Trang Thơ & Truyện: LIÊN KHÔI CHƯƠNG            |                 www.ninh-hoa.com


LIÊN KHÔI CHƯƠNG


Cựu học sinh
các trường Trung học:
 

* Bán Công:
Đệ Thất-Tứ, NK. 1961-1965

* Trần Bình Trọng:

Đệ Tam-Nhị, NK. 1965-1967

* VT/NT: Đệ Nhất (67-68)
* TTPT/SG : HH/PT(68-70)

 



Hiện sinh sống tại tiểu bang Texas, Hoa Kỳ


 

 

 

 

 

 

Rồng VIỆT NAM

LẠC LONG QUÂN

LIÊN KHÔI CHƯƠNG

 

  

 

Nói đến lịch-sử Việt-Nam thì mọi người đều biết chuyện Lạc-long-Quân cùng bà Âu-Cơ sinh ra 100 người con, trong lúc làm vua ông nói với bà Âu-Cơ rằng "Ta là giống rồng, nàng là giống tiên, thủy hỏa khắc nhau, chung hợp thật khó", rồi từ biệt nhau, Âu-Cơ dẩn 50 con lên núi, Lạc-long-Quân dẩn 50 con về vùng duyên hải, bởi thế có chuyện người Việt là con cháu Tiên-Rồng, câu nói rất đơn-giản nhưng ngầm chứa một triết-lý cao siêu, nói lên một chế độ quân-chủ tự-do (Người làm vua gọi là Quân, chứ không gọi là Đế hay là Vương), trong một xã-hội mẩu-hệ(Tiên-Rồng chứ không gọi là Rồng-Tiên), chính quan niệm này làm ổn-định 18 đời vua Hùng-Vương, đều do bởi một "Minh-Quân con rồng Lạc-Việt". Để hiểu thêm về sự-tích này mời các bạn cùng nghiên-cứu 5 quyển sử sau đây:

 

1-An-Nam chí lược.

Tác-giả Lê-Tắc, viết năm 1335.

Dịch giả: Ủy ban phiên dịch lịch sử Việt-Nam năm 1960.

Xuất bản do Viện đại học Huế năm 1961.

Sách viết nước An-Nam có giao thông với Trung-Hoa, thời vua Chuyên-Húc, phía bắc đi tới U-Lăng phía nam đi tới Giao-Chỉ, thời vua Nghiêu sai Hy-Hòa qua đất Nam-Giao, thời vua Thuấn sai Vũ qua Nam-yên-Vổ Giao-Chỉ, qua thời Chu-thành-Vương (1115tcn-1079tcn) họ Việt-Thường có sứ giả 9 lần qua triều-cống Tây-Chu, nước VT từ đất Cửa-Châu ở phía nam Giao-Chỉ. Năm tân-mẹo  (1109 tcn) sứ-giả Việt-Thườngđến Tây-Chu diện kiến Chu-Công và nói: "Trời không gió bão mưa to, ngoài biển không nổi sóng dữ đã 3 năm, chắc Trung-Hoa có thánh nhân trị vị, sao chẳng đến chầu".  Chu-Công đáp:"Vui thay, chẳng phải Đán(1) có tài, mà nhờ đức của Văn-Vương đó".

Từ đây ta thấy Giao-Chỉ là vùng đất riêng biệt ngòai lãnh thổ Trung-Hoa. Điều này nói lên từ thời vua Chuyên-Húc đến thời Chu-Thành-Vương Tây Chu địa thế Việt-Thường nằm ngoài vùng quản trị của Trung-Hoa. Trong năm 1109tcn sứ-giả Việt-Thường được diện kiến Chu-Công, phải là vua Việt-Thường hay con của vua, chắc ta phải nhận đó là con vua Kinh-dương-Vương, Sùng-Lãm, sau này là Lạc-long-Quân.

2-Việt-Nam sử lược. Viết năm 1377-1388, tác giả khuyết danh.

Dịch giả: Nguyễn-gia-Tường viết năm 1972, và xuất bản vào 1993.

Sách viết Hoàng-Đế (ông vua đầu tiên của TH) dựng lên muôn nước, thấy Giao-Chỉ xa xôi ở ngoài cỏi Bách-Việt (vùng Hồ-Nam, Quảng-Đông, Quảng-Tây, Vân-Nam, Quế-Châu) không thể thông thuộc được, bèn phân ranh giới ở gốc Tây-nam. Gồm có 15 bộ-lạc (2) không thuộc châu quản-trị của Hoàng-Đế. (3)

-Vào thời Tây-Chu đời Chu-thành-Vương có sứ từ Việt-Thường đến dâng chim trĩ.

-Vào thời Đông-Chu đời Chu-trang-Vương (696tcn-682tcn) ở châu Gia-Ninh có người lạ dùng tà thuật quy phục các bộ-lạc tự xưng là Hùng-Vương, đóng đô ở Văn-Lang (sách sử khác đều ghi là Phong-Châu).

Quốc hiệu là Văn-Lang. (Điểm này ta thấy sử sai rõ ràng).

