thơ & truyện Nguyễn Văn Sanh                      |                 www.ninh-hoa.com

Nguyễn Văn Sanh
Bút hiệu: Người XVạn



Quê tại Vạn Giă
  
Cựu học sinh trường  Trung học Vơ Tánh,
Nha Trang - 1968



Hiện cư ngụ tại:
Úc Đại Lợi

 

 

 

 

 

 

 

LÂM HẢO DŨNG
- NHÀ THƠ XỨ LẠNH

·    NXVạn

 

 

Người viết có lần được hân hạnh giới thiệu nhà thơ Lâm Hảo Dũng (LHD) từ Canada đến thăm thành phố Brisbane - Úc châu. Xin mượn lá thư này để giới thiệu ít gịng về nhà thơ xứ lạnh.

 

Nhắc tới thơ văn vùng sông nước Hậu Giang, không thể không nhắc đến nhà thơ LHD. LHD bắt đầu làm thơ từ thời c̣n đi học tại Trường Trung học Hoàng Diệu (Sóc Trăng) và sau này khi vào đời, anh tiếp tục làm thơ viết văn cùng thời với các lớp văn nghệ sĩ như Trần Phù Thế, Ngô Nguyên Nghiễm, Hà Thúc Sinh, Trần Hoài Thư… Thi phẩm đă xuất bản: Ngày Đi Thương Sợi Khói Bên Nhà, Đi Giữa Thời Tan Nát, Tóc Em Dài Em Cài Bông Hoa Lư.

 

LHD quê làng Bố Thảo, Sóc Trăng. Nói về quê Bố Thảo của anh, tác giả cho biết:

 

Quê Bố Thảo của tôi cũng b́nh dị như bao làng quê khác, người dân sống bằng nghề ruộng rẫy … Năm 19 tuổi tôi đă rời xa quê, đi học, đi làm và đi lính. Châu Đốc đối với tôi mới thật sự là có nhiều kỷ niệm, cảnh núi sông, bạn bè văn nghệ…

 

Xin mời bạn cùng tôi ghé lại thăm căn nhà của thi sĩ qua bài thơ “Nhà tôi“:

 

Mười mấy năm rồi đi biệt xứ
Nhà tôi c̣n đó mẹ tôi không?
Nghe thương những cánh chim tu hú
Măi gọi bên sông điệp khúc buồn.”

 

Đời sống người dân quê nơi các làng mạc miền Nam chỉ mơ xă hội yên b́nh để làm một người dân b́nh thường nên LHD cũng “chỉ muốn làm phó thường dân” thôi. Mời bạn nghe tác giả tả nỗi ḷng của ḿnh qua niềm mơ ước làm một người dân quê quèn ấy:

 

“Phó thường dân tà tà đi bát phố
Ngắm quần loa ống túm áo chim c̣
Ngắm tóc dài của tiểu muội tiểu thơ
Đâu cần biết ngày mai mưa hay nắng


Là một người lính, LHD nay đóng quân ở nơi này mai nơi khác như một kẻ giang hồ phiêu bạt. Những địa danh như núi Phượng Hoàng, Pleiku, KonTum, Tân Cảnh, Daksut, Dakpet, Ngok Long, Poko, Konko, Dakbla, Đường 14, và nhiều địa danh khác là những dấu binh lửa một thời khó phôi pha trong ḷng người lính và nhà thơ LHD.

 

Trong “Tân Cảnh hồn tôi”, LHD cho người đọc thấy được khói lửa chiến tranh đang ngùn ngụt cháy ở nơi vùng núi đồi cao nguyên với núi rừng bao la ấy và lúc nào cũng ngan ngát cái dũng khí của một người lính trận nhớ núi nhớ rừng:

 

 “Đời lính trận trên cây cầu sống chết
May c̣n em làm ấm chút vui lây
Rời bỏ núi tôi sắp về châu thổ
Lửa buồn ơi đem hỏa táng tôi đây”


Nhưng có lẽ h́nh ảnh chiến tranh rơ nét nhất nơi con đường 14 với mùa Hè Đỏ Lửa năm nào:

 

