TRẦM HƯƠNG3 là nỗi niềm, là t́nh cảm, là t́nh yêu của 30 thành
viên hội thơ, t́nh yêu đất nước, gia đ́nh, t́nh yêu của một thời hoa
mộng.
HOÀI CỔ là tập thơ dịch các bài thơ của bậc thi hào Trung quốc
và vài bài thơ bạn hiện nay của anh CÙ HUÂN TỬ bây giờ là Sư GIÁC
THANH.
Ra mắt tập thơ là niềm vui, mà cũng là duyên cớ mà cái cốt lơi
là các nhà thơ nhớ nhau, đă lâu rồi không gặp rồi mà. Và hôm nay xin
chào mừng anh Phương Đông_ Phó Giám đốc TTVH_ Quyền Giám đốc, nhà thơ
Giang Nam, nhà văn Nguyễn Gia Nùng và các thi hữu đă đến Trung tâm Văn
hóa tỉnh Khánh Ḥa dự buổi ra mắt tập thơ của chúng tôi.
Thi khách trùng lai đầu phát bạch
Mai hoa như tuyết chiếu t́nh xuyên
Khách thơ gặp nhau đầu bạc trắng hết rồi như hoa mai trắng như
tuyết chiếu xuống ḍng sông. Không, đầu bạc trắng mà thơ th́ vẫn nồng
nàn; "ḍng sông" Trung tâm Văn hóa tỉnh đọng t́nh thơ của chúng
ta.....
Trên tay các bạn cầm trên tay 2 tập thơ và THANH TRÍ xin "ĐI
QUA HOÀI CỔ" để các thi hữu cùng dạo bước trong vườn thơ, cùng đi qua
tập thơ với THANH TRÍ:
ĐI QUA “HOÀI CỔ”
Làm thơ đă khó, dịch thơ lại càng khó hơn. Dịch như thế nào
lời thơ bay bổng mà vẫn giữ nguyên ư tác giả. Diễn ư văn xuôi th́ được
thôi nhưng vận dụng thơ là cả một nghệ thuật. Đọc một nguyên tác, ta
vẫn thấy súc tích, tâm đắc hơn. Và nếu bản dịch hay, lột trần ư tác
giả th́ không ǵ tốt bằng. Nếu bản dịch có hạt sạn, th́ đau ơi là đau!
Đọc mà tức chết đi được.
Anh Cù Huân Tử_giờ là nhà sư Giác Thanh_ đă chọn việc làm khó
này. Anh đă dịch những bài thơ chữ Hán Đường luật của các bậc thi hào
Trung Quốc và một số ít của Việt Nam. Những bài thơ anh chọn có một
nét ǵ trầm buồn sâu lắng của người thiếu phụ khuê pḥng:Tiết phụ
ngâm, Khuê oán…; là cảnh tĩnh mịch hoàng hôn nhập nhoạng ráng vàng:
Hoàng hôn, Thiên Trường văn vọng…; là tiếng mưa rơi tiếng thơ như
tiếng ḷng:Dạ vũ, Dạ vũ kư Bắc…; là tâm sự người già khi về cố hương
với Hồi hương ngẫu thư; là sự hào hùng của chí làm trai dặm ngh́n da
ngựa: Lương Châu từ, Xích Bích hoài cổ…; là những bài thơ bất hủ, đọc
lại ta vẫn đắc ư từng câu từng chữ:Phong Kiều dạ bạc, Đề tích sở kiến
xứ, Hoàng Hạc lâu, Tuyệt cú…
Đọc_hiểu một tác phẩm nước ngoài đ̣i hỏi một tŕnh độ, một
năng lức, dịch th́ ngoài những điều trên c̣n phải am hiểu ngôn ngữ cần
phải có sự cảm thụ sâu sắc tác phẩm, là sự đồng cảm, là t́m thấy lại
ḿnh. Có phải chăng khi chọn con đường khoác chiếc y vàng là con của
Phật, Sư Giác Thanh đă t́m lại được chính ḿnh, được đắm ḿnh trong
những vần thơ tận cùng sâu thẳm tâm hồn, trở lại với ngôn ngữ uyên
thâm, với ư từ sâu sắc ngày trước. Ngoài câu kinh tiếng kệ, ngoài học
Luật Sadi, ngoài dâng trọn đời ḿnh cho Phật Pháp, ta vẫn là ta, đến
với đời để trong đời ta có đạo, Phật hóa bất ly thế gian pháp. Và nói
về thơ, về đời, cho phép Thanh Trí được gọi là anh, anh Cù Huân Tử.
