ĐI T̀M DI TÍCH DINH XƯA
Nguyễn Man Nhiên
ĐÔI
NÉT VỀ TỔ CHỨC HÀNH CHÍNH Ở KHÁNH H̉A DƯỚI THỜI CÁC CHÚA
NGUYỄN (1653 - 1801) VÀ TRIỀU NGUYỄN (1802 - 1945)
húa Nguyễn
là cách gọi chung ḍng họ các nhà cai trị vùng đất phía nam
của nước Đại Việt - mà thời bấy giờ gọi là xứ
Đàng Trong hay Nam Hà -
trong giai đoạn lịch sử từ giữa thế kỷ XVI (đầu thời Lê
trung hưng) cho đến đầu thế kỷ XIX (khi vua Gia Long lên
ngôi). Các chúa Nguyễn là tiền thân của nhà
Nguyễn, triều đại phong kiến cuối cùng của Việt
Nam.
Năm 1527, Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê và lập ra
nhà Mạc. An Thành Hầu Nguyễn Kim (1468-1545), một tướng giỏi của nhà Hậu
Lê, v́ giúp vua Lê chống lại nhà Mạc nên được phong chức Thái Sư Hưng
Quốc Công, thống lănh toàn bộ quân đội. Về cuối nhà Hậu Lê, các vua Lê
bị Thượng Tướng Thái Quốc Công Trịnh Kiểm chiếm quyền. Trịnh Kiểm (sử
sách thường gọi là Chúa Trịnh) luôn t́m cách
giảm bớt quyền lực của họ Nguyễn. Nguyễn Kim có hai người con trai là
Nguyễn Uông và Nguyễn Hoàng, cả hai cũng là tướng giỏi của triều đ́nh và
đều được phong chức Quận công. V́ người con trai lớn, Nguyễn Uông, bị
Trịnh Kiểm giết nên người con trai c̣n lại là Đoan Quận Công Nguyễn
Hoàng xin vua Lê cho vào cai trị vùng đất Thuận Hóa để xa Chúa Trịnh.
Khi mới vào trấn thủ Thuận Hóa (1558), Nguyễn Hoàng
(sử sách thường gọi là Chúa Tiên) cùng tùy tùng
đóng dinh ở xă Ái Tử, huyện Vũ Xương, phủ Triệu Phong (nay thuộc tỉnh
Quảng Trị). Đây là nơi đặt lỵ sở của các cơ quan chính quyền trung ương
của xứ Thuận Hóa và cũng là nơi cư ngụ của quan quân chúa Nguyễn cùng
gia đ́nh. Sau khi được kiêm lănh xứ Quảng Nam (1570), Nguyễn Hoàng lập
dinh Quảng Nam. Danh từ dinh giờ đây không chỉ có nghĩa là chỗ ở
của Chúa mà c̣n chỉ một khu vực hành chính. Dưới đời
Chúa Săi Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1634) đặt thêm các
dinh Quảng B́nh, dinh Trấn Biên (sau gọi là dinh Phú Yên), dinh Bố
Chính. Sau đó, cùng với sự mở rộng lănh thổ về phía Nam, các dinh khác
cũng lần lượt được thiết lập. Đến đời Chúa Vơ
Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765), lúc này ở phía bắc Chúa Trịnh đă xưng
vương nên Nguyễn Phúc Khoát cũng xưng vương (Vơ Vương)
vào năm 1744 và xem Đàng Trong như một nước độc lập, lănh thổ chia làm
12 dinh và 1 trấn như sau: Cựu dinh (ở xă Ái Tử); Chánh dinh (nơi đặt
phủ chúa ở Phú Xuân); Dinh Bố Chính (tục gọi dinh Ngói); Dinh Quảng B́nh
(tục gọi dinh Trạm); Dinh Lưu Đồn (tục gọi dinh Mười); Dinh Quảng Nam
(tục gọi dinh Chiêm); Dinh Phú Yên; Dinh B́nh Khang; Dinh B́nh Thuận;
Dinh Trấn Biên (ở Biên Ḥa); Dinh Phiên Trấn (ở Gia Định); Dinh Long Hồ
(ở Vĩnh Long); Trấn Hà Tiên.