3-Đại-Việt sử ký toàn thư, viết năm 1679 (năm Chính-Hòa thứ 18).

Tác-giả Lê-văn-Hưu, Phan-phu-Tiên, Ngô-sĩ-Liên.

Dịch-giả:Viện khoa-học xã-hội VN (1985-1992).

Nhà xuất-bản: Khoa-học XH Hà-Nội (1993).

Sách viết Đế-Minh cho con trưởng Đế-Nghi làm vua phương Bắc, phong Lộc-Tục làm vua phương Nam, xưng là Kinh-dương-Vương, là thủy-tổ Bách-Việt, có con là Sùng-Lãm kết hôn với bà Âu-Cơ, con của Đế-Lai, là cháu nội của Đế-Nghi, nói rõ ra Âu-Cơ là cháu chú bác của Sùng-Lãm, vì ở Việt-Thường theo mẩu hệ, Bắc phương theo phụ hệ nên Âu-Cơ họ Đế, 2 người kể như là người khác họ.

Họ Hồng-Bàng kể từ năm nhâm-tuất đến năm quý mảo (2879tcn-258tcn), sách cũng ghi Chu-thành-Vương tại vị khoảng năm  (1063tcn -1026tcn).

4-Quyển khâm-định Việt-sử thông-giám cương-mục.

Soạn giả quốc sử giám triều Nguyễn (1856-1881).

Dịch giả Viện sử học (1957-1960).

Điểm đặc biệt trong quyển sử này ghi là "Lạc-long-Quân là tổ tiên của Bách-Việt, chức vua được cha truyền con nồi theo phụ hệ (con sinh ra lấy họ cha)"

5-"Việt-Nam sử lược" và "Việt sử toàn thư" đều là quyền sử-ký do ông Trần-trọng-Kim viết năm 1919 bằng chữ Việt như ta viết ngày nay, các ngày tháng bằng âm lịch đều phụ thêm tây lịch. Tuy là quyển sử viết sau nhưng có tầm ảnh hưởng lớn trong quần chúng, vì được phổ thông truyền dạy trong ngành giáo-dục học đường.

Đọc qua ta thấy đươc Trần-trong-Kim chỉ dựa vào 2 quyển Việt-Nam sử-lược (1377-1388) và quyển Đại-Việt sử-ký toàn thư (1679), đồng thời ông xác nhận Việt-Nam sử-lược là quyển sử đầu tiên của Việt-Nam, cũng chính ông xác nhận Kinh-dương-Vương là vua đầu tiên của họ Hồng-Bàng.

Ông viết Đế-Minh cháu 3 đời vua Thần-Nông nam du đến núi Ngũ-linh gặp Vụ-Tiên sinh Lộc-Tục, Đế-Minh truyền ngôi cho con trưởng Đế-Nghi làm vua phương Bắc, và Lộc-Tục làm vua phương Nam, xưng là King-dương-Vương lấy quốc hiệu là Xích-Qũy, họ Hồng-Bàng bắt đầu từ đây (2879tcn-258tcn). Lộc-Tục lấy con gái Động-đình-Quân là Long-Nữ sinh ra Sùng-Lãm (4), Sùng-Lãm lên ngôi vua gọi là Lạc-long-Quân, quốc-hiệu là Văn-Lang, đóng đô ở Phong-Châu. Đông giáp biển Nam-hải, tây giáp Ba-thục, bắc giáp hồ Động-đình, nam giáp Hồ-tồn (Chiêm-Thành).

 

I- Họ Hồng-Bàng.

 

 Nói đến họ Hồng-Bàng thì tất cả người Việt đều nói đó là họ của 18 vị vua Hùng-Vương, vậy ai là tổ vua Hùng-Vương, theo "Đại-Việt sử-ký toàn thư"

nói là Kinh-dương-Vương Lộc-Tục, theo quyển "Khâm-định Việt-sử thông-giám cương-mục"nói là Lạc-long-Quân Sùng-Lãm, để rõ họ Hồng-Bàng bắt đầu từ người nào, thì chúng ta cần 2 chữ "Hồng-Bàng" ai nói ra trước.

Trong thời Kinh-dương-Vương chỉ nói khi lên ngôi ông đặt quốc-hiệu là Xích-Qũy, còn trong thời Lạc-long-Quân khi lên ngôi ông đặt quốc hiệu là Văn-Lang, ra luật triều chánh, con trưởng nam lên làm vua họ Hồng-Bàng, cho nên ta thấy họ Hòng-Bằng là cái họ Lạc-long-Quân đặc ân cho vua Hùng-Vương sau này, nếu chúng ta hiểu trong ý nghĩa này thì chúng ta sẽ rõ:"Nước Việt chỉ có 18 người mang họ Hồng-Bàng, đó là 18 vị Hùng-Vương", từ điểm này chúng ta mới tìm được họ Hồng-Bàng bắt đầu từ năm nào, muốn vậy chúng ta phải xác định năm nào khởi đầu vua Hùng-Vương thứ nhứt. Muốn biết chúng ta cần hiểu rõ:

A-Nhìn vào những dữ kiện lịch sử chúng ta đều thấy sử Việt có liên quan đến các triều đại bên  Trung-Hoa nên chúng ta cũng cần biết sơ qua về các triều đạibên Tàu. Nước Trung-Hoa bắt đầu vào:

 Từ Ngũ Đế (Hoàng Đế, Chuyên-Húc, Đế Khốc, Nghiêu, Thuấn, theo sử ký Tư-mã-Thiên): 

*Hoàng-Đế (2698tcn-2574tcn) 124 năm.