“Ai biết con đường loang máu đổ
Những hồn lưu lạc dưới Poncho
Những hồn vất vưởng bên bờ suối
Đi hái hoa xuân mọc dưới mồ

Ta bỗng cười khan đùa chiến trận
B́nh Tây chưa chết vẫn c̣n đây
Hạ Lào đi suốt vùng biên giới
Nh́n Ngok Tu Ba xác ngập đầy


Vốn thi sĩ là những nghệ sĩ với một tâm hồn lăng mạn vô bờ và tâm hồn LHD cũng bềnh bồng trên sông nước giữa trăng lăng mạn ấy. Với bài thơ “Tôi Vẫn Biết Em Buồn Bên Mái Lá”, là một trong những vần thơ chan chứa cái chất lăng mạn ấy:

 

“Tôi vẫn biết em buồn bên mái lá
Hàng bụp thưa đôi búp nhú ơ hờ
Đất xa trời bao năm mà đất nhớ
Những ngày giông đêm tối hẹn ḥ mưa”

 

Thời Chiến Vùng Tam-Biên Qua Thơ Lâm Hảo Dũng của Trần Văn Nam viết “Bài Gợi Nhớ Về Châu Đốc” của LHD. Bài thơ làm ta nhớ lại nếp sống dân gian Việt Nam với truyền thống “cửa Chùa rộng mở cho bá tánh”: đi lỡ đường th́ có thể vào chùa ngủ nhờ một đêm. Và bài ấy cũng có một đoạn thơ tả rất kỳ diệu con sông Cửu Long bằng cái nh́n vừa thấm nhuần huyền ảo của đạo Phật vừa chan chứa ḷng yêu mến quê hương. Quang cảnh ngoạn mục của chùa Tây An ở núi Sam Châu Đốc đẹp rực rỡ trên nóc với những tượng rồng quẫy đuôi trong những đêm rằm.

 

… Em ở bên kia trời cách biệt

Mắt buồn vây kín núi Sam xa

Ta như lữ khách không nhà cửa

Ngủ đậu trên chùa mỗi tháng ba.

 

… Em khóc ḍng sông đó phải không

Đêm mơ về thấy chín con rồng

Vẫy đuôi trên nóc Tây An Tự

Đón Hội Long Hoa một tối rằm.

 

Thơ thời chiến vùng Tam Biên có lẽ là đề tài riêng cho LHD, dường như không có nhà thơ nào khác. Tuy không hiếm nhà thơ trước 1975 đề cập thời chiến xứ sương mù vùng cao. Nhưng LHD lại có cái chung với họ: nỗi sầu nơi biên trấn, nhớ gia đ́nh, nhớ người yêu, nhớ người thân, nhớ thành phố hay quê hương xa cách v́ thời cuộc đời lính xa nhà.

 

Ta pháo miền cao theo biệt động

Ngậm ngùi thấy lại Dakto xưa

Đâu “căn cứ sáu” mưa trên xác

“Căn cứ năm” tràn bóng ma đưa

Ta kể nhau nghe đời chiến trận

Thằng Nam mất tích ở Nam Lào

Y Uyên bỏ cuộc vài năm trước

Thằng Sự khinh đời cũng chết mau

 

Theo ông Phạm Văn Nhàn vào năm 2005, ông Trần Hoài Thư và PVN cùng rủ nhau thành lập “Tủ Sách Di Sản Văn Chương Miền Nam”, bởi một lư do thật đơn giản là sau tháng tư 1975 những tác phẩm “văn học” của nhiều tác giả miền Nam trước đây chắc chắn không c̣n nữa. Qua công sức t́m kiếm, biết được tổng số nhà thơ Miền Nam trong thời chiến tranh lên con số đáng kể 461 nhà thơ. Mà hầu hết những nhà thơ miền Nam ngày đó là những người lính. Trong số đó có nhà thơ LHD sưu tầm được 9 bài.