Về bộ máy chính quyền ở các địa phương, đứng đầu mỗi
dinh có quan Trấn thủ coi việc hành chính lẫn
quân sự, phụ tá có các quan Cai bạ,
Kư lục; đặt ra 3 ty: ty Xá xai coi
việc từ tụng văn án, ty Tướng thần lại coi việc
thu tiền sai dư, thóc tô và phát lương tháng, ty Lệnh sử
coi việc tế tự, lễ tiết... Dinh chia ra nhiều phủ,
phủ gồm nhiều huyện, huyện gồm nhiều
tổng, tổng gồm nhiều xă; các bản,
làng ở miền rừng núi hoặc ven sông biển mới khai lập th́ đặt làm
thuộc, quy tụ các cụm dân cư nhỏ, lẻ như
phường, thôn, nậu,
man. Phủ có tri phủ,
huyện có tri huyện đứng đầu, coi việc từ tụng;
xă có xă trưởng, tổng có cai tổng,
thuộc có cai thuộc… Quân đội có bộ
binh, thủy binh và tượng
binh, chia làm các đơn vị như thuyền,
đội, cơ, dinh.
Chỉ huy đội có Cai đội và Đội trưởng,
chỉ huy cơ có Chưởng cơ và Cai cơ.
Chưởng dinh là chức quan cao nhất trong quân
đội…
Từ giữa thế kỷ XVII, vùng đất Khánh Ḥa ngày nay đă
thuộc chủ quyền của người Việt, dưới sự cai trị của các chúa Nguyễn. Năm
1653 (đời Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần) lập
dinh Thái Khang, gồm 2 phủ: Thái Khang
(quản 2 huyện: Quảng Phước, Tân Định)
và Diên Ninh (quản 3 huyện: Phước
Điền, Hoa Châu, Vĩnh
Xương), do Cai cơ Hùng Lộc làm trấn thủ. Năm 1690 (đời
Chúa Nghĩa Nguyễn Phúc Trăn) đổi tên phủ Thái
Khang thành phủ B́nh Khang. Năm 1742 (đời
Vơ Vương Nguyễn Phúc Khoát) đổi tên phủ Diên
Ninh thành phủ Diên Khánh, lập dinh
B́nh Khang thống lănh hai phủ B́nh Khang, Diên Khánh. Từ
năm 1773 dinh B́nh Khang thuộc quyền kiểm soát của nhà Tây Sơn; chính
quyền Tây Sơn bỏ dinh, chỉ để phủ, huyện. Năm 1793 nhà Nguyễn lấy lại
được đất này, lập lại dinh B́nh Khang, đặt các chức lưu thủ, cai bạ, kư
lục; lại đắp thành Diên Khánh, sai đại thần trấn thủ. Năm Gia Long thứ 2
(1803) đổi dinh B́nh Khang thành dinh B́nh Ḥa,
đổi phủ B́nh Khang thành phủ B́nh Ḥa. Năm Gia
Long thứ 7 (1808) đổi dinh B́nh Ḥa thành trấn B́nh Ḥa.
Năm Minh Mạng thứ 12 (1831) đổi phủ B́nh Ḥa thành phủ Ninh
Ḥa. Năm Minh Mạng thứ 13 (1832) chia lại tỉnh hạt trên
toàn quốc, trấn B́nh Ḥa đổi thành tỉnh Khánh Ḥa,
cơ quan đầu tỉnh có 2 ty: Bố chánh,
Án sát đặt dưới quyền Tuần phủ Thuận Khánh;
đồng thời trên địa bàn phủ Diên Khánh sáp nhập huyện Hoa Châu vào huyện
Phước Điền.