*Trong thời (2574tcn-2333tcn) khỏang 241 năm không nói rõ, nhưng sách sử ghi:Trước Hoàng Đế có vua Phục-Hy dạy dân dùng lưới bắt cá, dùng bẩy bắt thú rừng, đến đời Thần-Nông thì dạy dân biết trồng trọt cày cấy, biết dùng lá rễ cây trị bịnh, sau Thần-Nông thì đến thời Hoàng Đế. (như thế ta thấy:Sử ký Tư-mã-Thiên ghi rõ Chuyên-Húc và Đế-Khốc ở trong thời 241 kế tiếp Hoàng-Đế).

*Vua Nghiêu (2333tcn-2233tcn) 100 năm, quốc hiệu là Đường.

*Vua Thuấn (2233tcn-2183tcn) 50 năm quốc hiệu là Ngu.

 Thời Tam-Đại (Hạ từ 2205tcn-1767tcn, Thương từ 1766tcn-1123tcn, Chu từ 1122tcn-247tcn, theo sử ký Tư-mã-Thiên dịch bởi Giản-Chi và Nguyễn-hiến-Lê):

*Nhà Hạ bắt đầu từ vua Vũ (2183tcn-1751tcn) 432 năm.

*Nhà Thương (1751tcn-1111tcn) 640 năm.

*Nhà Chu (1111tcn-221tcn) 890 năm. Gồm

 a-Tây-Chu (1111tcn-770tcn) 341 năm.

 b-Đông-Chu (770tcn-221tcn) 549 năm, có 2 giai đoạn:

 1-Thời Xuân-thu (770tcn-403tcn) 367 năm

 2-Thời Chiến-quốc (403tcn-221tcn) 182 năm.

*Nhà Tần (221tcn-206tcn) 15 năm. Từ thời nhà Tần trong lịch sử Trung-Hoa xem như bắt đầu thời kỳ thống nhất của Trung-Hoa.

 B-Nhìn về Việt-sử chúng ta nhận thấy những điểm giống nhau như :

 a-"Cháu 3 đời vua Thần-Nông". Đây không xác định rỏ về thời-gian, nhưng

 người chép lại sứ cứ cố tình chứng-minh cho hợp với cái năm "nhâm-tuất"

trong sách sử đã ghi, nên chọn "năm nhâm-tuất 2879tcn gần thời vua Thần-

Nông nhất có trước thời Hoàng-Đế 181 năm, như vậy ta thấy người viết sử

chưa đọc đoạn trong Việt-Nam sử-lược nói:"Giao-chỉ xứ ngoài Bách-Việt,

15 bộ-lạc không nằm trong hạt quản-trị của Hòang-Đế" và trong Đại-Việt

sử-ký toàn-thư nói:"Mổi lần sứ Việt-Thường trở về đều có người dùng la-bàn để đưa sứ-giả về nước", cái la-bàn là phát minh đầu tiên trong thời Hoàng-Đế. Vậy trước Hoàng-Đế đất Việt-Thường chưa có, mà chỉ có sau thời Hoàng-Đế, cho nên nói nămnhâm-tuất 2879tcn là năm bắt đầu họ Hồng-Bàng thì không hợp lệ.

b-"Việt-Thường có sứ giã đến viếng Chu-thành-Vương".

 Chu-thành-Vương là con Chu-võ-Vương, người đã diệt nhà Thương và thần phục các Chư-hầu lập lên Tây-Chu (1111tcn-770tcn). Trong các quyển sử đều viết Chu-thành-Vương (1115tcn-1079tcn), trước thời Tây-Chu 5 năm ? Điều này cho chúng ta nghiệm lại Tây Chu từ năm 1111tcn hoặc từ năm 1122tcn, để hợp với sử Việt chúng ta phải chọn năm 1122tcn theo quyển "Sử ký Tư-mã-Thiên" dịch bởi Giản-Chi và Nguyễn-hiến-Lê, Tây Chu bắt đầu từ năm 1122tcn. (5)

Chỉ riêng Đại-Việt sử-ký toàn thư ghi Chu-thành-Vương (1063tcn-1026tcn),

điểm này không hợp với thời gian bắt đầu Tây-Chu, nên ta chỉ nhận Chu-

thành-Vương trong khoảng năm (1115tcn-1079tcn).

c-"Họ Hồng-Bàng (từ năm nhâm-tuất đến năm qúy-mẹo). (2879tcn-258tcn).