 

Hầu hết những nhà thơ miền Nam lớn lên trong chiến tranh là phải “xếp bút nghiên lên đường chinh chiến”, nhà thơ LHD không thoát khỏi. Dưới góc độ chiến tranh càng ngày càng khốc liệt, cái chết chỉ xảy ra trong từng sát na khi lâm trận. Và sau đó là nỗi buồn kế tiếp nỗi buồn:

 

Ngày xuống mua vui tiền chẳng có

giầy đi há mỏm đổi không xong

áo trên vai rách dăm đường vá

ai xót thương đời xương máu không?

 

Đọc thơ LHD, những bài thơ anh làm trước 1975, những nơi anh đến, anh đi trong đời pháo thủ ghi lại những kỷ niệm của đời lính. Với những con chữ giản dị không cầu kỳ khó hiểu. Giản dị như đời lính chiến của nhà thơ rày đây mai đó, cũng chẳng màng chuyện sống chết:

 

Ra đi làm lính - ừ th́ lính.

 

Chán chê, nhưng biết làm sao. Cứ thế, nhà thơ kể chuyện rừng sâu trầm mặc quá, cứ thế cố sống dù câm điếc. Và, cứ mơ dù biết chẳng có thanh b́nh trên đất nước Việt Nam. Và cứ thế nhà thơ chẳng bao giờ mang trong ḷng một chút âu lo sợ hăi. Ta nghe nhà thơ tâm sự:

 

Khi ở Đại Sơn ngồi nghĩ quẩn

ngày mai xuống núi hát nghêu ngao

lỡ buông tay súng thôi đành vậy

buồn có bao giờ quên hết đâu?

 

 Hay:

 

bởi chiến tranh hoài sao biết được

nên đời trai gởi gió sương nuôi

một mai máu có trào trên đất

hăy cắn răng đau hăy hận đời.

 

 Theo Nguyễn Lệ Uyên, “Ngày về Banhet” là bài thơ hay. Hay bởi cùng một chất giọng kiểu Nguyễn Bắc Sơn… khinh bạc mà xót xa, cô đơn đến tận cùng, đau đớn đến tận cùng. Những câu thơ cũng quay cuồng trên trang giấy như chính thân phận những chàng trai trẻ đang quay quắt trong ṿng xoáy cơn lốc lửa đạn. Xin dẫn ra đây bài thơ này:

 

Suối có ngàn năm ai nhớ suối

Ta đi ai nhắc đến tên ta

Ví như xương chất cao thành núi

Cũng chỉ mong quay lại mái nhà

 

Ta ngắm trời xa Chùa Tháp đó

Chiến tranh mộng tưởng sẽ về đâu

Mỗi năm rừng mất bao nhiêu lá

Là xác thây người rụng bấy nhiêu.

 

Chính v́ điều này, cũng như bao nhiêu người khác, phải cố t́nh lấp liếm và đánh lạc hướng sự tàn bạo mà chính bản thân ḿnh phải hứng chịu để t́m đến, một chút với ngọt ngào, một chút với sương khói mong manh:

 

Đời lính trận trên cây cầu sống chết
May c̣n em làm ấm chút vui lây.

Và rồi anh lư giải thêm chút nữa, rơ hơn về cái sự sống chết, nó ở đâu đó, sát ngay bên cạnh ḿnh:

 

Chiến tranh là chuyện người trần
Ta say quên hết may c̣n cái vui.

 

Sống chết hay cái vui, với anh đều là may rủi: May c̣n em và may c̣n cái vui như một tiếng kêu năo nuột bật ra từ tâm thức ngủ yên. Đó chỉ là niềm hạnh phúc mong manh không ở ngay bên cạnh mà đâu đó như một vệt khói hư không.

 

Có rất nhiều nhà văn, nhà thơ, bạn bè văn chương của tác giả có đề cập nhiều về các tác phẩm của ông, tuy nhiên theo người viết, nhà văn thi nhạc sĩ Hà Thúc Sinh có một bài cảm tưởng rất ngắn nhưng thật thấm vào ḷng người đọc.