LỴ SỞ CỦA DINH THÁI KHANG (SAU NÀY LÀ DINH
B̀NH KHANG, RỒI B̀NH H̉A) Ở ĐÂU?
Tài liệu xưa nhất ghi chép về việc này có lẽ là sách
Nam triều công nghiệp diễn chí của Bảng Trung
hầu Nguyễn Khoa Chiêm, soạn năm 1719: “Năm Khánh Đức thứ 5, vua Lê
cải niên hiệu là Thịnh Đức nguyên niên (1653).
Bấy giờ vua nước Chiêm Thành là Bà Tấm xâm vào đất Phú Yên. Hiền vương
sai Cai cơ là Hùng Lộc đem binh đi đánh, kéo thẳng đến Chiêm Thành,
vua Chiêm thua chạy. Hùng Lộc tiến đến sông Phan Rang. Vua Chiêm dựng
biểu xin hàng. Ngài bèn lấy đất ở phía đông sông Phan
Rang đến sát địa giới Phú Yên, chia làm 2 phủ: Thái Khang và Diên Ninh
mà đặt làm một dinh Thái Khang, cho
Hùng Lộc làm trấn thủ đất ấy” (1).
Theo sách Phủ biên tạp lục
(PBTL) của Lê Quư Đôn (viết năm 1776, khi ông giữ chức Hiệp trấn tham
tán quân cơ ở Thuận Hóa) th́ “huyện Quảng Phước
có quan đóng giữ, gọi là dinh B́nh Khang, kư lục, tri bạ, cai án mỗi
chức một viên, sở thuộc có ty Xá xai, câu kê 1 người, cai hợp 2 người,
thủ hợp 3 người, lại viên 20 người và ty Tướng thần lại số người cũng
thế” (2).
Sách Đại Nam nhất thống chí
(ĐNNTC) của Sử quán triều Nguyễn, quyển XI viết về tỉnh Khánh Ḥa, trong
mục Thành tŕ cho biết chi tiết hơn: “Trước
kia lị sở của dinh ở địa phận xă Phước Đa huyện Quảng Phước”
(3); cũng sách này ở mục Cổ tích chép:
“Dinh cũ B́nh Ḥa: ở xă Phước Đa, huyện Quảng
Phước, trước kia có 3 ṭa công đường, nay bỏ, nền cũ vẫn c̣n”
(4).
Từ các nguồn sử liệu trên, có thể tạm xác định:
- Dinh Thái Khang (tiền thân của tỉnh Khánh Ḥa ngày
nay) đă được thành lập vào năm 1653 với tư cách là một đơn vị hành chính
của xứ Đàng Trong, với người đứng đầu là quan trấn thủ Hùng Lộc.
- Lỵ sở của dinh Thái Khang - sau này đổi tên là dinh
B́nh Khang (1742), dinh B́nh Ḥa (1803) - đóng ở xă Phước Đa, huyện
Quảng Phước.
Tuy nhiên, khi tra cứu sách Hoàng Việt nhất
thống dư địa chí (HVNTDĐC) - bộ địa chí đầu tiên của triều
Nguyễn do Binh bộ Thượng thư Lê Quang Định soạn xong và dâng lên nhà vua
vào năm 1806, được triều đ́nh đánh giá rất cao đồng thời đă trở thành
công cụ tra cứu chủ yếu cho các công tŕnh địa chí tiếp theo mà bộ
Đại Nam nhất thống chí là một ví dụ - chúng tôi thấy có chút
khác biệt như sau. Trong phần “Đường trạm dinh B́nh Ḥa”,
sách HVNTDĐC có đoạn: “Đến Chợ Mai, chợ nằm trên địa
phận xă Toàn Thạnh. Chợ rộng 21 tầm, họp vào buổi
chiều, có nhiều quán xá, phía đông của chợ có dân cư rất
đông đúc, thổ sản ở đây là cau, lỵ sở
dinh trấn thủ của tiền triều đóng tại đây”.