Trong quyển Việt-Nam sử-lược ghi Việt-Thường có sứ đến dâng chim trĩ trong thờiTây-Chu Chu-thành-Vương (1115tcn-1079tcn), đồng thời cũng ghi vào thời Đông-Chu Chu-trang-Vương (696tcn-682tcn), có người dùng tà thuật quy phục các bộ-lạc, tự xưng là Hùng-Vương, điều này cho chúng ta thấy quyển Việt-Nam sử-lược nói về vua Hùng-Vương không đúng, vì trong khoảng năm (696tcn-682tcn) không có năm nhâm-tuất, vì năm nhâm-tuất 719tcn trước 696tcn 23 năm, và nhâm-tuất kế đến là năm 659tcn sau năm 682tcn là 23 năm. Xét về thời Chu-thành-Vương ta thấy năm 1079tcn là năm nhâm-tuất.

 Từ sự giải thích trên chúng ta có thể nói :"Vua Hùng-Vương thứ nhứt bắt đầu từ nămnhâm-tuất 1079tcn đến cuối đời vua Hùng-Vương thứ 18 là năm qúy-mẹo 258tcn. Họ Hồng-Bàng mà chúng ta được biết đến khi Lạc-long-Quân lên ngôi vua, ông ra luật "Người làm vua phải là con trai trưởng, gọi là Hùng-Vương họ Hồng-Bàng", chúng ta có phải hiểu chỉ có vua Hùng-Vương mới mang họ Hồng-Bàng, vậy họ Hồng-Bàng chỉ riêng cho 18 vi vua Hùng-Vương mà thôi. Chúng ta viết họ Hồng-Bàng (1079tcn-258tcn) trị vị tất cả 821 năm trung bình mổi vua được 45 năm.

 Để chứng minh việc này ta có thể làm bài tính như sau:

*Năm nhâm-tuất gần ta nhất là năm 1982,

-nếu ta lùi lại 51x60=3060 năm, ta có năm 1079tcn,

-nếu ta lùi lại 81x60=4860 năm, ta sẽ có năm 2879tcn.

*Năm qúy mẹo gần ta nhất là năm 1963,

-nếu ta lùi lại 37x60=2220 năm, ta có năm 258tcn.

Theo trong quyển An-Nam chí-lược, năm tân-mẹo 1109tcn, Sùng-Lãm đi sứ qua Tây-Chu có gặp Chu-Công, nên Sùng-Lãm nhận rõ nhiều chuyện về Tây-Chu, như việc trị quốc ở Tây-Chu, việc Chu-văn-Vương có 100 người con, vào năm 1109tcn là năm thứ 6 của nhà Tây-Chu, Sùng-Lãm cần gần 1 năm mới về đến Việt-Thường, đó là năm 1108tcn, từ năm 1108tcn Sùng-Lãm có mặt tại Việt-Thường và sau đó lên ngôi vua thay Kinh-dương-Vương, gọi là Lạc-long-Quân, vậy Lạc-long-Quân lên ngôi từ năm nào?Chúng ta không biết được, chúng ta chỉ biết năm 1079tcn là năm đầu tiên của vua Hùng- Vương thứ nhứt, từ năm 1109tcn-1079tcn là 30 năm, nói rỏ hơn Lạc-long-Quân làm vua không qúa 30 năm và năm 1079tcn là năm Lạc-long-Quân băng hà.

 Hằng năm ngày 10 tháng 3 âm lịch là ngày giổ Tổ Hùng-Vương, vậy Tổ Hùng-Vương là ai?Nhiều người nói là Vua Hùng-Vương thứ nhứt, nhưng trong quyển "Đại-Việt sử-ký toàn thư"có ghi, "Kinh-dương-Vương là thủytổ cuả Bách-Việt"còn trong quyển"Khâm-định sử-Việt thông-giám cương-mục "lại ghi "Lạc-long-Quân là tổ tiên Bách-Việt"(Bách-Việt là vùng Hồ-nam, Quảng-đông, Quảng-tây, Vân-nam), như trên vừa nói 15 châu thời Lạc-long-Quân ngoài vùng Bách-Viêt, vậy Bách-Việt có thể đúng vào thời Kinh-dương-Vương mà không đúng vào thời Lạc-long-Quân. Tại sao?Vì vùng Bách-Việt đã chia cho bà Âu-Cơ cùng 50 người con theo bà lên núi, và trở thành vùng của họ Đế. Cho nên việc ai là tổ-tiên Bách-Việt ta không cần biết đến, chúng ta chỉ cần biết điều chắc chắn là khi Lạc-long-Quân nhiếp chánh ông đặt ra luật triều chánh:"Con trưởng nam sẽ lên làm vua, được gọi là Hùng-Vương họ Hồng-Bàng, con trai gọi là "Quan-hùng" con gái gọi là "Mỵ-nương", các quan văn-võ gọi chung là "Bố-chính" tướng văn gọi là "Lạc-hầu", tướng võ gọi là "Lạc-tướng", phân đất thành 15 châu hạt để quản-trị, quốc-hiệu gọi Văn-Lang, đóng đô ở Phong-Châu. Từ luật hành chánh trên đây cho chúng ta thấy dân tộc ta là dòng dỏi Lạc-Việt. Ba chữ Lạc-long-Quân hàm chứa một ý nghĩa cao xa đó là "Minh-quân Rồng Lạc-Việt". Điều này cho chúng ta nói lên Lạc-long-Quân chính tực là rồng Việt-Nam, là Tổ-tiên của 18 vị vua Hùng-Vương mà ngày nay chúng ta chỉ gọi

"TỔ HÙNG-VƯƠNG".