 

Theo nhạc sĩ HTS, trải một thời thiếu niên êm đềm và thơ mộng nơi quê nhà miền Tây đầy những bần, những mận, những rau, những cỏ, những cá những tôm, những đồng lầy xanh và sông phù sa đỏ, những mây những khói những t́nh thân, cho đến khi trưởng thành, lao vào đời như một pháo thủ, cầm quân ngang dọc một thời, cứu Bồng Sơn, Tam Quan, sang Hạ lào, Chùa tháp, nên thơ của LHD đă thoát ra khỏi hàng ngũ của những người làm thơ cận kim và hiện đại VN, đó là những thi sĩ của thuốc phiện, của gái, của rượu, của cái tôi cao ngạo mà không thực chút nào.

 

Một cách khác, gọi LHD là thi sĩ chưa đủ, phải gọi anh là thi sĩ lính mới đúng. V́ qua thơ anh, người ta thấy anh có mặt trong hàng ngũ thi sĩ lính, hàng ngũ của Quang Dũng, của Nguyễn Bắc Sơn... Riêng anh có những câu thơ lính rất riêng:

 

Đêm qua không ngủ ta cầm súng

Muốn bắn vang trời Đông đến Tây...

 

Hơn hai mươi năm làm thơ, đến khi đầu bạc đă sống lưu lạc nơi xứ người, anh mới để anh em in tập thơ đầu tay cho anh. Thơ như thế hẳn phải đậm đà như rượu chôn nhiều năm dưới đất. Nó sẽ là nỗi nhớ thương cho những tâm hồn chóng quên, là h́nh bóng quê hương cho những kẻ lưu đày, là nghiêm lệnh quay về cho những kẻ chỉ thích hân hoan bỏ chạy.

 

Có một nhà văn đă có lần viết về thơ của anh LHD rằng "Đọc thơ Dũng sướng đến rụng rời, những khổ thay cứ đọc thơ Dũng rồi là không c̣n muốn làm thơ nữa"... Họ Hà kết luận "Thơ Dũng quả là miếng ngon mà tôi là kẻ đói. Và để được làm một kẻ đói khôn ngoan, hăy đọc thơ anh như một miếng ngon phải được ăn thật trang trọng, từ từ..".

 

Nói vậy th́ rơ ràng là nhà thơ th́ không thể nào tự bẻ bút không làm thơ mà sống được. Có một nhà văn nổi tiếng hơn là thơ của ông có lần viết một cách hết sức triếy lư "... Không phải không c̣n muốn làm thơ nữa là xong, là không thơ." Nhà văn và cũng là nhà thơ Mai Tháo có lần viết "Cơi không là thơ. Không c̣n ǵ nữa hết là khởi đầu của thơ. Một xóa bỏ tận cùng. Tự xóa bỏ chính nó. Tôi xóa bỏ xong tôi. Không c̣n ǵ nữa hết. Tôi thơ (Bờ cơi khởi đầu).

 

Thơ hay không thơ xin dành lại cho quư độc giả suy tưởng. Riêng nguời viết thật cảm động khi đọc những gịng thơ bi tráng về đời lính hào hùng của ông trước 1975. Nay trên vai c̣n gánh nặng nỗi đau khi hiền thê của nhà thơ Lâm Hảo Dũng đă vĩnh viễn xa ông tại Vancouver vài năm trước với bài thơ tặng cho vợ hiền lần cuối cùng là bài Gởi Người Xứ Pleiku thật vô cùng xót xa đầy nước mắt:

 

Hôm nay ngày vĩnh biệt

Em không c̣n bên tôi

Hôm nay mây thành tuyết

Tan nơi đất quê người

 

Hôm nay hay hôm khác

Em vẫn là trăng sao

Vẫn bay về phố núi

Thương kỷ niệm năm nào

 

Hăy lau ḍng nước mắt

Hăy an b́nh xuôi tay

Đợi ta về bên gốc

Cà phê nồng hương bay

 

Bốn mươi năm rồi đó

Đời hằng những phong ba

Riêng em sầu để nhớ

Một h́nh bóng quê nhà

 

Ôi trăm năm hồ mộng

Đi về cũng hư không...


Vancouver, May 12. 2012

LHD

 

-)-

 

 

 * NXVạn

 (Úc Châu 2018)

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 thơ & truyện Nguyễn Văn Sanh                       |                 www.ninh-hoa.com