Ngay sau đó sách viết tiếp: “Lại có Chợ Dinh, từ chợ này
theo hướng tây đi lên 112 tầm đến nơi nền cũ dinh quan cai bạ của tiền
triều, đến nay hăy c̣n. 20 tầm đến trạm cũ Toàn
Thạnh, hai bên là đất khô, dân cư rất trù mật,
qua hướng tây 80 tầm là nơi lỵ sở dinh kư lục của tiền triều…”
(5)
Như vậy, theo sách HVNTDĐC, lỵ sở dinh trấn
thủ Thái Khang (sau này là dinh B́nh Khang rồi dinh B́nh Ḥa) không phải
đóng ở xă Phước Đa, huyện Quảng Phước mà nằm trên địa phận xă Toàn
Thạnh, huyện Tân Định. Ngôi chợ họp trên đất
này do vậy cũng gọi là Chợ Dinh (mà tên gọi c̣n bảo lưu đến
ngày nay). Cũng theo sách HVNTDĐC, quanh khu vực gần dinh trấn thủ
c̣n có lỵ sở của các quan cai bạ, kư lục - là những cơ quan đầu năo về
hành chính lẫn quân sự ở địa phương.
Vậy xă Toàn Thạnh ở đâu? Theo Địa bạ tỉnh
Khánh Ḥa [do nhà Nguyễn lập từ năm Gia Long thứ 10 (1811),
có sửa chữa, bổ sung vào các năm Minh Mạng thứ 11 (1830) và Tự Đức thứ
26 (1873)], xă Toàn Thạnh gồm các xứ Đồng Giữa, Đồng Trong, Đồng Ngoài,
thuộc tổng Trung, huyện Tân Định, phủ B́nh Hoà (sau đổi thành phủ Ninh
Ḥa). Về địa giới, “đông giáp địa phận xă Thanh Châu và xă An Phú;
tây giáp địa phận xă An Thành và xă Thạch Thành; nam giáp xă
Thạch Thành và núi; bắc giáp địa phận thôn Vĩnh An (tổng
Trung, huyện Quảng Phước) và núi” (6). Như vậy, vị trí của
xă nằm ở giáp giới giữa hai huyện Quảng Phước và Tân Định, phía tả ngạn
(bờ bắc) sông Vĩnh Phú (có tục danh là sông Dinh). Xă
Toàn Thạnh về sau đổi tên là xă Mỹ Thạnh, rồi trở thành thôn Mỹ Hiệp
thuộc xă Ninh Hiệp, huyện Ninh Ḥa; hiện nay là địa bàn các tổ dân phố
từ 1 đến 10 thuộc thị trấn Ninh Ḥa.
C̣n xă Phước Đa? Theo Địa bạ tỉnh Khánh
Ḥa, tên cũ của xă Phước Đa là Phước Toàn phụ
lũy xă, thuộc tổng Trung, huyện Quảng Phước, phủ B́nh Ḥa.
Về địa giới, “đông giáp địa phận thôn Mỹ An Đông (tổng Hạ huyện Tân
Định), lấy bờ đê làm giới; tây giáp địa phận xă Quan Đông,
lại giáp xă Toàn Thạnh (tổng Trung huyện Tân Định); nam
giáp địa phận xă Thanh Châu (tổng Hạ huyện Tân Định); bắc giáp núi (Ḥn
Dài)” (7). Như vậy, phía tây của xă Phước Đa giáp với xă Toàn Thạnh
là nơi có “lỵ sở dinh trấn thủ của tiền triều” như
HVNTDĐC đă ghi nhận. Hai chữ “phụ lũy” trong tên
cũ của xă Phước Đa góp phần khẳng định đây là nơi gần khu vực lỵ sở dinh
trấn thủ, v́ thời bấy giờ các làng mạc xung quanh dinh sở hoặc thành
trấn đều gọi là phụ lũy.
