LÂM HẢO DŨNG
-
NHÀ THƠ XỨ LẠNH
· NXVạn
Người viết có lần được hân hạnh
giới thiệu nhà thơ Lâm Hảo Dũng (LHD) từ Canada đến thăm thành phố
Brisbane - Úc châu. Xin mượn lá thư này để giới thiệu ít gịng về nhà
thơ xứ lạnh.
Nhắc tới thơ văn vùng sông nước
Hậu Giang, không thể không nhắc đến nhà thơ LHD. LHD bắt đầu làm thơ
từ thời c̣n đi học tại Trường Trung học Hoàng Diệu (Sóc Trăng) và sau
này khi vào đời, anh tiếp tục làm thơ viết văn cùng thời với các lớp
văn nghệ sĩ như Trần Phù Thế, Ngô Nguyên Nghiễm, Hà Thúc Sinh, Trần
Hoài Thư… Thi phẩm đă xuất bản: Ngày Đi Thương Sợi Khói Bên Nhà, Đi
Giữa Thời Tan Nát, Tóc Em Dài Em Cài Bông Hoa Lư.
LHD quê làng Bố Thảo, Sóc
Trăng. Nói về quê Bố Thảo của anh, tác giả cho biết:
”Quê
Bố Thảo của tôi cũng b́nh dị như bao làng quê khác, người dân sống
bằng nghề ruộng rẫy … Năm 19 tuổi tôi đă rời xa quê, đi học, đi làm và
đi lính. Châu Đốc đối với tôi mới thật sự là có nhiều kỷ niệm, cảnh
núi sông, bạn bè văn nghệ…”
Xin mời bạn cùng tôi ghé lại
thăm căn nhà của thi sĩ qua bài thơ “Nhà tôi“:
Mười mấy năm rồi đi biệt xứ
Nhà tôi c̣n đó mẹ tôi không?
Nghe thương những cánh chim tu hú
Măi gọi bên sông điệp khúc buồn.”
Đời sống người dân quê nơi các
làng mạc miền Nam chỉ mơ xă hội yên b́nh để làm một người dân b́nh
thường nên LHD cũng “chỉ muốn làm phó thường dân” thôi. Mời bạn nghe
tác giả tả nỗi ḷng của ḿnh qua niềm mơ ước làm một người dân quê
quèn ấy:
“Phó thường dân tà tà đi bát phố
Ngắm quần loa ống túm áo chim c̣
Ngắm tóc dài của tiểu muội tiểu thơ
Đâu cần biết ngày mai mưa hay nắng
Là một người lính, LHD nay đóng quân ở nơi này mai nơi khác như một kẻ
giang hồ phiêu bạt. Những địa danh như núi Phượng Hoàng, Pleiku,
KonTum, Tân Cảnh, Daksut, Dakpet, Ngok Long, Poko, Konko, Dakbla,
Đường 14, và nhiều địa danh khác là những dấu binh lửa một thời khó
phôi pha trong ḷng người lính và nhà thơ LHD.