Hai bài Hữu sở tư 1 và 2 dài dằng dặc thế mà anh dịch một mạch
với ḍng cảm hứng”một cơi riêng ta”. Mở đầu:
Đương th́ ngă túy mỹ nhân gia
(Hôm say rượu tại nhà người đẹp)
Và câu cuối:
Tương tư nhất dạ mai ba phát
Hốt đáo song tiền nghi thị quân
(Nhớ thương người một tối không yên
Hoa mai bừng nở bên thềm
Tưởng người đă đến với ḿnh trước sân)
Câu thơ thật hay, lột tả được tâm trạng của người đang yêu mà
tác động đến ngoại cảnh. Một bài dài nữa là Xuân giang hoa dạ nguyệt,
anh đă dịch với tất cả ḷng ḿnh, như là một đêm, trăng và hoa đầy
thuyền trôi chầm chậm trên sông là của anh, mà có người đọc vẫn ngỡ là
anh sáng tác. Bài thơ 7 chữ được Tản Đà dich thể lục bát ư thơ thanh
thoát. C̣n Cù Huân Tử, anh đă dịch thể 8 chữ, bài thơ rơ nghĩa và cũng
lăng mạn, nhất là câu cuối:
Cơi trăng vàng ai đó có đi chung
Trăng đă lặn trên bờ cây vẫn nhớ.
Trần Tử Ngang nổi tiếng với bài Đăng U Châu đài ca. Bài thơ 5
chữ, có câu 6 chữ, không theo niêm luật, không ôm vần. Anh đă chuyển
sang thể song thất lục bát, vần điệu nhẹ nhàng, ư từ bay bổng, đọc lên
một nỗi buồn mênh mang, một tâm sự, một triết lư. Chả thế mà anh đă
lấy 2 câu cuối ghi trên trang đầu tập thơ:
Niệm thiên địa chu du du
Độc thương nhi thế hạ
( Mới hay trời đất bao la
Sao trong trần thế ḿnh ta riêng sầu)
Đây có thể nói là một trong những bài thơ dịch thành công của
anh.
Bài Vọng phu 2 của Lê Bá Thiên, câu 3_4 với sự cảm khái:
Châu lệ song thùy dung hải khoát
Đan tâm nhất phiến điểm lâm vu
Cặp thực lột tả sự đau khổ tột cùng của người phụ nữ chờ
chồng và cũng nói lên được tấm ḷng son sắt thủy chung của người phụ
nữ Việt Nam, với nghệ thuật đối hoàn chỉnh. Anh đă chuyển thể giữ được
hồn thơ với một thể đối rất lạ, đó là "Giao cổ đối” (đối chéo) mà đọc
qua có nhiều người tưởng là không đối:
Hai hàng nước mắt_đong hồ lớn
Cháy núi già_ một tấm ḷng son.
Có phải chăng anh muốn nêu lên một cách đối, tŕnh làng một
kiểu đối rất độc đáo của người xưa mà anh đă nghiên cứu và viết trong
quyển Nguyên tắc sáng tác thơ ca.
Anh đă đưa vào tập thơ những bài thơ nổi tiếng và dịch với sự
ngưỡng mộ, t́nh cảm trân trọng và thấy bóng ḿnh trong ấy. Dịch văn,
thơ trước hết người dịch phải đọc toàn tác phẩm để hiểu thấm nhuần ư,
từ rồi từ đó mới chuyển ư dịch. Dịch giả có thể chuyển ư câu hay đoạn,
miễn là độc giả hiểu được cái hay, cái hồn của tác phẩm. Bài Tiết phụ,
bài Khánh chúc tân gia anh đă dịch đảo ư các câu và chuyển thể Đường
luật với vần thanh trắc. Nhưng bài Dạ vũ của Bạch Cư Dị, anh đảo ư câu
3-4:
Cách song tri dạ vũ
Ba tiêu tiên hữu thanh
(Nửa đêm tàu lá chuối
Tiếng rơi đều vang vang)
Người đọc cũng hiểu được nhưng người dịch đă vô t́nh đảo
ngược tŕnh tự thiên nhiên và sự cảm nhận bằng giác quan của người thơ
trong song cửa, khôngđúng với ngoại cảnh làm phá vỡ cái hay của bài
thơ, ảnh hưởng đến nguyên tác. Thanh Trí biết dịch thơ rất khó, dịch
giả phải chọn thể thơ, từ ngữ để chuyển tải ư của tác giả. Anh đă
phải”ngồi đồng” hàng giờ, đă từng nghe tiếng vạc kêu sương, nghe thằn
lằn chắt lưỡi, đă lụy v́ thơ. Thanh Trí cũng đă đọc đi đọc lại, cũng
xoay qua xoay lại và cũng thầm tiếc ngẩn ngơ. Có nhưng bài anh dùng từ
địa phương quá. Bài Giang hành:
Thụy ổn diệp chu khinh
(Nằm trong tắc ráng ngủ yên)
Tắc ráng là từ Nam bộ, chỉ chiếc thuyền nhỏ. Bài thơ làm ta
tưởng tượng chiếc thuyền nhỏ, nhẹ, như chiếc lá chầm chậm xuôi ḍng,
gió hiu hiu, sóng êm êm, ta ngắm trăng ngâm thơ.