 

II-Tư-tưởng Việt-Nam.

Theo tập-tục chúng ta thường biết tư-tưởng Trung-Hoa về quan-niệm "Trung-Hiếu": "Tu-thân, tề-gia, trị-quốc, bình thiên-hạ" là nền tảng triết học để xây dựng quốc-gia, ổn định xã hội. Nhưng trên thực tế xã hội Trung-Hoa chinh chiến triền miên, dân tình khổ sở và càng thảm khóc khi có thiên tai, cái xã hội đó mới thay ngôi đổi chủ, rồi cứ tiếp tục như thế từ triều đại này đến triều đại khác, cũng bởi cái đạo đức "Trung Hiếu" sinh ra trong thời đất nước nhiều ly loạn bởi chiến tranh, thời Xuân thu (770tcn-403tcn) và Chiến quốc (403tcn-221tcn) trong thời Đông Chu (770tcn-221tcn), tư tưởng đó chỉ vá víu tạm thời cái loạn bất an của quần chúng, vì chính tư tưởng đó tạo thành sự chuyên chế độc tài từ gia đình rồi thành hệ thống cho một quốc gia, vua chúa sinh nhiều quyền thế rồi hà khắc đến người dân, khác với quan niệm "Trung Hiếu" của thời vua Nghiêu vua Thuấn và Chu-văn-Vương (Cơ-Xương), vua hiếu với dân như cha mẹ. dân trọng vua như bậc thánh hiền.

 Trong cái xã hội chưa có văn hóa của buổi ban đầu lập quốc, ít người Việt nghĩ đến dân tộc ta cũng có một quan-điểm về tư-tưởng vượt qúa thời gian, đó là tư-tưởng nói về chữ "BÌNH", đúng ra ta phải nói là "Tam-bình". Trong xã hội ngày nay, nếu chúng ta đem phân tích "Tam Bình", chúng ta sẽ thấy : Đó là sự "Bình Đẳng" giữa tất cả mọi người, là nguồn căn của sự "Tư-Do và Dân-Chủ", từ đó thiên hạ mới có Thái-Bình, đó là quan điểm của thời Ngũ-Đế bên Trung-Hoa.