Đến khoảng giữa thế kỷ XIX, xă Phước Toàn đổi tên
thành xă Phước Đa. Sau năm 1954 phủ Ninh Ḥa đổi thành quận Ninh Ḥa, và
sau tháng 4/1975 đổi thành huyện Ninh Ḥa. Thời kỳ này xă Phước Đa đổi
thành thôn Phước Đa thuộc xă Ninh Đa, huyện Ninh Ḥa. Khi thành lập thị
trấn Ninh Ḥa (10/1978), Phước Đa trở thành các tổ dân phố 14, 15, 16.
Xă Phước Đa không phải là nơi đóng dinh quan trấn thủ
mà là nơi đặt lỵ sở phủ Ninh Ḥa. Theo ĐNNTC, nguyên thuở
trước lỵ sở của phủ ở xă Phước Đa, huyện Quảng Phước. Năm
Minh Mạng thứ 12 (1831) phủ B́nh Ḥa đổi thành phủ Ninh Ḥa, dời phủ
đường từ xă Phước Đa qua xă Vĩnh Phú (về sau đổi là thôn Vĩnh Phú, xă
Ninh Hiệp, huyện Ninh Ḥa, hiện nay thuộc thị trấn Ninh Ḥa). Tuy nhiên
phủ lỵ cũng chỉ đóng ở đây một thời gian rồi sau lại dời về chỗ ban đầu
là xă Phước Đa. Dưới đời vua Duy Tân (1907-1916) chính quyền bỏ huyện
Quảng Phước giao phủ Ninh Ḥa kiêm lư. Năm 1931, đổi phủ Ninh Ḥa làm
huyện Vạn Ninh, cắt 3 tổng của phủ cũ là Phước Khiêm, Phước Hà Ngoại,
Phước Hà Nội (trong đó có xă Phước Đa) nhập vào huyện Tân Định, đổi
huyện Tân Định thành phủ Ninh Ḥa, lỵ sở phủ mới dời về xă Mỹ
Thạnh, tổng Hiệp Trung, trên nền của huyện đường Tân Định
(vốn đă xây dựng tại đây từ năm 1832). Hiện nay di tích lịch sử Phủ
đường Ninh Ḥa nằm trong khu vực trụ sở UBND huyện Ninh Ḥa, thuộc địa
phận tổ dân phố số 3 thị trấn Ninh Ḥa.
C̣n “Phủ cũ” ở xă Phước Đa?
Từ cầu Dinh ở thị trấn đi ra hướng bắc chừng một cây số là tới cống
Phước Đa, gần cống có một con đường rẽ trái mà bà con địa phương vẫn
quen gọi là “đường lên phủ cũ”, đi khoảng hai,
ba trăm mét gặp một khu đất cao, đây chính là dấu tích của phủ lỵ Ninh
Ḥa xưa. Theo hồi ức của những bậc cao niên ở địa phương, trước 1945 nơi
đây vẫn c̣n thấy lưu lại một ngôi nhà lợp ngói âm dương, rêu phong gần
như đổ nát, xây trên một nền cao độ 1m bằng đá vôi. Ngôi nhà ấy nằm giữa
một khu đất h́nh chữ nhật rộng độ 1 mẫu ta, bao quanh bởi hàng rào tre
gai, c̣n sót lại vài cây keo cổ thụ. Theo thời gian di tích trở thành
hoang phế, nay không c̣n ǵ.
