|
Áp
Dụng Thuyết Tṛ
Chơi
Vào
Đời Sống
Nguyễn Đ́nh Đại Lộc
C uối thập niên 1940, nhà toán học John von Neumann và
nhà kinh tế học Oscar Morgenstern đă ấn hành thuyết tṛ chơi (Game
Theory). Vào năm 1994, John Nash cùng với John C. Harsanyi và Reinhart
Selten đă đoạt giải Nô-ben cho sự đóng góp vĩ đại của họ trong việc hoàn
mỹ cái thuyết này. John Nash, đặc biệt hơn, với bốn bài viết trong thời
đoạn ngắn ngủi (1950-1953) tóm lược bốn thuyết về điểm cân bằng trong
tṛ chơi với nhiều đấu thủ, thuyết cộng tác, thuyết mặc cả và thuyết
cộng tác giữa 2 người trong cuộc.
T huyết tṛ chơi, thật ra, là sản phẩm cộng tác của
rất nhiều thành viên chạy dài theo tiến tŕnh phát triển của lịch sử
nhân loại. Theo Giáo Sư Paul Walker, giảng dạy tại trường đại học
Canterbury của Tân Tây Lan, thuyết này đă được áp dụng từ thế
kỷ thứ
nhất ở xứ Ba-Bi-Lông trong việc lập luật; thuyết này đă được áp dụng để
chia gia tài cho các góa phụ của những đại phú gia.
T huyết này, tuy không được ứng dụng rộng răi trong
kinh tế hiện đại của những cường quốc văn minh, nhưng vẫn c̣n ảnh hưởng
lớn trong kinh tế học, chính trị học, xă hội học và tâm lư học.
C ách đây vài năm, phim “The Beautiful Mind” ra đời
nói về cuộc đời của John Nash cùng với sự hoàn thiện của thuyết tṛ chơi
được khai triển ở rất nhiều cảnh trong phim.
T huyết này có thể áp dụng trong nhiều trường hợp
trong đời sống hằng ngày ḥng đem lại hiệu quả tối ưu để giải quyết
những mâu thuẫn giữa các cá thể đơn lẻ, giữa cá thể và tập hợp các cá
thể, cũng như giữa tập hợp các cá thể với nhau. Thuyết tṛ chơi coi tất
cả là một cuộc chơi, mà mỗi cá thể hoặc tập hợp cá thể đều muốn giành
lợi thế một cách thông minh. Nó vạch ra các chiến lược, đồng thời chỉ ra
các giới hạn về toán học, cho phép một thành viên nào đó có quyết định
tốt nhất. Thuyết này cung cấp cho chúng ta các công cụ toán học để hiểu
được các chiến lược tối đa hóa lợi ích của các thành viên có thể sử dụng
khi chúng lựa chọn quyết định. Nó gần như mô h́nh hóa tiến tŕnh đưa ra
lựa chọn của con người.
M ột ví dụ điển h́nh để giải thích thuyết tṛ chơi là
t́nh thế lưỡng nan của những tù nhân. A và B là nghi can trong
một vụ áp phe phạm pháp bị điều tra riêng biệt. Khi không có đủ bằng
chứng để ghép tội th́ thuyết tṛ chơi này là phương pháp hữu hiệu. Những
t́nh huống được đưa ra như sau:
-
Nếu như cả hai không nhận tội, A và B mỗi người bị
giam 2 năm,
-
Nếu A nhận tội, trong khi B không nhận; A sẽ nhận
chỉ có 1 năm tù, c̣n B sẽ bị 10 năm,
-
Nếu cả hai đều nhận tội th́ mỗi can phạm sẽ bị 5
năm tù
A sẽ luận rằng:
-
Nếu B nhận tội, A nên nhận tội luôn để lănh 5 năm
thay v́ 10 năm nếu không nhận.
-
Nếu B không nhận tội, A tốt hơn là nhận với án 1
năm thay v́ 2 năm nếu chối tội
V ́ thế, dù B có nhận tội hay không, A tốt hơn là nên
nhận tội để lănh án nhẹ hơn. B cũng lư giăi như vậy, tốt hơn là B nên
nhận tội. Rốt cuộc, cả hai can phạm đều lănh 5 năm tù thay v́ 2 năm.