Trong “Tân
Cảnh hồn tôi”, LHD cho người đọc thấy
được khói lửa chiến tranh đang ngùn ngụt cháy ở nơi vùng núi đồi cao
nguyên với núi rừng bao la ấy và lúc nào cũng ngan ngát cái dũng khí
của một người lính trận nhớ núi nhớ rừng:
“Đời lính trận trên cây cầu sống chết
May c̣n em làm ấm chút vui lây
Rời bỏ núi tôi sắp về châu thổ
Lửa buồn ơi đem hỏa táng tôi đây”
Nhưng có lẽ h́nh ảnh chiến tranh rơ nét nhất nơi con đường 14 với mùa
Hè Đỏ Lửa năm nào:
“Ai biết con đường loang máu đổ
Những hồn lưu lạc dưới Poncho
Những hồn vất vưởng bên bờ suối
Đi hái hoa xuân mọc dưới mồ
Ta
bỗng cười khan đùa chiến trận
B́nh Tây chưa chết vẫn c̣n đây
Hạ Lào đi suốt vùng biên giới
Nh́n Ngok Tu Ba xác ngập đầy
Vốn thi sĩ là những nghệ sĩ với
một tâm hồn lăng mạn vô bờ và tâm hồn LHD cũng bềnh bồng trên sông
nước giữa trăng lăng mạn ấy. Với bài thơ “Tôi
Vẫn Biết Em Buồn Bên Mái Lá”, là một
trong những vần thơ chan chứa cái chất lăng mạn ấy:
“Tôi vẫn biết em buồn bên mái lá
Hàng bụp thưa đôi búp nhú ơ hờ
Đất xa trời bao năm mà đất nhớ
Những ngày giông đêm tối hẹn ḥ mưa”
Thời Chiến Vùng Tam-Biên Qua
Thơ Lâm Hảo Dũng của Trần Văn Nam viết “Bài
Gợi Nhớ Về Châu Đốc” của LHD. Bài thơ
làm ta nhớ lại nếp sống dân gian Việt Nam với truyền thống “cửa Chùa
rộng mở cho bá tánh”: đi lỡ đường th́ có thể vào chùa ngủ nhờ một đêm.
Và bài ấy cũng có một đoạn thơ tả rất kỳ diệu con sông Cửu Long bằng
cái nh́n vừa thấm nhuần huyền ảo của đạo Phật vừa chan chứa ḷng yêu
mến quê hương. Quang cảnh ngoạn mục của chùa Tây An ở núi Sam Châu Đốc
đẹp rực rỡ trên nóc với những tượng rồng quẫy đuôi trong những đêm
rằm.
… Em ở bên kia trời cách biệt
Mắt buồn vây kín núi Sam xa
Ta như lữ khách không nhà cửa
Ngủ đậu trên chùa mỗi tháng ba.
… Em khóc ḍng sông đó phải không
Đêm mơ về thấy chín con rồng
Vẫy đuôi trên nóc Tây An Tự
Đón Hội Long Hoa một tối rằm.
Thơ thời chiến vùng Tam Biên có
lẽ là đề tài riêng cho LHD, dường như không có nhà thơ nào khác. Tuy
không hiếm nhà thơ trước 1975 đề cập thời chiến xứ sương mù vùng cao.
Nhưng LHD lại có cái chung với họ: nỗi sầu nơi biên trấn, nhớ gia
đ́nh, nhớ người yêu, nhớ người thân, nhớ thành phố hay quê hương xa
cách v́ thời cuộc đời lính xa nhà.
Ta pháo miền cao theo biệt động
Ngậm ngùi thấy lại Dakto xưa
Đâu “căn cứ sáu” mưa trên xác
“Căn cứ năm” tràn bóng ma đưa
Ta kể nhau nghe đời chiến trận
Thằng Nam mất tích ở Nam Lào
Y Uyên bỏ cuộc vài năm trước
Thằng Sự khinh đời cũng chết mau
Theo
ông
Phạm Văn Nhàn vào năm 2005, ông Trần Hoài
Thư và PVN cùng rủ nhau thành lập “Tủ Sách Di Sản Văn Chương Miền
Nam”, bởi một lư do thật đơn giản là sau tháng tư 1975 những tác
phẩm “văn học” của nhiều tác giả miền Nam trước đây chắc chắn không
c̣n nữa. Qua công sức t́m kiếm, biết được tổng số nhà thơ Miền Nam
trong thời chiến tranh lên con số đáng kể 461 nhà thơ. Mà hầu hết
những nhà thơ miền Nam ngày đó là những người lính. Trong số đó có nhà
thơ LHD sưu tầm được 9 bài.
Hầu hết những nhà thơ miền
Nam lớn lên trong chiến tranh là phải “xếp bút nghiên lên đường chinh
chiến”, nhà thơ LHD không thoát khỏi. Dưới góc độ chiến tranh càng
ngày càng khốc liệt, cái chết chỉ xảy ra trong từng sát na khi lâm
trận. Và sau đó là nỗi buồn kế tiếp nỗi buồn:
Ngày xuống mua vui tiền chẳng có
giầy đi há mỏm đổi không xong
áo trên vai rách dăm đường vá
ai xót thương đời xương máu không?