NHỮNG ĐỊA DANH GẮN VỚI TỪ “DINH” Ở NINH H̉A
Thị trấn
Ninh Ḥa hiện nay vốn là nơi thủ phủ của dinh Thái Khang xưa, v́ vậy
không có ǵ lạ khi trên mảnh đất này đến nay vẫn c̣n bảo lưu nhiều địa
danh có liên quan đến vị trí của dinh trấn một thời như sông
Dinh, cầu Dinh, chợ Dinh…
- Sông Dinh: tức sông Cái
Ninh Ḥa, con sông chảy ngang qua huyện Ninh Ḥa, là nguồn nước chính
yếu phục vụ cho sản xuất và đời sống của nhân dân huyện Ninh Ḥa. Xưa có
tên là sông Vĩnh An, triều Nguyễn đổi là
sông Vĩnh Phú (sở dĩ có
tên này v́ làng Vĩnh Phú chính là nơi hợp lưu của bốn nguồn nước tạo nên
sông). Sách ĐNNTC chép: “Sông Vĩnh Phú ở cách huyện Tân Định chừng 2
dặm về phía bắc, trước gọi là sông Vĩnh An, có bốn nguồn: một nguồn từ
núi Lam Sơn chảy về phía đông nam 11 dặm đến xă Hương Cam; một nguồn từ
trong Động Hương chảy về phía đông nam 5 dặm cũng đến xă Hương Cam, hai
ḍng hợp lưu với nhau chảy sang phía đông 23 dặm đến thôn Vĩnh Phú; một
nguồn từ núi Đá Bàn chảy về phía nam 33 dặm; một nguồn từ núi Đồng Hương
chảy về phía nam 22 dặm, đều chảy vào thôn Vĩnh Phú rồi hợp với nhau.
Bốn ḍng họp lại làm sông Vĩnh Phú, sau khi hợp nhau, chảy chừng 4 dặm
nữa lại chia làm 2 nhánh: một nhánh chảy về phía đông nam 7 dặm đến sông
Hà Liên rồi đổ vào vũng Nha Phu; một nhánh chảy về phía đông bắc chừng 4
dặm qua xă B́nh An, lại chảy ngoặt về phía nam chừng 5 dặm, cũng đổ vào
vũng Nha Phu” (8). Người dân địa phương bao
đời nay vẫn quen gọi là sông Dinh, có lẽ v́ sông
chảy qua địa phận các làng cổ Vĩnh Phú, Mỹ Thạnh, Phước Đa (nay là thị
trấn Ninh Ḥa) là nơi xưa kia từng đặt lỵ sở của dinh quan trấn, quan
phủ.
- Cầu Dinh: cây cầu huyết
mạch bắc ngang sông Dinh, nối liền con đường cái quan xưa. Theo ĐNNTC,
nguyên thủy là cầu gỗ có tên là Chánh Đô, “ở chỗ giáp giới 2
huyện Quảng Phước và Tân Định, tục danh Cầu Chợ Dinh”(9).
Phía bắc cầu thuộc địa phận thôn Vĩnh An (sau này đổi tên là Vĩnh Phú),
tổng Trung, huyện Quảng Phước, phía nam cầu thuộc địa phận thôn Mỹ Thạnh
(sau này đổi là Mỹ Hiệp), huyện Tân Định - cả hai làng này hiện nay đều
thuộc thị trấn Ninh Ḥa. Cầu Dinh gần chợ Dinh (chợ Ninh Ḥa), nên c̣n
gọi là Cầu Chợ Dinh. Nơi đây hàng ngày người xe
tấp nập qua lại, đi về khắp nơi hoặc vào chợ Dinh mua sắm, giao thương.
Cây cầu này từng bị trận băo lụt năm Th́n (1904) cuốn trôi, chỉ c̣n trơ
lại một số trụ gỗ ngả nghiêng, nên có một thời gian đổi làm bến đ̣. Thời
Pháp thuộc (khoảng những năm 20 của thế kỷ XX), chính quyền thực dân cho
xây dựng lại cầu mới bằng xi-măng cốt thép. Đến đầu những năm 70, để
phục vụ cho cuộc chiến tranh xâm lược, Mỹ đă thay thế cây cầu già nua
làm từ thời Pháp này bằng một cây cầu bê-tông hiện đại hơn, vẫn c̣n được
sử dụng cho đến ngày nay.