T uy thuyết tṛ chơi c̣n hạn hẹp ở một vài điều kiện,
căn bản nó là một bài học hay cho trường đời. Chữ tín chính là điểm quan
trọng tột cùng trong các mối quan hệ giao dịch ở bất cứ một mức độ nào.
Ngôn từ, xưa, được các bậc trượng phu dùng để giao kết mối thâm t́nh;
văn bản hợp thảo được sử dụng rất phổ biến đương thời; th́ cái tín chỉ
là cái chi chi, dù rất nhiều cá nhân thấu đạt nhưng rốt cuộc âu cũng chỉ
phụng sự cho cái tôi quá tầm thường.
T ôi có lần ngạc nhiên các đồng sự người Mỹ rằng: "tụi
ḿnh tuy đại diện cho lớp “trí thức” nhưng thiếu đi cái cái khôn thường
có khi không c̣n chánh niệm". Quả nhiên, cả bọn phải tán thán v́ đó là
điều không thể bài bác được. Có ai trong chúng ta, trong các cuộc hội
thảo hay tiệc tùng, dùng âm lượng lớn vừa đủ để bạn ḿnh hiểu được ngôn
luận được đề cập? Đa số “phóng thanh” to hơn nhóm kề bên ḥng ga-răn-ty
đối tượng nghe được. Những người khác trong cùng một pḥng đều mang cùng
định tưởng, và họ sẽ nói to hơn "một tí", và…. họ chỉ hét lẫn nhau thôi.
V ề kinh tế, thuyết này cũng được dùng để giải thích
quan hệ hợp tác làm ăn của nhiều phe phái khác nhau. Các thành viên của
OPEC (hiệp hội các nước xuất khẩu dầu hỏa) thường đi “đêm” để kiếm thêm
chút đỉnh. V́ thế hội này cũng thường hội họp định kỳ để củng cố lại
những hiệp ước đă định, cũng như chỉnh đốn những thành viên của hội. Về
chính trị và ngoại giao, một trong những ví dụ mà nhiều học
giả thích đề
cập đến để giải thích tṛ chơi của một số chính trị gia trong thời gian
gần đây là sự tuyên bố của chính phủ Bush trong việc rút lui hiệp ước
tăng cường hệ thống chống tên lửa tầm xa (Anti Ballistic Missile Shield).
S au đây là thí dụ rất căn bản dùng để giải thích
những quan hệ trong nhiều lănh vực khác nhau trong cuộc sống:
hai thương gia mở hai quầy
dịch vụ giải khát ở một băi biển đông khách du lịch. Trong cách phân xử
tự nhiên, thương gia A sẽ phục vụ khách ở nửa phần của băi biển, c̣n ông
nọ ở nửa đầu kia. V́ tánh tham, mỗi ông đều nghĩ rằng nếu dời cơ sở dịch
vụ một chút về phía kia th́ sẽ thêm được một ít doanh thu. Cả hai đều
nghĩ như nhau, rốt cuộc, hai cơ sở dịch vụ phải nằm kề nhau. Chẳng ai có
thêm một chút doanh thu nào, vả lại chi phí lại tăng thêm. Thực tế, tại
sao những trạm bán xăng nằm gần nhau, những siêu thị thực phẩm cũng đều
như vậy?
T rở lại “The Beautiful Mind”, có ai trong chúng ta
thấy được cách xử sự tuyệt vời của John Nash để thoát ra khỏi cái thế
“tiến thoái lưỡng nan”, vừa giúp chính bản thân ḿnh thoát nạn, vừa ḥa
ḷng với bạn học và nhất là được ḷng phái "đẹp”. Ông đă rất thành công
không những hoàn thiện Thuyết Tṛ Chơi giúp đời mà đă ḥa chính bản thân
ḿnh trong cái thế giới tuyệt diệu của thuyết đó, để chứng tỏ rằng,
trong tất cả mọi hoạt động, để thành công mỹ măn, chữ "Tín" và chữ "Nhẫn"
nên để ở đầu.