 Vào thời đó dân Việt ta chưa có văn-hóa, mọi việc được ghi lại bằng lối thắc-gút hoặc bằng hành động để mọi người đưọc rõ, chuyện bà Âu-Cơ dẩn 50 con lên núi, Lạc-long-Quân dẩn 50 con về vùng biển, cho dân thấy con vua cũng phải về sống cùng đời sống như dân, không phân biệt quan-dân sang-hèn, 50 lên núi 50 xuống biển nói lên được chữ :Bình", trước khi phân chia như vậy Lạc-long-Quân nói với bà Âu-Cơ "Ta là giống rồng, nàng là giống tiên, thủy hỏa bất hòa, chung hộ thật khó", nên 2 người chia cách, mổi người dẩn 50 người con, để việc nước được yên ổn, điều này nói lên được chữ "Hòa" (6), những chuyện này đều thể hiện trước  công chúng, là chuyện có thật, vậy chuyện Lạc-long-Quân và  bà Âu-Cơ có 100 người con (Chu-văn-Vương cũng có 100 người con) là có thật, không phải là chuyện hoang đường, chuyện 100 người con này cũng nói lên nước Văn-Lang cũng giống như Tây-Chu trị dân có khuôn phép vẩn trọng chữ Tín và Hiếu, "Tín" là tin tưởng lẩn nhau không gian-dối, "Hiếu" là chăm sóc lẩn nhau không phụ-bạc, nhưng tại Văn-Lang có thêm chữ "Bình", đó là quan điểm về "Tư-tưởng Việt-Nam". Chữ "Bình" nói rõ lên một tập thể bắt đầu bằng số 2, con số tuy là nhỏ nhưng là căn bàn của của sự công bằng, là nguyên tố của sự hòa hợp, là sức mạnh của sự bình yên trong sứ mạng để "Thiên hạ thái bình", khác ngược lại tư tưởng Trung-Hoa là "Bình thiên hạ" thì phải "Tu thân, tề gia, trị quốc", bắt nguồn từ "Cá nhân", do đó sinh ra "Đôc tài, chuyên chế". Quan niệm "Tam-Bình" của Lạc-long-Quân Sùng-Lãm mới thực là tư tưởng thời Ngũ Đế (Hoàng Đế, Chuyên-Húc, Đế Khốc, Nghiêu, Thuấn), nói rõ ra đây mới thực là đạo của "Đế Vương", nhưng trong sử để lại chỉ là hình ảnh của 100 người con nói lên Sùng-Lãm cũng có tài đức như Chu-văn-Vương và tài đức đó được thể hiện rõ rệt qua hình ảnh Chu-Công, sau 3 năm đông chinh dẹp yên nhóm phản loạn do Quản thúc, Thái thúc hợp cùng Vũ-Canh (Tống vương, con vua Trụ, Quản và Thái là em của Chu-võ-Vương, vì tranh dành quyền nhiếp chánh triều đình nên mới làm loạn), dẹp yên loạn Vũ-Canh, Chu-Công phân định quyền thế Tây Chu trở lại để thích ưng hoàng cảnh đương thời :Thứ nhất thực hiện chế độ phong kiến, đem đất phía đông phân chia cho công thần, thân thuộc giòng họ Cơ. Thứ hai kiến lập đông đô, Lạc-Ấp, ngày nay thuộc huyện Lạc-Dương tỉnh Hà-Nam, vẩn dùng vũ lực để áp chế vùng cai trị. Chu-Công chấp chánh được 7 năm, ổn định hoàn toàn Tây-Chu thì trao quyền lại cho Chu-thành-Vương (1115tcn-1079tcn), chúng ta thấy năm 1109tcn là năm thứ 6 của Công-Công vẩn còn phù trợ Chu-Thành-Vương chấp chánh triều đình, những việc làm của Chu-Công, sứ Việt-Thường Sùng-Lãm đều nhận rõ, và khi trở về nước làm vua, mới có chuyện 100 người con và 50 con theo mẹ về núi vùng Bách-Việt của giòng họ Đế, 50 con theo cha về miền ven biển vùng châu thổ Bắc-Việt bây giờ, 50 con theo Lạc-long-Quân sống chung cùng 15 bộ lạc là noi theo Chu-Công đưa thân tộc đến gần các vùng quản trị trong quan niềm "Tam Bình" để "An bang tế thế" không dừng vũ lực trị dân, tuy chỉ có 821 năm triều đại "Hùng Vương" nhưng được lòng dân, đây là đạo tri quốc của thời Ngũ Đế với luật "Không thành văn", khác với thời vua chúa sau này "Dĩ văn tải đạo", "Dĩ văn truyền ngôn", xã hội càng sinh ra nhiều chuyện rắc rối, vì lời nói không thể nào diển tả hết ý của tư tưởng, nhưng tư tưởng đã viết thành văn, nên nhiều người chỉ dùng một vài câu trong văn rồi nói đó là tư tưởng của người viết rồi truyền đạt trong dân gian, từ đó sinh ra những thế lực "chuyên chính độc tài", như quan điểm:trung hiếu, tu thận tề gia, trị quốc, bình thiên hạ, là nhưng tư tưởng xây dựng cá nhân. Khác với quan điểm "Tam Bình" dược xây dựng trên bình đẳng trong cộng đồng. Nói đến cộng đồng thì trong cuối thế kỷ 19, tư tưởng Kark-Mac ra đời, chúng ta thấy Kark-Mac chỉ vì muốn xóa bỏ đi chính quyền đề người dân có tự do thật sự, nên dùng từ "Chuyên chính vô sản", từ này diển giải theo Lenin là "Người nghèo lên nắm chính quyền" nên mới sinh ra "Đảng cộng sản", nhưng trong từ "Chuyên chính vô sản" chúng ta cũng có thể giải thích là "Những người tham gia chính quyền phải ngheo", nói lên mtộ người tham chính lúc đi vào chính quyền và khi rời khỏi chính quyền tài sản cá nhân không có sự thay đổi nhiều. Những sự kiện này có được cũng bởi những "Tư tưởng thành văn" là mối hại cho xã hội, nên Trang Tử (369tcn-?) đã nói hãy tìm những kẻ quên lời để cùng nhau đàm luận "Cái chân chính tư tưởng của triết gia", tư tưởng của Ông chỉ được viết lại bởi học trò của Ông, bởi thế chúng ta thấy sau thời Chu-Công, ổn định được "Chế độ phong kiến", xã hội chia 3 giai cấp:Thượng tầng gồm qúy tộc thân thích nhà vua, chư hầu, khanh tước và sĩ. Trung tầng gồm thứ dân, nông dân, công nhân và thương nhân. Hạ tầng gồm những tù binh, kẻ phạm pháp, nô lệ, thành phần này không có tự do ngay cả tánh mạng cũng không bảo đảm. Nhưng trong xã hội này thứ tự được phân chia rành mạch, đó là sự rõ ràng nói lên được chữ "Thanh" như chức quyền của Chu-Công có thể soán ngôi vua nhưng Ông không hề làm mà chỉ hoàn tất trách nhiệm của người phù trợ ấu chúa, trong sử Trung-Hoa không người nào làm được, cũng như việc làm của Ngũ Đế cũng không ai sánh bằng. Riêng Văn-Lang thời bấy giờ chỉ có Sùng-Lãm Lạc-long-Quân mới đạt đến mục đích của hàng Đế trong thiên hạ. Nên tôi nói Sùng-Lãm là "Rồng Việt-Nam LẠC-LONG-QUÂN".