Đọc thơ LHD, những bài thơ
anh làm trước 1975, những nơi anh đến, anh đi trong đời pháo thủ ghi
lại những kỷ niệm của đời lính. Với những con chữ giản dị không cầu kỳ
khó hiểu. Giản dị như đời lính chiến của nhà thơ rày đây mai đó, cũng
chẳng màng chuyện sống chết:
Ra đi làm lính - ừ th́ lính.
Chán chê, nhưng biết làm sao.
Cứ thế, nhà thơ kể chuyện rừng sâu trầm mặc quá, cứ thế cố sống dù câm
điếc. Và, cứ mơ dù biết chẳng có thanh b́nh trên đất nước Việt Nam. Và
cứ thế nhà thơ chẳng bao giờ mang trong ḷng một chút âu lo sợ hăi. Ta
nghe nhà thơ tâm sự:
Khi ở Đại Sơn ngồi nghĩ quẩn
ngày mai xuống núi hát nghêu ngao
lỡ buông tay súng thôi đành vậy
buồn có bao giờ quên hết đâu?
Hay:
bởi chiến tranh hoài sao biết được
nên đời trai gởi gió sương nuôi
một mai máu có trào trên đất
hăy cắn răng đau hăy hận đời.
Theo Nguyễn Lệ Uyên, “Ngày
về Banhet” là bài thơ hay. Hay bởi
cùng một chất giọng kiểu Nguyễn Bắc Sơn… khinh bạc mà xót xa, cô đơn
đến tận cùng, đau đớn đến tận cùng. Những câu thơ cũng quay cuồng trên
trang giấy như chính thân phận những chàng trai trẻ đang quay quắt
trong ṿng xoáy cơn lốc lửa đạn. Xin dẫn ra đây bài thơ này:
Suối có ngàn năm ai nhớ suối
Ta đi ai nhắc đến tên ta
Ví như xương chất cao thành núi
Cũng chỉ mong quay lại mái nhà
Ta ngắm trời xa Chùa Tháp đó
Chiến tranh mộng tưởng sẽ về đâu
Mỗi năm rừng mất bao nhiêu lá
Là xác thây người rụng bấy nhiêu.
Chính v́ điều này, cũng như bao
nhiêu người khác, phải cố t́nh lấp liếm và đánh lạc hướng sự tàn bạo
mà chính bản thân ḿnh phải hứng chịu để t́m đến, một chút với ngọt
ngào, một chút với sương khói mong manh:
Đời
lính trận trên cây cầu sống chết
May c̣n em làm ấm chút vui lây.
Và rồi anh lư giải thêm chút
nữa, rơ hơn về cái sự sống chết, nó ở đâu đó, sát ngay bên cạnh ḿnh:
Chiến tranh là chuyện người trần
Ta say quên hết may c̣n cái vui.
Sống chết hay cái vui, với anh
đều là may rủi: May c̣n em và may c̣n cái vui như một tiếng kêu năo
nuột bật ra từ tâm thức ngủ yên. Đó chỉ là niềm hạnh phúc mong manh
không ở ngay bên cạnh mà đâu đó như một vệt khói hư không.
Có rất nhiều nhà văn, nhà thơ,
bạn bè văn chương của tác giả có đề cập nhiều về các tác phẩm của ông,
tuy nhiên theo người viết, nhà văn thi nhạc sĩ Hà Thúc Sinh có một bài
cảm tưởng rất ngắn nhưng thật thấm vào ḷng người đọc.