T ṛ chơi tạm chấm dứt khi đôi bên thỏa măn ở mức tối
ưu lợi ích cá nhân. Vị trí này được gọi là điểm cân bằng Nash (Nash
Equilibrium). Nếu nh́n kỹ hơn, ở đời này không có cái bắt đầu cũng không
có điểm kết thúc; nếu có, họa chăng chúng chỉ là một. Như vậy, mỗi cá
nhân không nên trói buộc ḿnh vào những định kiến, những ư tưởng đương
thời, cũng không nên hạn chế ḿnh ở những không gian và thời gian hạn
hẹp. V́ như vậy chẳng khác ǵ rước khổ vào thân.
N gười Việt ḿnh thường được dạy từ thuở ban sơ nào là
chữ "Tín", chữ "Nhẫn", ḷng từ bi độ lượng, tâm luôn hướng thiện dù ở
trong bất cứ hoàn cảnh nào. Chính v́ mỗi cá nhân liên tục giữ được những
đức tính nói trên, lợi ích vô biên sẽ được, không cá nhân nào bị thiệt
tḥi, lợi ích tổng thể của toàn cộng đồng và xă hội sẽ được nâng cao đến
mức tối ưu, Nash equilibrium không c̣n là một điểm nữa mà có thể là cả
một chuổi cân bằng.
M ột ví dụ rất căn bản không ai trong chúng ta không
thấy được: đó là sự sân hận trong quan hệ nhân bản cùng với ḷng
tham-sân-si ḥng chiếm lĩnh hoặc chiếm lướt quyền hạn hoặc quyền lợi. A
"xúc phạm" B, dù cố ư hay không, b́nh thường B sẽ t́m cách chống cự hay
trả thù, và sẽ dùng đ̣n mạnh hơn. Tiến tŕnh này sẽ luân hồi măi, có thể
kéo dài một ngày cho đến một năm, hay chỉ một kiếp mà có thể cho đến vạn
kiếp.
M ỗi cá nhân cũng nên ư thức được rằng mọi việc không
tự đến, và không tự biến, nó có thể được giải thích đơn giản bằng quan
hệ toán học: "Nhân"
= "Quả". Nếu đủ điều kiện th́ sản
phẩm sẽ thành đạt. Đầu bếp kinh nghiệm sẽ biết lửa củi, hàm lượng từng
nguyên phẩm, và thời gian của từng áp dụng để tạo ra món ăn tuyệt hảo.
Thiếu một tí cũng không thành như ước, dư một ít cũng không xong. Như
vậy cái "dấu bằng"
kia chính là "Duyên". Hữu duyên hay vô duyên đều cho ra đời một thành
quả hợp với cái "Nhân Duyên" đó. Chúng ta thường nghe: "Ở hiền gặp lành",
hay "Vỏ quít dày có móng tay nhọn".
K ết quả tối ưu mà từng thành viên trong cuộc chơi đạt
được tùy thuộc vào cái đức và cái huệ họ đang có. Nếu không khéo xử sự,
đôi bên đều bị thiệt hại. Nếu một thành viên trong một quần thể bị hại
th́ tổng thể không thể được lợi một cách tối ưu (kinh tế học: Deadweight
Loss). Thuyết tṛ chơi rất hạn hẹp ở chỗ nó chỉ vạch ra tâm lư của người
trong cuộc và cách đối trị để đạt đến một mức cân bằng nào đó thôi; nó
không vạch ra được biện pháp để biến cái điểm cân bằng Nash thành một
chuỗi cân bằng, và càng không thể đề bạt phương cách để triệt tiêu luôn
cái gọi là "đạt đến
sự cân bằng"
(đây là mục đích tối thượng để giải thoát khỏi ṿng khổ ải).
T huyết tṛ chơi cung cấp cho nhân loại công cụ tuy
hữu hiệu nhưng cũng c̣n hạn hẹp để t́m thấy sự phán đoán và tiến tŕnh
phán xét cho sự lựa chọn tối ưu của từng cá nhân trong trường đời. Chúng
ta có thể áp dụng thuyết này như là một phương tiện để có được sự an
thân và một ít an tâm trong cuộc sống thường nhật. Huệ quả tất nâng cao
ắt đưa từng cá nhân đến những thuyết hiệu quả hơn thiên về hạnh phúc
vượt không gian và thời gian.
Tham khảo:
-
Price Theory and Application, Steven E. Landsburg,
-
Actuarial Reviews, Casualty Actuary Society,
-
History of Game Theory, Paul Walker, Canterbury
University, New Zealand.
|