 

Được-Lời (LKC)

Ngày 12-7-2014

 

 

 HÙNG-VƯƠNG DỰNG NƯỚC

 ( Tư-tưởng Tam-Bình )

 

 Hồng-Bàng vốn họ vua Hùng-Vương.

 Người đứng đầu của nước Văn-Lang.

 Mười tám đời yên như bàn thạch.

 Sống an-nhàn một cỏi phương Nam.

 Lấy đạo nhơn-hòa xây dựng nước.

 Không màng tranh chấp với lân-bang.

 Trên dưới vua tôi vốn một lòng.

 Thương nhau tựa như cùng cha mẹ.

 

 Thanh-Bình trong cảnh đời dân dã.

 Hòa-Bình trong cuộc sống chung nhau.

 Thái-Bình dân sống đời an-lạc.

 Tam-Bình chung lại sống thái-hòa.

 Vua tự xem dân như cha mẹ.

 Dân trọng vua như bậc thánh-hiền.

 Chung lòng xây dựng nước Văn-Lang.

 Phù trợ dương danh giống Lạc-Hồng.

 

Ghi-chú:

 (1) Đán là tên của Chu-Công, con Chu-văn-Vương, Chu-Công là em của Chu-võ-Vương (người diệt nhà Thương, là vua đầu tiên của Tây-Chu) là cha của Chu-thành-Vương. Chu-văn-Vương (Cơ-Xương) bị  vua  Trụ giam lỏng tại nước Thương làm con tin, sau khi được Cơ-Phát (Chu-võ-Vương) cứu về, rồi Cơ-Phát khởi binh đánh và diệt nhà Thương, lập lên Tây Chu, làm vua chỉ vài năm thì mất, truyền ngôi cho con là Chu-thành-Vương, vì còn nhỏ nên Chu-Công là người phụ giúp triều chánh cho Chu-thành-Vương trong 7 năm đầu, sau đó trao quyền chấp chánh lại cho Chu-thành-Vương.

 (2) 15 bộ-lạc tức là 15 châu hạt là phần đất Giao-chỉ được thành lập trong thời Lạc-long-Quân. (Trong Viẹt-Nam sử lược viết:Giao-chỉ xa xôi ở ngòai cỏi Bách-Việt) không thuộc phần đất Bách-Việt.

Gồm có:

1-Văn-lang (Bạch-hạt, tỉnh Hưng-yên).

 2-Giao-chỉ (Hà-nội, Hưng-yên, Nam-định, Ninh-bình).

 3-Vũ-ninh (Bắc-ninh). 4-Phúc-lộc (Sơn-tây).

 5-Việt-thường (Quảng-bình, Qiảng-trị).

 6-Chu-diên (Sơn-tây). 7-Ninh-hải (Quảng-yên).

 8-Dương-tuyền (Hải-dương). 9-Lục-hải (Lạng-sơn).

 10-Vũ-định (Thái-nguyên, Cao-bằng).

 11-Cữu-châu (Thanh-hóa). 12-Cữu-đức (Hà-tỉnh).

 13-Tân-hưng (Hưng-hóa, Tuyên-quang).

 14-Hoài-hoan (Nghệ-an). 15-Bình-văn (???).

Ta thấy đây là phần đất thực sự của tộc Lạc-Việt thuộc quyền cai trị của 18 vị vua Hùng-Vương trong suốt 821 năm.

 (3) Chuyện phân ranh có ghi trong quyển"Vũ-cống", là quyển sách địa-lý

của vua Vũ thời nhà Hạ, ta thường gọi Hạ-Vũ, sách này được ghi lại do

chính tay Nguyễn-Trãi viết với cái tên "An-Nam Vũ-cống".

 (4) Theo Đại-Việt sử-ký toàn thư, bắt đầu từ Kinh-dương-Vương Lộc-Tục,

quốc hiệu là Xich-Qũy, đời thứ nhì là Lạc-long-Quân Sùng-Lãm, quốc hiệu

là Văn-Lang, chỉ 2 đời vua với 2 họ khác nhau và 2 quốc-hiệu khác nhau,

vì thời này dân-tộc VN theo mẫu-hệ, tên nước thường đổi, đó là điều cấm

kị nhất trong một quốc-gia ổn định, nên đến thời Lạc-long-Quân với luật

"Họ Hồng-bàng" nước Văn-Lang vẩn tiếp tục đến cuối đời Hùng-Vương

thứ 18 và cùng thủ-đô là Phong-châu.