- Chợ Dinh: tức
Chợ Dinh B́nh Khang ở thế kỷ XVIII theo cách gọi của Lê Quư
Đôn trong PBTL, chính là Chợ Mỹ Thạnh ở xă Mỹ
Thạnh, huyện Tân Định xưa. Xă Mỹ Thạnh sau đổi tên thành Mỹ Hiệp, nay là
một thôn thuộc thị trấn Ninh Ḥa, c̣n chợ Mỹ Thạnh hay chợ Dinh hiện nay
là khu chợ Cũ Ninh Ḥa. V́ sao có tên chợ
Dinh? Theo ĐNNTC (đời Tự Đức): “Chợ Mỹ Thạnh ở huyện
Tân Định, tục gọi chợ Dinh, v́ hồi đầu bản triều ba dinh Trấn thủ, Cai
bạ và Kư lục đóng ở đây, nên gọi tên thế” (10). Được lập trên
vùng đất lỵ sở của dinh Thái Khang xưa (sau này là dinh B́nh Khang, B́nh
Ḥa), đây là ngôi chợ có quy mô to lớn, hàng hóa phong phú, buôn bán sầm
uất nhất thời bấy giờ. Theo sự ghi nhận của Lê Quư Đôn, “chợ Dinh
B́nh Khang tiền thuế 166 quan 2 tiền” (11), mức thuế cao nhất
so với các chợ khác cùng thời ở địa phương! Về sau, khi dân cư, phố xá
nơi này ngày càng mở mang, đông đúc, người ta xây dựng thêm khu
chợ Mới bên cạnh khu chợ Cũ (dân địa phương vẫn gọi cả hai chợ
là chợ Dinh). Cũng theo ĐNNTC (bản khắc in đời Duy Tân), khu chợ Mới này
“ở xă Mỹ Hiệp huyện Tân Định, xe thuyền tụ
tập, buôn bán phồn thịnh, thành nơi đô hội thứ nhất trong tỉnh hạt”
(12).
THÀNH DIÊN KHÁNH - TỈNH LỴ KHÁNH H̉A THỜI
NGUYỄN
Cửa Đông Thành Diên Khánh
Sách ĐNNTC (đời Tự Đức), khi chép về Thành
tỉnh Khánh Ḥa có đoạn: “Trước kia lị sở của
dinh ở địa phận xă Phước Đa huyện Quảng Phước, sau dời đến chỗ hiện nay,
tức là thành Diên Khánh cũ”(13).
Thành Diên Khánh - tục gọi là Thành Nha Trang
- được xây dựng vào năm 1793, ở trên địa phận xă Phú Mỹ, tổng Trung,
huyện Phước Điền, phủ Diên Khánh (nay là khóm Đông Môn, thị trấn Diên
Khánh). Thành đắp bằng đất, “mở 6 cửa, mỗi cửa đều có lầu (sau
này lấp hết 2 cửa); 4 góc thành đều có núi đất. Ngoài thành có hào,
ngoài hào có xây lũy chắn ngang. Các cửa thành đều có xây cầu đi qua,
trước thành sau thành đều có núi sông bảo vệ, thật là một nơi hiểm trở
vô cùng” (14).
Đến nay chúng ta vẫn chưa biết một cách chính xác các
cơ quan đầu năo ở địa phương đă được chuyển từ B́nh Khang vào Diên Khánh
từ lúc nào. Nhiều ư kiến cho rằng đó là năm 1793, ngay sau khi Chúa
Nguyễn Phúc Ánh xây dựng xong Thành Diên Khánh và giao cho quan đại thần
trấn thủ. Theo chúng tôi, thực ra ban đầu Thành Diên Khánh chỉ có chức
năng như một căn cứ quân sự, là nơi tích trữ
lương, tiền ở Gia Định, B́nh Thuận chở ra để dùng cho quân đội Bắc phạt,
là một cứ điểm quan trọng trong hệ thống pḥng thủ của quân Nguyễn trong
cuộc chiến tranh với nhà Tây Sơn. V́ vậy, vào năm 1793, cùng với việc
triệu tướng Nguyễn Văn Thành về đóng giữ Diên Khánh, Nguyễn vương vẫn
“đặt quan công đường dinh B́nh Khang, lấy quản Hậu thủy dinh là
Nguyễn Thoan làm Lưu thủ, H́nh bộ tham tri Lê Đăng Khoa làm Cai bạ, Hàn
Lâm viện Đặng Hữu Đào làm kư lục” (15). Rơ ràng là vào thời
gian này lỵ sở của dinh vẫn ở B́nh Khang.
