cái áo bà ba tròn lên căng cứng. Bà không nói được nữa. Ánh mắt lờ đờ. Bàn tay yếu ớt chỉ về phía anh Thẹo ra điều muốn gửi gắm. Lát sau bà nhắm nghiền hai mắt lại, hơi thở yếu dần. Mấy bà tản ra thầm thì: - Cái bụng đó bị lão Thầy Hời ếm trứng gà ở trỏng rồi. To như vậy chắc gà con đã nở. Ít bửa nữa nó sẽ bay ra miệng cả bầy cho mà coi! - Dễ sợ như " dị" sao ? Mà nó có bay vô nhà mình không? - Ai biết! Mấy bà không đợi lâu. Gà con chưa kịp nở như dự đoán. Tối hôm đó bà Năm chết. Giữa đêm khuya người ta nghe tiếng anh Thẹo khóc mẹ rấm rức ở trong chòi. Thỉnh thoảng anh rền rĩ: - Mẹ ơi! Mẹ! Mẹ đi rồi bỏ con lại cho ai! Hương bộ Phẩm quyên góp dân làng kẻ ít, người nhiều, mua chiếc chiếu bó làm áo quan cho bà Năm và vài xấp giấy vàng bạc, nhang đèn đưa bà qua cồn giữa chôn cất. Trên chiếc xuồng câu mượn của anh Lùng chở bà Năm, ngoài hai người trong làng Hương bộ Phẩm nhờ giúp tay, chỉ có anh Năm Thẹo ngồi bên bó chiếu mẹ khóc rấm rức, tay cầm cây đuốc bó bằng tre bện và dầu rái, cháy nổ lốp bốp, khói lẫn bụi hắc ín bay mịt mù. Thỉnh thoảng anh lại rãi xuống nước mấy tờ vàng mã. Mấy cây đèn sáp trắng cắm quanh be ghe bị gió thổi tắt từ lâu. Dòng sông lạnh lùng trôi vật vờ mấy tờ vàng mã. Bà Năm chết đi thình lình, mang theo cả điều bí mật xuống lòng đất. M ấy bà đứng bên bờ sông nhìn theo chiếc xuồng, chép miệng than vãn tội nghiệp cho bà Năm, anh Thẹo và hết lời nguyễn rũa thằng cha Thầy Hời ăn ở ác nhơn, ác đức.- Thiệt là cái thứ Mọi, thứ Hời vô hậu mà! Lấy người ta cả năm, rồi thư bùa, ếm ngải vô bụng người ta cho chết!. Cái quân đó rồi cũng bị trời đánh tan thây như mẹ con thằng Lý Thông trong truyện Thạch Sanh chém chằng cho mà coi! Riêng tôi vẫn còn nhiều câu hỏi chưa có lời giải: - Có phải bà Năm bị người chồng Hời thư bùa, ếm ngãi không ? - Hay là bà bị bệnh " cổ trướng" mà không có tiền đi bác sĩ chữa trị? - Nếu quả thật có chuyện bùa chú thì ông Thầy Hời phải trù ếm mấy bà nhọn mỏ, lưỡi dài mới phải chứ. Ai lại giận cá chém thớt, đi thư ếm vợ mình? - Tại sao thình lình ông Thầy Hời lại lặng lẽ bỏ đi sau một năm chung sống, đầu ấp tay gối với người đàn bà hết lòng thương yêu mình? - Hay cuộc tình duyên này cũng bị những kỳ thị khắc nghiệt xóm tôi giết chết như anh chị Lùng, chỉ còn có nước phải bỏ đi, để trở về với thế giới yên ổn của mình? Sau đó, anh Thẹo cũng bỏ đi mất. Cái chòi không ai ở. Sợ có ma Hời ẩn núp, mấy nhà xung quanh xúm nhau dở xuống, quăng hết ra biển. ... Mấy năm sau, tình cờ tôi thấy anh Thẹo ngồi vá xe đạp ở ngã tư Lý thường Kiệt và Phan đình Phùng, sau lưng toà án Nha Trang. Kế bên mấy người đánh máy thuê. Bây giờ khách hàng gọi anh là anh Theo, anh Năm Theo, không có dấu nặng. Anh khéo tay và tận tâm nên rất đắt khách. Có lần tôi mang xe lên cho anh lật sên và rút căm. Ngồi lâu, xem anh làm, tôi nhẫn nha hỏi anh về chuyện năm xưa. Anh không còn nhớ gì nhiều và cũng không biết chuyện tình giữa mẹ anh với ông Thầy Hời đó ra sao.Anh không biết thật hay anh không muốn nói về chuyện đau buồn của mẹ anh? Tôi cũng không tiện hỏi thêm. Nhưng tôi vẫn cứ thắc mắc hoài cái chuyện bùa chú ngải Hời! Quả thật người Hời có nhiều Thầy giỏi bùa chú như thế sao ngày xưa không dùng nó để thư ếm chết kẻ thù để giữ nước mà lại để cho mất nước. N gày nay, cả một dân tộc Chiêm Thành hùng cường xưa, chỉ còn sót lại một nhúm người mà phải tan tác khắp nơi. Mỗi năm lại quần tụ về đôi lần dưới mấy ngọn tháp đổ nát, rêu phong ở Phan Rang, Phan Rí để tế lễ và hát lên những điệu bi ai, than khóc cho hận Đồ Bàn!L iệu những người Chàm hôm nay còn có mấy ai nhớ đến lịch sử oai hùng của họ có một vị vua là Chế Bồng Nga đã một thời oanh oanh, liệt liệt, buộc vua nước Nam phải cống dâng Công Chúa Huyền Trân cho y để cầu hòa?
(Còn tiếp)
|
|||||
|