 (5) Theo sử Trung-Hoa ghi :"Tây-Chu bắt đầu từ 1111tcn-770tcn), theo sử Việt viết :"Chu-thành-Vương lên ngôi vua năm 1115tcn, trước hơn 5 năm triều đại Tây-Chu , nhưng theo quyển "Sử ký Tư-Mã-Thiên" dịch bởi Ông Nguyễn-hiến-Lê và Giãn-Chi thì Tây-Chu bắt đầu 1122tcn, theo năm lịch này thì rất hợp thời là Chu-thành-Vương lên ngôi năm 1115tcn. Trước vua cha Chu-võ-Vương là Chu-văn-Vương lúc nào cũngtrung với vua Trụ nhà Thương, không bao giờ có lòng phản Thương, nhưng vì cách trị dân của Ông có phép-tắc, nên Chu-võ-Vương tiếp tục theo lệ tựa như thời vua Nghiêu vua Thuấn, rất được lòng dân, Tây Chu ổn định. Sau khi Chu-võ-Vương diệt được nhà Thương, bình định thiên hạ, tiếp tục theo chính sách Chu-văn-Vương, được vài năm Ông mất, truyền ngôi lại cho Chu-thành-Vương, vì tuổi cò nhỏ, nên việc triều chánhTây-Chu mọi việc đều do Chu-Công (em của Chu-võ-Vương) phù trợ Chu-thành-Vương nhiếp chánh. Sau 3 năm Chu-Công cầm quân bình định phía Đông do Võ-Canh (con vua Trụ thụ phong bởi Chu-võ-Vương làm vương nước Tống) hợp với 2 anh em Thái và Quản làm phản, sau 7 năm giúp Chu-thành-Vương ổn định các Chư hầu, Chu-Công trao quyền lại cho Chu-thành-Vương.

 (6) Tại sao việc chia tay tôi lại gọi đó là "Hoà"? Như tôi đã nói Lạc-long Quân là người đi trước thời-gian, trong lần đi sứ qua Tây-Chu, ông nhận

thấy các chư hầu bên Trung-Hoa đánh nhau vì chữ "Đế" và "Vương", nên khi làm vua ông chỉ dùng chữ "Quân", khi làm vua ông ra luật người làm vua gọi "Hùng-vương" họ "Hồng-Bàng", 2 chữ "Hùng-vương"cho các chư hầu khác biết đó chỉ là cái chức trong nước Văn-Lang, cho nên 18 vị vua đều gọi Hùng-Vương, còn họ Hồng-Bàng, để tránh bà Âu-Cơ ganh tị "sao con làm vua không là họ Đế", thật ra các người con khác đều mang họ mẹ, nếu không có luật này, thì người con kế ngôi Ông cũng nhận mình là họ Đế, như thế cả tộc Lạc-Việt sẽ bị đồng hóa theo tộc Bách-Việt, cho nên khi chia con Âu-Cơ dẩn 50 con lên núi, đó là vùng núi Bách-Việt, Lạc-long-Quân dẩn 50 con xuống biển, đó là vùng biển của Lạc-Việt, từ việc kết nghĩa vợ chồng giữa

Lạc-long-Quân và Âu-Cơ có thể là sự sắp đặt của Đế-Lai đem con gái mình Âu-Cơ gã cho chú là Sùng-Lãm, rồi đời vua kế tiếp Lạc-long-Quân cùng là họ Đế, như thế tộc Lạc-Việt sẽ đồng hóa bởi giòng họ Đế, không phải vì đồng hóa mà sẽ mất luôn cả nước Văn-Lang, Lạc-long-Quân muốn nước Việt được tồn tại bởi sự hiện diện của một triều đại nối liền bởi những vị vua Hùng-Vương độc lập với các triều đại Bắc phương, không may chỉ truyền được 18 vị vua Hùng-Vương trong  821  năm chấp chánh trên cùng một đất nước, gắng liền 15 bộ-lạc thành một dân-tộc kiên cường của nước Văn-Lang đóng đô tại Phong-Châu.

Đây là một dữ-kiện lịch-sử cho tộcViệt nghĩ lại về quan-điểm "Tam-Bình" của lạc-long-Quân có khác gì quan-điểm "Tự-do, dân-chủ, nhân-quyền và công - bằng " mà hiện nay chúng ta đương đối đầu, chúng ta sẽ thấy "Tam-Bình" bao gồm tất cả tư-tưởng mà chúng ta mong muốn. Tư-tưởng này Lạc-long-Quân đã thực hiện trên đất Việt-Nam từ trước hơn 3, 200 năm.

 

Được-Lời (LKC ngày 31-01-2013)

 

 Kính chúc mọi người

 

 AN-KHANG và PHÚC THỌ

 MAY-MẮN TRỌN NĂM Quý-Tỵ

 

 Chúc tết

 

 Năm củ qua rồi năm mới đến.

 Gởi lời chúc tết đến đầu năm.

 Chúc cho trăm họ đều may-mắn.

 Năm mới yên vui với được lời.

 Lược đời chuyện tốt đến quanh năm.

 Mua may phát đạt cùng đắc-lợi.

 Đích-lạc bình-an lời chúc tết.

 Bạn hiền trăm tuổi thọ an-khang.

 

 Liên-khôi-Chương 

 (Ngày 31-01-2013)

 

 

______________

 

 

Liên-khôi-Chương
Được-Lời (LKC)
8/2014

 

 

 

 

 

Trang Thơ & Truyện: LIÊN KHÔI CHƯƠNG               |                 www.ninh-hoa.com