Phải đến sau khi Gia Long lên ngôi, rồi đổi dinh B́nh
Khang thành dinh B́nh Ḥa vào năm 1803,
đây mới chính là thời điểm chuyển lỵ sở của dinh từ B́nh Ḥa vào Thành
Diên Khánh. Sự kiện này đă được sử thần Lê Quang Định xác nhận trong
sách HVNTDĐC (khởi soạn năm 1803, hoàn thành năm 1806) như sau:
“Nay thành ấy lập làm lỵ sở của dinh B́nh Ḥa, ở đó có kho lương và nhà
cửa quân dân nhưng hăy c̣n thưa thớt” (16). Từ đó, Thành Diên
Khánh mới có thêm chức năng là một trung tâm chính trị,
trở thành lỵ sở của các cơ quan đầu năo của triều Nguyễn ở địa phương,
là tỉnh lỵ của tỉnh Khánh Ḥa thời Nguyễn (thành
lập năm 1832) cho đến ngày Cách Mạng tháng 8/1945 thành công. Điều này
cũng giải thích v́ sao trong ĐNNTC (bản hoàn thành năm 1882 đời Tự Đức),
dinh cũ B́nh Ḥa đă được sách ghi nhận như một
di tích đă bị bỏ phế từ lâu.
CHÚ THÍCH:
*Bài đă in trong sách "Văn nghệ dân gian
Khánh Ḥa - Tuyển tập 2005-2010", Hội VHNT Khánh Ḥa xuất
bản
(1) Nguyễn Khoa Chiêm, Nam triều công
nghiệp diễn chí, bản dịch của Phan Kế Bính, Đông Dương tạp
chí số 149, tr. 81
(2) Lê Quư Đôn, Phủ biên tạp lục,
NXB Khoa học xă hội, Hà Nội 1977, tr. 145
(3) Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam
nhất thống chí, Tập III, Quyển XI: Tỉnh Khánh Ḥa, NXB Khoa
học xă hội, Hà Nội 1971, tr. 89
(4) Sách đă dẫn ở mục (3), tr. 104
(5) Lê Quang Định, Hoàng Việt nhất thống dư
địa chí, NXB Thuận Hóa, Huế 2005, tr. 48
(6) Nguyễn Đ́nh Đầu, Nghiên cứu địa bạ
triều Nguyễn - Khánh Ḥa, NXB TP Hồ Chí Minh, tr. 192
(7) Sách đă dẫn ở mục (6), tr. 132
(8) Sách đă dẫn ở mục (3), tr. 98
(9) Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam
nhất thống chí, Quyển 10&11: Tỉnh Phú Yên Khánh Ḥa, Nha
Văn Hóa Bộ Quốc gia giáo dục (Sài G̣n cũ), 1964, tr. 108
(10) Sách đă dẫn ở mục (3), tr. 108
(11) Sách đă dẫn ở mục (2), tr. 219
(12) Sách đă dẫn ở mục (9), tr. 113
(13) Sách đă dẫn ở mục (3), tr. 89
(14) Sách đă dẫn ở mục (9), tr. 68
(15) Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam
thực lục, Tập 1, NXB Giáo Dục 2007, tr. 293
(16) Nội Các triều Nguyễn, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ,
NXB Thuận Hóa, Huế 1993
NGUYỄN MAN NHIÊN