Hay bài Tuyệt cú:
Tri âm như bất thưởng
(Không ai thưởng thức th́ thôi)
Ba năm mới viết được hai câu thơ mà mỗi lần ngâm lên là nước
mắt rơi, thế mà bạn tri âm tri kỷ không hiểu ḿnh th́ đời c̣n ǵ vui,
thôi th́ đành gác bút về núi xưa nằm với mùa thu cho rồi.
Hay với cách đặt tên đề cho bài thơ: Đề ở chỗ đă trông thấy
năm trước; Ngẫu nhiên viết khi về làng…Đề là tựu trung ư bài thơ và từ
đề dịch ra nên có chất thơ v́ vốn dĩ toàn bài thơ đă là thơ rồi. Dịch
sát nghĩa quá đôi khi làm mất chất thơ.
Nhưng dù thế nào ta cũng phải thông cảm cho người dịch. Có lẽ
anh muốn tránh sự nhàm chán trong cách dùng mỹ từ, một phong cách sáo
ṃn của phong hoa tuyết nguyệt. Thôi th́! Mỗi người một cách tôi không
dám lạm bàn.
Những bài thơ anh chọn đều là những bài thơ nổi tiếng: Dạ tư,
Hoàng Hạc lâu, Thuật hoài…được chọn đưa vào sách giáo khoa, mà tôi
từng say sưa cao giọng lên bổng xuống trầm với sinh viên; những bài Dạ
vũ, Đề tích sở kiến xứ, Lương Châu từ…mà ta thường ngâm nga:
Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi
Đă được các nhà thơ nổi tiếng dịch. C̣n anh với một cách riêng
của ḿnh, anh đă dịch thơ với tâm trạng người thơ. Dĩ nhiên không sánh
bằng Tản Đà, Xuân Diệu, Trần Trọng San…nhưng anh vẫn là anh, anh Cù
Huân Tử, vẫn là nhà sư, Sư Giác Thanh. Bóng xế cuộc đời anh chọn con
đường mà ngày xưa hằng sâu tâm thức:
Cạo sạch mái tóc
Nguyện cho chúng sinh
Dứt hết phiền năo
Độ thoát cho đời.
Tâm nguyện bước đầu của nhà sư đă hoàn thành là xuất bản tập
thơ dịch chữ Hán. Tập thơ mang tên HOÀI CỔ, lấy tên một bài thơ của
anh Lê Bá Thiên. Một buổi chiều ở cửa Hậu phía Bắc cổ thành Diên Khánh
hoàng hôn xao xác chim về tổ, nh́n quanh lau sậy um ùm. Và có phải
chăng Sư muốn nhắn nhủ chúng ta hăy ngược ḍng quá khứ, hăy hoài cổ
tim cái hay cái đẹp văn thơ. Đọc Hoài cổ, ta cảm ơn Sư Giác Thanh để
có dịp ta t́m hiểu thêm thơ bậc tiền bối, vần thơ trác tuyệt, những
bài thơ để đời, tức cảnh sinh t́nh, từ nghe_thấy_ quan sát cảnh dẫn
đến nội tâm. Mỗi bài thơ là một tứ lạ, dưới ng̣i bút thi hào, từ ngữ
như có ma lực, ư thơ có ngôn ngữ riêng của nó, mà ta cứ muốn đọc đi
đọc lại thấm nhuần cái hay của bài thơ. Thanh Trí cứ măi ngâm nga:
Nhân diện bất tri hà xứ khứ
Đào hoa y cựu tiếu đông phong
Cứ măi tâm đắc:
Nhị cú tam niên đắc
Là bài học khi làm thơ; cứ măi thấm thía:
Tương kiến thời nan biệt diệc nan
Đông phong vô lực bách hoa tàn
Cứ măi ngẩn ngơ:
Quân tri thiếp hữu phu
Tặng thiếp song minh chu
Cảm quân triền miên ư
Hệ tại hồng la nhu
Úy trời! Không đeo ở đâu mà đeo ở yếm hồng. Chắc chết!
Cứ măi ngẫm nghĩ: Đề là Khuê oán mà câu đầu là:
Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu
Làm ta ngạc nhiên ṭ ṃ phải đọc hết bài.
Ta hoài cổ để có vốn kiến thức sống ở đời; ta hoài cổ để học
tập nghệ thuật làm thơ của người xưa; ta hoài cổ để thưởng thức áng
thơ tuyệt tác mà văn chương là vẻ đẹp, vẻ trong sáng. V́: Thơ ca làm
những ǵ tốt và đẹp nhất trên đời này trở nên bất tử” ( Shelley).