Theo nhạc sĩ HTS, trải một thời
thiếu niên êm đềm và thơ mộng nơi quê nhà miền Tây đầy những bần,
những mận, những rau, những cỏ, những cá những tôm, những đồng lầy
xanh và sông phù sa đỏ, những mây những khói những t́nh thân, cho đến
khi trưởng thành, lao vào đời như một pháo thủ, cầm quân ngang dọc một
thời, cứu Bồng Sơn, Tam Quan, sang Hạ lào, Chùa tháp, nên thơ của LHD
đă thoát ra khỏi hàng ngũ của những người làm thơ cận kim và hiện đại
VN, đó là những thi sĩ của thuốc phiện, của gái, của rượu, của cái tôi
cao ngạo mà không thực chút nào.
Một cách khác, gọi LHD là thi
sĩ chưa đủ, phải gọi anh là thi sĩ lính mới đúng. V́ qua thơ anh,
người ta thấy anh có mặt trong hàng ngũ thi sĩ lính, hàng ngũ của
Quang Dũng, của Nguyễn Bắc Sơn... Riêng anh có những câu thơ lính rất
riêng:
Đêm qua không ngủ ta cầm súng
Muốn bắn vang trời Đông đến Tây...
Hơn hai mươi năm làm thơ, đến
khi đầu bạc đă sống lưu lạc nơi xứ người, anh mới để anh em in tập thơ
đầu tay cho anh. Thơ như thế hẳn phải đậm đà như rượu chôn nhiều năm
dưới đất. Nó sẽ là nỗi nhớ thương cho những tâm hồn chóng quên, là
h́nh bóng quê hương cho những kẻ lưu đày, là nghiêm lệnh quay về cho
những kẻ chỉ thích hân hoan bỏ chạy.
Có một nhà văn đă có lần viết
về thơ của anh LHD rằng "Đọc thơ Dũng sướng đến rụng rời, những khổ
thay cứ đọc thơ Dũng rồi là không c̣n muốn làm thơ nữa"... Họ Hà kết
luận "Thơ Dũng quả là miếng ngon mà tôi là kẻ đói. Và để được làm một
kẻ đói khôn ngoan, hăy đọc thơ anh như một miếng ngon phải được ăn
thật trang trọng, từ từ..".
Nói vậy th́ rơ ràng là nhà thơ
th́ không thể nào tự bẻ bút không làm thơ mà sống được. Có một nhà văn
nổi tiếng hơn là thơ của ông có lần viết một cách hết sức triếy lư
"... Không phải không c̣n muốn làm thơ nữa là xong, là không thơ." Nhà
văn và cũng là nhà thơ Mai Tháo có lần viết "Cơi không là thơ. Không
c̣n ǵ nữa hết là khởi đầu của thơ. Một xóa bỏ tận cùng. Tự xóa bỏ
chính nó. Tôi xóa bỏ xong tôi. Không c̣n ǵ nữa hết. Tôi thơ (Bờ cơi
khởi đầu).
Thơ hay không thơ xin dành lại
cho quư độc giả suy tưởng. Riêng nguời viết thật cảm động khi đọc
những gịng thơ bi tráng về đời lính hào hùng của ông trước 1975. Nay
trên vai c̣n gánh nặng nỗi đau khi hiền thê của nhà thơ Lâm Hảo Dũng
đă vĩnh viễn xa ông tại Vancouver vài năm trước với bài thơ tặng cho
vợ hiền lần cuối cùng là bài Gởi Người Xứ Pleiku thật vô cùng xót xa
đầy nước mắt:
Hôm nay ngày vĩnh biệt
Em không c̣n bên tôi
Hôm nay mây thành tuyết
Tan nơi đất quê người
Hôm nay hay hôm khác
Em vẫn là trăng sao
Vẫn bay về phố núi
Thương kỷ niệm năm nào
Hăy lau ḍng nước mắt
Hăy an b́nh xuôi tay
Đợi ta về bên gốc
Cà phê nồng hương bay
Bốn mươi năm rồi đó
Đời hằng những phong ba
Riêng em sầu để nhớ
Một h́nh bóng quê nhà
Ôi trăm năm hồ mộng
Đi về cũng hư không...
Vancouver, May 12. 2012
LHD